Sáng kiến kinh nghiệm Chỉ đạo duy trì tỷ lệ học sinh chuyên cần đối với học sinh dân tộc thiểu số

Sáng kiến kinh nghiệm Chỉ đạo duy trì tỷ lệ học sinh chuyên cần đối với học sinh dân tộc thiểu số

Cơ sở lí luận

 Tiểu học là cấp học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nơi tạo những kiến thức ban đầu cơ bản và bền vững cho trẻ em tiếp tục học lên cấp học cao hơn. Nhà trường Tiểu học có vị trí, chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ em, là nơi tổ chức một cách tự giác quá trình phát triển đúng đắn, lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng học tập, rèn luyện của học sinh. Mục tiêu, nhiệm vụ của trường Tiểu học là đem đến cho trẻ em hạnh phúc được học tập, là làm cho trẻ em được hưởng thụ một nền giáo dục tốt đẹp .

 Việc duy trì sĩ số hằng ngày trong các trường học, là một chủ trương lớn của ngành giáo dục nhằm cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng các cấp, đây là giải pháp có tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và bồi dưỡng những tài năng của đất nước.

 Vì chỉ trên cơ sở của sự phát triển phong phú, hài hoà có tính toàn diện của nhân cách thì tài năng con người mới có điều kiện nảy nở và phát triển một cách cơ bản và bền vững. Ở trường Tiểu học việc duy trì tốt sĩ số học sinh hằng ngày, học sinh được giáo dục toàn diện, được học đủ các môn học theo quy định, được thực hiện các hoạt động khác; đặc biệt các em được học các thầy cô giáo có tâm huyết, có tay nghề và tinh thần trách nhiệm cao, các em có đầy đủ các điều kiện và phương tiện học tập, các em được phát triển trong môi trường giáo dục đầy đủ, lành mạnh. Trong điều kiện đó, mỗi học sinh sẽ được phát triển khả năng của mình để đạt chất lượng cao, để trở thành học sinh giỏi và là tiền đề cơ bản để trẻ em tiếp tục phát triển và xuất hiện những tài năng sau này, các em sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước. Với địa bàn dân cư nơi trường Tiểu học Lê Lợi đóng là buôn đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, kinh tế còn nghèo, tri thức còn rất hạn chế, cuộc sống tự do không có nề nếp khuôn khổ, các em thích chơi xong chưa xác định được việc học là quan trọng, dẫn đến bỏ học nhiều, với bản thân là một cán bộ quản lí tôi luôn trăn trở phải làm sao để học sinh thích đến trường và sĩ số học sinh các lớp hằng ngày đều đông đủ?

 

