SKKN Một số biện pháp chỉ đạo dạy học nhằm bồi dưỡng cách dùng từ cho học sinh lớp 5 trong phân môn Tập làm văn - Thể loại văn miêu tả (tả người) ở trường Tiểu học Thiệu Tâm

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo dạy học nhằm bồi dưỡng cách dùng từ cho học sinh lớp 5 trong phân môn Tập làm văn - Thể loại văn miêu tả (tả người) ở trường Tiểu học Thiệu Tâm

Cuộc sống xung quanh ta có biết bao điều kì diệu vẫn diễn ra từng ngày, từng giờ: Tiếng chim hót, tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng lòng xôn xao thổn thức, sự vươn mình trỗi dậy của những mầm cây,. Nhưng không phải học sinh nào cũng có đủ năng lực, sự nhạy cảm, sự tinh tế để có thể cảm nhận được, tưởng tượng được và đặc biệt là lưu giữ lại, làm sống lại những khoảnh khắc, những dáng nét, những quá trình đó, để không chỉ cho riêng mình mà còn giúp những người khác có thể hình dung được những đặc điểm tính chất nổi bật của các sự vật, sự việc, con người, phong cảnh, làm cho các đối tượng đó như đang hiện ra trước mắt mình, trước người đọc, người nghe. Có rất nhiều thể loại làm văn giúp các em có thể phát triển được kĩ năng này nhưng nổi bật nhất vẫn là thể loại văn miêu tả.

Trong chương trình giáo dục ở Tiểu học, các em được học phân môn Tập làm văn bắt đầu từ lớp 2. Điều này rất phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi các em. Ở độ tuổi này, các em thích quan sát, tò mò ham hiểu biết, thích những cái mới lạ,. Vì thế phân môn này sẽ góp phần thúc đẩy các em tới thế giới xung quanh mình, khơi gợi cho các em lòng yêu thiên nhiên, con người, yêu thích cái đẹp, đặc biệt phát huy khả năng ngôn ngữ cho các em. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và chính điều này đã hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cũng từ đó, hình thành cho học sinh những năng lực cảm xúc, óc thẩm mĩ, sáng tạo, phát triển trí thông minh, sự nhạy cảm của tâm hồn trẻ. Những cảm xúc thẩm mĩ ấy, thể hiện được lí tưởng thẩm mĩ cao đẹp của thời đại; đồng thời hướng các em tới những giá trị Chân - Thiện – Mĩ, bồi dưỡng tâm hồn và nhân cách cho thế hệ trẻ.

 

doc 18 trang thuychi01 9270
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo dạy học nhằm bồi dưỡng cách dùng từ cho học sinh lớp 5 trong phân môn Tập làm văn - Thể loại văn miêu tả (tả người) ở trường Tiểu học Thiệu Tâm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Cuộc sống xung quanh ta có biết bao điều kì diệu vẫn diễn ra từng ngày, từng giờ: Tiếng chim hót, tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng lòng xôn xao thổn thức, sự vươn mình trỗi dậy của những mầm cây,... Nhưng không phải học sinh nào cũng có đủ năng lực, sự nhạy cảm, sự tinh tế để có thể cảm nhận được, tưởng tượng được và đặc biệt là lưu giữ lại, làm sống lại những khoảnh khắc, những dáng nét, những quá trình đó, để không chỉ cho riêng mình mà còn giúp những người khác có thể hình dung được những đặc điểm tính chất nổi bật của các sự vật, sự việc, con người, phong cảnh, làm cho các đối tượng đó như đang hiện ra trước mắt mình, trước người đọc, người nghe. Có rất nhiều thể loại làm văn giúp các em có thể phát triển được kĩ năng này nhưng nổi bật nhất vẫn là thể loại văn miêu tả.
Trong chương trình giáo dục ở Tiểu học, các em được học phân môn Tập làm văn bắt đầu từ lớp 2. Điều này rất phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi các em. Ở độ tuổi này, các em thích quan sát, tò mò ham hiểu biết, thích những cái mới lạ,... Vì thế phân môn này sẽ góp phần thúc đẩy các em tới thế giới xung quanh mình, khơi gợi cho các em lòng yêu thiên nhiên, con người, yêu thích cái đẹp, đặc biệt phát huy khả năng ngôn ngữ cho các em. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và chính điều này đã hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cũng từ đó, hình thành cho học sinh những năng lực cảm xúc, óc thẩm mĩ, sáng tạo, phát triển trí thông minh, sự nhạy cảm của tâm hồn trẻ. Những cảm xúc thẩm mĩ ấy, thể hiện được lí tưởng thẩm mĩ cao đẹp của thời đại; đồng thời hướng các em tới những giá trị Chân - Thiện – Mĩ, bồi dưỡng tâm hồn và nhân cách cho thế hệ trẻ.
Cũng từ yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học. Từ đó phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của mỗi học sinh. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Giáo dục - Đào tạo nhằm hình thành và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay của đất nước.
Trong quá trình công tác giảng dạy và chỉ đạo chuyên môn ở Tiểu học, tôi nhận thấy ở phân môn Tập làm văn, giáo viên không chỉ vững về chuyên môn mà còn phải có vốn hiểu biết về vốn từ ngữ phong phú, đa dạng và sâu sắc sát với thực tế, phải luôn luôn gần gũi, thân thiện với mọi học sinh. Từ đó dẫn dắt, giúp các em luôn có ý thức khám phá ra nhiều điều mới mẻ, thú vị trong quá trình học; giúp cho các em có sự hứng thú, say mê và óc sáng tạo linh hoạt khi học. Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học là: Không áp đặt, không nhồi nhét, không làm thay mà chỉ gợi mở để học sinh dùng từ ngữ xếp ý, đặt câu, lập dàn ý,...
Với yêu cầu thực tế hiện nay, chúng ta đang thực hiện việc nâng cao kết quả bài làm văn của học sinh. Nghĩa là chúng ta đang hướng tới những bài văn hay của các em trong khi có không ít giáo viên gặp nhiều khó khăn. Qua quá trình thực tế giảng dạy, chỉ đạo, tôi nhận thấy vấn đề sử dụng vốn “từ ngữ” trong phân môn tập làm văn là một trong những then chốt cơ bản nhất, giúp học sinh có vốn từ cơ bản, diễn đạt lưu loát, nhanh mà vẫn đảm bảo được tính chính xác, phù hợp, có tình cảm chân thật, mà sâu sắc, có hình ảnh rõ nét, có sức thuyết phục nhất làm nổi bật những câu đúng, ý đúng, ý hay trong mỗi bài làm văn của mình.
Xuất phát từ những lí do trên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo dạy học nhằm bồi dưỡng cách dùng từ cho học sinh lớp 5 trong phân môn Tập làm văn - thể loại văn miêu tả (tả người) ở trường Tiểu học Thiệu Tâm”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp dạy môn Tập làm văn lớp 5.
- Tìm hiểu một số biện pháp chỉ đạo dạy học về cách dùng từ cho học sinh lớp 5 nhằm nâng cao hiệu quả học tập của học sinh thông qua phân môn Tập làm văn.
- Tìm hiểu thể loại văn miêu tả (tả người) của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thiệu Tâm. 
- Đưa ra một số biện pháp chỉ đạo dạy học nhằm dẫn dắt học sinh khi học phân môn Tập làm văn, thể loại văn miêu tả (tả người) ở học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thiệu Tâm năm học 2016 - 2017.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp chỉ đạo dạy học nhằm bồi dưỡng cách dùng từ cho học sinh lớp 5 trong phân môn Tập làm văn - thể loại văn miêu tả (tả người) ở trường Tiểu học Thiệu Tâm.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện tốt đề tài này tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm.
2. Nội dung:
2.1. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết, vận dụng ngôn ngữ để giao tiếp nghĩa là để trao đổi ý nghĩ và tình cảm của nhau, hiểu biết và cảm thông lẫn nhau. Không có giao tiếp, con người không thể sống thành cộng đồng, thành xã hội. Tức là không thể sống thành người. Khi giao tiếp lời nói cần phải có nội dung và hình thức, có khi ngắn gọn trong một hai câu, có khi kéo dài, mở rộng thành nhiều câu. Giao tiếp giữa người với người trong xã hội có thiên hình vạn trạng, cho nên lời nói của con người với con người cũng có muôn màu nghìn vẻ. Lời nói vốn là âm thanh phát ra rồi mất đi. Để lời nói khỏi mất đi, người ta dùng đến chữ viết. Nhờ chữ viết, lời nói được ghi lại thành lời văn.
Do vậy khi nói con người nói thành lời nói; khi viết con người viết thành lời văn. Lời văn phải có ý, có tình, phải thành câu, thành đoạn, thành bài. Câu là đơn vị nhỏ nhất của lời nói hay lời văn. Câu thường gồm nhiều từ, mỗi từ có ít nhất một nghĩa, ghép lại thành câu để diễn đạt một ý. Khi một câu diễn đạt chưa hết ý thì phải dùng đến nhiều câu, nhiều câu hợp lại thành một đoạn. Nhiều đoạn hợp lại thành một bài. Nếu một bài không chứa hết những điều cần nói, cần viết thì phải mở rộng ra thành quyển sách gồm nhiều đoạn, nhiều chương, nhiều phần.
Học làm văn chính là tập viết thành câu, thành đoạn, thành bài với những cảm xúc, kinh nghiệm, suy nghĩ, nhận xét ý kiến, v.v... của mình để cho người khác cảm được, hiểu và biết được một cách đầy đủ, đúng đắn. Do đó, học làm văn là rèn luyện ngôn ngữ, ngôn từ. Đồng thời, học làm văn là phát triển các năng lực trí tuệ, tâm hồn, góp phần phát triển thành nhân cách của con người.
Khi học Tập làm văn thường được bắt đầu bằng lối văn miêu tả. Miêu tả là dùng lời nói hay lời văn làm sống lại một sự vật, một cảnh tượng, một con người; làm sao cho người nghe, người đọc có thể tưởng tượng điều đó như đang ở trước mắt. Tả một bông hoa, phải làm sao cho người đọc như cảm nhận được hình dáng, màu sắc, mùi thơm của bông hoa. Tả một dòng sông hay một khu rừng, phải làm sao cho người đọc tưởng tượng như đang đứng trước dòng sông hay đang đi trong khu rừng đó.
Khi tả vật, tả người đều phải như vậy. Tóm lại văn miêu tả có khả năng tái hiện đối tượng miêu tả trong cảm giác, tri giác, tưởng tượng của người đọc.
2.2. Thực trạng:
2.2.1. Khảo sát chất lượng.
Với thực tế giảng dạy và là một người quản lí ở trường Tiểu học, tôi thấy việc dùng từ khi làm bài văn miêu tả (tả người) của học sinh còn nhiều hạn chế. Xác định rõ được mục tiêu của vấn đề tôi đã tiến hành khảo sát học sinh khối 5 với đề bài như sau: Em hãy tả hình dáng, tính tình cô giáo (thầy giáo) đã dạy em trong những năm học trước mà em nhớ nhất.
Sau khi chấm bài của học sinh lớp 5 kết quả thu được như sau:
Khối lớp
Số học sinh khảo sát
Thời điểm khảo sát
Kết quả
5
69
30/11/2016
Mức đạt được
SL
%
Hoàn thành tốt
0
0
Hoàn thành 
55
79,7
Chưa hoàn thành 
14
20,3
2.2.2. Thực trạng việc sử dụng ngôn từ của học sinh.
Sau khi chấm bài làm của học sinh, bản thân tôi nhận thấy tình trạng chung của khối là các em làm bài còn theo khuôn mẫu, cứng nhắc, thiếu sự sáng tạo. Trong khi đó rất nhiều em sử dụng từ ngữ chưa sát với thực tiễn, sai mục đích, yêu cầu, thậm chí còn làm sai lệch một nội dung, một vấn đề trong khi làm bài.
Ví dụ: Có em viết:
“Cô giáo em cổ cao 2,7 mét” (bài làm của em Kế - lớp 5B). Hay trong phần kết luận của em Việt Anh lớp 5A có viết: “Em rất tình thân Tùng, bởi bạn ấy luôn luôn quan tâm, giúp đỡ em trong suốt cả đời người”.[2]
Khi học sinh làm bài viết ở tiết kiểm tra viết - Tuần 16 (sách giáo khoa Tiếng việt 5 - tập 1 - trang 159), có yêu cầu các em chọn một trong các đề sau để thực hiện yêu cầu của bài, thì có em lựa chọn đề bài: “Tả một bạn học của em” để thực hiện bài làm của mình, có em viết như sau:
+ “Mai lúc nào cũng giữ cho mình một vóc dáng mảnh khảnh, khẳng khiu như que củi. Bạn ấy nặng 101 ki lô gam. Bắp tay, bắp chân của bạn mập ú”[2].
+ “Cặp lông mày của bạn ấy giống hệt như nửa đường tròn đặt trên trán”[2].
+ “Bạn có mái tóc dài và đen mượt như những hòn than”[2].
Qua một số câu văn miêu tả trên, học sinh cũng đã biết cách dùng biện pháp nghệ thuật như so sánh để tả. Các em cũng đã biết cách quan sát thực tiễn để đưa vào bài làm của mình, nhưng các em dùng từ ngữ chưa chính xác, chưa sát thực ví dụ: “Cặp lông mày giống như nửa đường tròn” hay “Mai có vóc dáng mảnh khảnh, khẳng khiu như que củi mà lại nặng 101 ki lô gam, có bắp tay, bắp chân mập ú” hoặc “Bạn có mái tóc được ví như những hòn than”,... làm cho câu văn mất đi cái đúng, cái thực, cái hay, cái sắc nét của nó.
Thực tế việc dạy Tập làm văn nói chung, đặc biệt là văn miêu tả nói riêng, rất cần sự hỗ trợ của phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu,...
Nhưng ở phân môn Tập đọc, học sinh được học rất ít các bài tập đọc miêu tả người riêng biệt, dẫn đến học sinh ít được cảm thụ văn học qua thể loại này. Cũng như phân môn Luyện từ và câu, suốt cả quá trình học, học sinh học thể loại văn miêu tả người từ tuần 12 đến tuần 21 nhưng các em chưa được học về mở rộng vốn từ có liên quan. Mãi đến tuần 30,31,33,34 học sinh mới được học về mở rộng vốn từ về: Nam- nữ, trẻ em, quyền và bổn phận. Do vậy rất khó khăn cho giáo viên cũng như việc làm văn của học sinh ở thể loại văn miêu tả người.
Với việc khảo sát bước đầu và qua thực tiễn giảng dạy, chỉ đạo tôi nhận thấy: Vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh chưa phong phú. Nhiều lúc các em tìm hiểu, nhận xét bằng cảm tính, nghĩ gì thì viết vậy, chưa có sự chọn lọc về ngôn ngữ. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn, tổ chức cho các em biết quan sát, nhận xét thực tế về đối tượng mà các em miêu tả. Có rất nhiều em hiểu về bản chất của sự vật, sự việc các em định tả, song vốn từ ngữ của các em còn quá nghèo nàn nên chưa biết chọn lọc, sử dụng như thế nào để sát với thực tế, để gợi tả và truyền tải được cảm xúc. Chính điều đó dẫn đến bài làm khô khan, câu, ý lủng củng, nên chất lượng bài làm đạt hiệu quả chưa cao.
Từ việc theo dõi kết quả kiểm tra, đánh giá đã tìm ra nguyên nhân. Tôi đã vận dụng một số biện pháp để chỉ đạo nâng cao chất lượng trong giảng dạy nhằm thúc đẩy sự phát huy khả năng của học sinh trong việc tự chiếm lĩnh tri thức, chủ động sáng tạo trong học tập.
2.3. Một số biện pháp chỉ đạo dạy học nhằm bồi dưỡng cách dùng từ cho học sinh lớp 5 trong phân môn Tập làm văn - thể loại văn miêu tả (tả người):
2.3.1. Chỉ đạo giáo viên thực hiện công tác tự học, tự bồi dưỡng: 
 Nếu chỉ dừng lại ở những kiến thức mà giáo viên được học trong trường
sư phạm là chưa đủ. Trong thực tế giảng dạy, để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bắt kịp với quá trình Hiện đại hóa và xu thế phát triển của sự nghiệp giáo dục thì giáo viên cần phải tự học, tự bồi dưỡng, đặc biệt là công tác bồi dưỡng thường xuyên theo chỉ đạo của cấp trên. Mỗi giáo viên phải là tấm gương tự học, tự sáng tạo. Vì thế tôi đã chỉ đạo và luôn khuyến khích tất cả các giáo viên tự học hỏi, tự nghiên cứu để nâng cao vốn hiểu biết, nâng cao trình độ, kiến thức qua nhiều nguồn như: sách tham khảo, các tài liệu cũng như các video dạy học trên mạng Internet, Đặc biệt là trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp qua những buổi sinh hoạt chuyên môn để củng cố kiến thức, học hỏi lẫn nhau, rút kinh nghiệm hữu ích cho bản thân.
2.3.2. Chỉ đạo giáo viên thực hiện việc làm phong phú vốn từ cho học sinh. 
Làm phong phú vốn từ cho học sinh là một trong những bước vô cùng quan trọng trong quá trình giảng dạy. Để thực hiện cho việc thuyết trình hoặc chuẩn bị cho một bài làm văn thì vốn từ là một trong những yếu tố then chốt để tạo thành lời văn, câu văn,... nhằm giúp học sinh có vốn từ ngữ phong phú. Muốn làm được như vậy giáo viên cần phải chuẩn bị thật tốt những tiết Luyện từ và câu để áp dụng vào giảng dạy, đặc biệt cần quan tâm đến việc mở rộng vốn từ cho học sinh. Tôi đã chỉ đạo giáo viên xây dựng vốn từ cho học sinh một cách có hệ thống thông qua các câu hỏi gợi mở,... ngoài những vốn từ mà sách giáo khoa đã giới thiệu cho học sinh, giáo viên cần khai thác thêm cho học sinh vốn từ ngữ trong đời sống hằng ngày của dân gian, dưới nhiều hình thức tổ chức khác nhau như đố vui, trò chơi,... để làm thay đổi không khí qua từng tiết học. Một phần động viên khuyến khích cho học sinh hứng thú qua từng tiết học để từ đó giúp học sinh tiếp thu bài tích cực hơn, khả năng ghi nhớ bài học một cách chủ động hơn và ghi nhớ kiến thức một cách bền vững hơn.
Ví dụ: Để dạy tiết Luyện từ và câu ở các tiết mở rộng vốn từ: “Truyền thống” giáo viên tổ chức hướng dẫn cho học sinh tìm các từ ngữ: Từ đơn, từ ghép, từ láy xếp vào các từ tương ứng thuộc từ loại: Danh từ, động từ, tính từ, hoặc tìm những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về nội dung, chủ đề đó như:
+ Về tình thầy trò: Không thầy đố mày làm nên, một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy,...
+ Về người thân: Anh em như thể tay chân
 Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần.
 Hay: Môi hở răng lạnh, Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ,....
+ Về tình bạn: Bạn con chấy cắn đôi, học thầy không tày học bạn,...
...
Từ đó hướng dẫn cho các em thi tìm nhanh từ gần nghĩa thuộc mảng kiến thức, ví dụ như: Tìm từ gần nghĩa với từ “xinh đẹp”. Lúc này học sinh rất có hứng thú tìm và các em đã tìm được: Xinh tươi, xinh xắn, xinh xinh...
Sau đó giáo viên giúp học sinh tái hiện lại kiến thức cũ mà các em đã học trước đó, ở các lớp dưới như các tiết Luyện từ và câu: “Mở rộng vốn từ: Lạc quan - yêu đời, dũng cảm, sức khỏe,...”
Giáo viên có thể đưa ra một hệ thống bài tập có dạng: Tìm những từ ngữ có khái niệm “đẹp”. Nhằm giúp các em tìm được một số từ ngữ như: mảnh mai, thanh thanh, thanh lịch, tuấn tú, khôi ngô, kháu khỉnh, điềm đạm, nết na,
Để hỗ trợ cho học sinh học tốt các yêu cầu tiếp theo về tả người như tả: Ông, bà, hoặc tả một chú công an đang làm nhiệm vụ,... giáo viên cần giúp học sinh tìm ra được vốn từ trong mỗi tiết Tập làm văn ứng với từng yêu cầu của mỗi bài học để học sinh tham khảo.
Ví dụ: Thông qua hình thức trò chơi “Tìm những từ ngữ thường dùng khi miêu tả về một cụ già?”. Học sinh sẽ rất hứng thú đưa ra một số từ: da đồi mồi, da nhăn nheo, gầy guộc, xuất hiện những gân xanh nổi lên như những con giun, tóc bạc như một ông tiên, phúc hậu, móm mém,...
Hay thông qua hoạt động nhóm, giáo viên yêu cầu học sinh: Tìm các từ miêu tả đặc điểm ngoại hình, nội tâm, trí tuệ của con người?
Thông qua hoạt động này giáo viên giúp học sinh tìm và xếp các từ miêu tả tìm được vào các nhóm sau:
+ Miêu tả ngoại hình: Cao, thấp, gầy, béo, phục phịch, đẫy đà, lực lưỡng, tầm thước, cân đối, mập mạp, vạn vỡ, mảnh mai, thon thả,
+ Miêu tả nội tâm: hiền, ác, thẳng thắn, trung thực, đôn hậu, gian ác, nóng nảy, điềm đạm, chắc chắn, cương trực, cởi mở, hòa nhã, nhu nhược,
+ Miêu tả trí tuệ: Thông minh, khôn ngoan, ngốc nghếch, hoạt bát, lanh lợi,
Hoặc khi yêu cầu học sinh thực hiện đề bài “Em hãy tả một em bé đang tập đi”, có nhiều em đã đáp ứng được yêu cầu của đề bài đưa ra. Nhưng bài làm của các em còn nghèo nàn về vốn từ, các em mới chỉ biết sử dụng duy nhất một từ ngữ “Em bé chập chững bước đi từng bước một” để tả về bước đi của em bé. Nhiều giáo viên đôi khi không để ý đến, nhưng nếu ta sưu tầm từ ngữ thường dùng trong cuộc sống thì chúng ta sẽ bắt gặp có người dùng từ ngữ tả bước đi “chập chững” bằng các từ: lò dò, lẫm chẫm,...
Người giáo viên dạy tốt phần này, chính là đã giúp học sinh có vốn từ ngữ phong phú. Từ đó, sẽ giúp các em có thể chọn lọc để miêu tả các chi tiết trong bài làm của mình có sự lựa chọn rõ nét, sinh động về vốn từ ngữ thể hiện được cái dáng vẻ riêng biệt về cái thật, cái hồn, cái thần của mỗi người được thể hiện qua từng bài viết.
2.3.3. Chỉ đạo giáo viên thực hiện việc làm giàu hình ảnh văn học cho học sinh thông qua một số bài học:
Tôi thường xuyên chỉ đạo giáo viên hướng dẫn học sinh thông qua tất cả các bài tập đọc, học thuộc lòng, kể chuyện,... để học sinh biết được cách tả, cách viết, cách dùng biện pháp tu từ và hiệu quả nghệ thuật của tác giả khi miêu tả.
Điều này nhiều giáo viên chưa để ý đến. Song nó giúp học sinh rất nhiều khi làm bài Tập làm văn. Mỗi khi dạy xong một bài tập đọc, học thuộc lòng,... có những đoạn văn hay nào chúng ta cần yêu cầu học sinh học thuộc lòng đoạn văn đó, hay chép vào một cuốn sổ tay tích lũy về văn học. Điều này cũng không đồng nghĩa với dạy cho học sinh sao chép văn bản, mà mục đích là giúp học sinh học cách dùng từ, cách diễn đạt, sau đó vận dụng để làm bài văn của mình một cách linh hoạt, phù hợp với nội dung từng yêu cầu cụ thể mà đề bài yêu cầu.
Ví dụ trong bài: “Bà tôi” (Sách giáo khoa Tiếng việt 5- Tập 1- Trang 122). Nhiều em đã thuộc lòng cả đoạn như:
+ “Bà tôi ngồi cạnh tôi, chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả hai vai, xõa xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm trên tay, bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mái tóc dày.”
+ “Giọng bà trầm bổng, ngân nga như tiếng chuông. Nó khắc sâu vào trong trí nhớ tôi dễ dàng, và như những đóa hoa, cũng dịu dàng, rực rỡ, đầy nhựa sống. Khi bà mỉm cười, hai con ngươi đen sẫm nở ra, long lanh, dịu hiền khó tả, đôi mắt ánh lên những tia sáng ấm áp, tươi vui. Mặc dù trên đôi má ngăm ngăm đã có nhiều nếp nhăn, khuôn mặt của bà tôi hình như vẫn tươi trẻ.”
Hay bài: Hạng A Cháng - Sách giáo khoa Tiếng việt 5 - Tập 1- trang 119. Ở bài này giáo viên cần xác định được cách dùng từ miêu tả để từ đó giúp học sinh nhận ra được cách dùng từ để miêu tả về:
+ Hình dáng của Hạng A Cháng (Sức khỏe của Hạng A Cháng): Ngực nở vòng cung, da đỏ như lim, bắp tay bắp chân rắn như trắc gụ, vóc cao, vai rộng, người đứng thẳng như cái cột đá trời trồng, khi đeo cày trông hùng dũng như một tràng hiệp sĩ cổ đeo cung ra trận.
+ Hoạt động, tính tình: Lao động chăm chỉ, cần cù, say mê, giỏi, tập trung cao độ đến mức chăm chắm vào công việc.
Học đến bài: “Hạt gạo làng ta” của tác giả Trần Đăng Khoa (sách giáo khoa Tiếng việt 5 - Tập 1- Trang 139). Ở khổ thơ thứ 2:
“Hạt gạo làng ta
 Có bão tháng bảy
 Có mưa tháng ba
 Giọt mồ hôi sa
 Những trưa tháng sáu
 Nước như ai nấu
 Chết cả cá cờ
 Cua ngoi lên bờ
 Mẹ em xuống cấy...”
Qua khổ thơ trên, giáo viên cần giúp cho học sinh cảm nhận được thiên nhiên, đất nước ta dù khắc nghiệt, bão dập, nắng lửa, mưa dầm nhưng người nông dân vẫn không quản vất vả nhọc nhằn, vẫn xuống đồng lao động sản xuất để làm ra những hạt gạo dẻo thơm chi viện cho tiền tuyến. Qua đó giáo viên giúp học sinh tái hiện về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam tần tảo, một nắng hai sương, lam lũ cực nhọc, cần cù trong lao động, cũng chính từ đây các em hiểu thêm về đức tính cần mẫn, chịu thương, chịu khó của những người mẹ Việt Nam từ bao đời nay. 
Ngoài những câu văn, đoạn văn hay trong sách giáo khoa, những bài hát,... giáo viên nên sưu tầm và đọc cho học sinh nghe những câu, đoạn văn miêu tả hay của một số bài văn mẫu hoặc đạt giải cao trong các kì thi,...
Ví dụ: Đoạn bài văn mẫu của tác giả Đặng Phương Anh tả về người bà như sau: “... Bà nhìn tôi đôi mắt nhăn nheo vì chói nắng, cặp lông mày rậm, lốm đốm bạc của bà nhíu lại, vừa nói bà vừa cười vui, để lộ hàm răng đen và khấp khểnh. Dáng người nhỏ nhắn của bà đang lom khom tưới rau, bắt sâu. Bà tôi ngoài bảy mươi tuổi rồi tóc trên đầu đã bạc phơ. Bà trùm một chiếc khăn vuông bạc màu che kín đầu chỉ còn chìa ra đôi tai to và dày như tai phật. Bà mặc bộ quần áo vải thô, rộng thùng thình so với thân hình gầy guộc của bà. Hai má bà đã hóp, thái dương hơi nhô, tay chân có chỗ bắt đầu xương xẩ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_day_hoc_nham_boi_duong_cach_du.doc