doc 17 trang hoathepmc36 28/02/2022 5302
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Chỉ đạo duy trì tỷ lệ học sinh chuyên cần đối với học sinh dân tộc thiểu số", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Ñeà taøi:
MOÄT VAØI KINH NGHIEÄM CHÆ ÑAÏO DUY TRÌ TỶ LỆ CHUYÊN CẦN ĐỐI VỚI HOÏC SINH DAÂN TOÄC THIEÅU SOÁ
Phần I : PHẦN MỞ ĐẦU
	1. Lý do chọn đề tài
	 Việc duy trì sĩ số đảm bảo chuyên cần ở trường Tiểu học đóng một vai trò rất quan trọng trong việc học tập của học sinh. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ, mang lại kết quả cao trong việc học tập rèn luyện ở trường Tiểu học.
 	 Để duy trì, nâng cao hiệu quả công tác phổ cập giáo dục tiểu học và đạt chỉ tiêu phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, đòi hỏi một trong những điều kiện không thể thiếu đó là : “ Duy trì sĩ số cho học sinh nói chung và học sinh dân tộc nói riêng ” . Đây là vấn đề mà các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương quan tâm, chỉ đạo bằng các Nghị quyết của Đảng bộ các cấp và Chi bộ nhà trường.
 	Công tác duy trì sĩ số chống học sinh bỏ học trong trường Tiểu học có ý nghĩa hết sức quan trọng, đây là giải pháp tích cực để đáp ứng yêu cầu xã hội góp phần thắng lợi trong công tác Phổ cập THĐĐT ở địa phương.
	Trường Tiểu học Lê Lợi là một đơn vị có 87% học sinh dân tộc thiểu số thuộc buôn đặc biệt khó khăn, có lẽ việc thực hiện tốt công tác giảng dạy giúp các em tiếp thu kiến thức không thôi thì chưa đủ. Bởi, việc các em có được kiến thức vững chắc không chỉ phụ thuộc vào việc dạy của người thầy, người cô mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan tác động. Trong đó, việc làm sao để các em đến trường thường xuyên và đông đủ không đơn giản rồi. Vốn quen sống tự do theo ý thích, lại chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học nên với nhiều em khi bị đưa vào “khuôn khổ” thì quả là như một “cực hình”... Chính vì điều này mà không ít em học sinh, nhất là những học sinh mới đến trường, luôn có ý định bỏ buổi, nghỉ học... Những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học không còn diễn ra nhiều như trước, nhưng hiện tượng nghỉ học cách nhật, đặc biệt là vào mùa vụ hay các dịp lễ tết, vẫn luôn xảy ra. Là người làm công tác quản lý tại một trường Tiểu học, tôi hiểu rõ vấn đề cấp bách của công tác duy trì sĩ số, chống học sinh bỏ học, bỏ buổi để nâng cao chất lượng giáo dục, đảm bảo chất lượng cho học sinh. Qua các năm học thực hiện một số biện pháp vận động học sinh ra lớp, duy trì sĩ số, tôi cũng đã tự rút ra được những kinh nghiệm riêng trong công tác chỉ đạo của mình. Và vì thế, tôi đã chọn đề tài “ Một vài kinh nghiệm chỉ đạo duy trì tỷ lệ học sinh chuyên cần đối với học sinh dân tộc thiểu số” hy vọng chia sẻ với các bạn đồng nghiệp những giải pháp, kinh nghiệm của mình.
	2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài.
 	Nhiệm vụ cơ bản của sáng kiến: Là đưa ra một số biện pháp vận động trẻ đến lớp, đến lớp đông đủ mỗi buổi học đối với trẻ Tiểu học nói chung và trẻ dân tộc thiểu số ở trường TH Lê Lợi nói riêng.
	Các biện pháp thực tiễn: Lãnh đạo nhà trường và giáo viên cần nắm được tâm lý và nguyện vọng, phong tục tập quán và hoàn cảnh sống của trẻ. Để từ đó xây dựng các phương pháp, hình thức, biện pháp vận động trẻ dân tộc thiểu số đến lớp.
	3. Đối tượng nghiên cứu
Đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy và làm công tác phổ cập trên địa bàn.
Học sinh trong toàn trường đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số.
Báo giáo dục dân tộc.
Các văn bản chỉ đạo các cấp liên quan.
	4. Phạm vi nghiên cứu
 - Đội ngũ các thầy cô giáo và học sinh trường TH Lê Lợi.
 - Cha mẹ, người đỡ đầu học sinh.
 - Các đoàn thể xã hội trên địa bàn trường đóng.
	5. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp tham khảo tài liệu: Phương pháp này giúp cho sự định hướng của sáng kiến.
2. Phương pháp kiểm tra, đánh giá: Tôi kiểm tra sĩ số hằng ngày, phân loại đối tượng, hoàn cảnh nghỉ học của học sinh.
3. Phương pháp thực nghiệm: Đây là phương pháp chính, để kiểm nghiệm những phương pháp và biện pháp nêu ra có liên quan đến sáng kiến kinh nghiệm. Sáng kiến này được thực hiện trên điều kiện thực tế của trường TH Lê Lợi năm học 2013-2014; 2014-2015
 Phần II : NỘI DUNG ĐỀ TÀI
	1. Cơ sở lí luận
 Tiểu học là cấp học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nơi tạo những kiến thức ban đầu cơ bản và bền vững cho trẻ em tiếp tục học lên cấp học cao hơn. Nhà trường Tiểu học có vị trí, chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ em, là nơi tổ chức một cách tự giác quá trình phát triển đúng đắn, lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng học tập, rèn luyện của học sinh. Mục tiêu, nhiệm vụ của trường Tiểu học là đem đến cho trẻ em hạnh phúc được học tập, là làm cho trẻ em được hưởng thụ một nền giáo dục tốt đẹp .
 Việc duy trì sĩ số hằng ngày trong các trường học, là một chủ trương lớn của ngành giáo dục nhằm cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng các cấp, đây là giải pháp có tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và bồi dưỡng những tài năng của đất nước. 
 Vì chỉ trên cơ sở của sự phát triển phong phú, hài hoà có tính toàn diện của nhân cách thì tài năng con người mới có điều kiện nảy nở và phát triển một cách cơ bản và bền vững. Ở trường Tiểu học việc duy trì tốt sĩ số học sinh hằng ngày, học sinh được giáo dục toàn diện, được học đủ các môn học theo quy định, được thực hiện các hoạt động khác; đặc biệt các em được học các thầy cô giáo có tâm huyết, có tay nghề và tinh thần trách nhiệm cao, các em có đầy đủ các điều kiện và phương tiện học tập, các em được phát triển trong môi trường giáo dục đầy đủ, lành mạnh. Trong điều kiện đó, mỗi học sinh sẽ được phát triển khả năng của mình để đạt chất lượng cao, để trở thành học sinh giỏi và là tiền đề cơ bản để trẻ em tiếp tục phát triển và xuất hiện những tài năng sau này, các em sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước. Với địa bàn dân cư nơi trường Tiểu học Lê Lợi đóng là buôn đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, kinh tế còn nghèo, tri thức còn rất hạn chế, cuộc sống tự do không có nề nếp khuôn khổ, các em thích chơi xong chưa xác định được việc học là quan trọng, dẫn đến bỏ học nhiều, với bản thân là một cán bộ quản lí tôi luôn trăn trở phải làm sao để học sinh thích đến trường và sĩ số học sinh các lớp hằng ngày đều đông đủ?
 2. Thực trạng của vấn đề.
Thuận lợi, khó khăn
 * Thuận lợi
 - Trường TH Lê Lợi nằm trên trục đường chính khu vực tập trung dân cư đông đúc nên thuận lợi cho việc đi lại của thầy cô giáo cũng như học sinh. Đội ngũ giáo viên nhà trường đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng. 100% giáo viên được đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn. Đội ngũ giáo viên luôn nhiệt tình, năng nổ và có ý thức trách nhiệm trước công việc được giao. Giáo viên trong trường chủ yếu là người Kinh có nhiều năm công tác giàu kinh nghiệm trong việc dạy học sinh dân tộc.
 - Được sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của ngành giáo dục đào tạo cũng như sự quan tâm của chính quyền địa phương và sự phối hợp đầy trách nhiệm của Ban đại diện CMHS trong công tác giáo dục học sinh. 
 Học sinh vào lớp Một đã qua lớp mẫu giáo, vì vậy các em không còn bỡ ngỡ khi đến trường đến lớp cũng như tham gia vào các hoạt động học tập và vui chơi.
 * Khó khăn
 Trường TH Lê Lợi là một đơn vị thuộc vùng đặc biệt khó khăn.Với trên 95 % dân số trong Buôn là người dân tộc Ê-đê. Là xã thuần nông, tỷ lệ hộ đói nghèo và cận nghèo cao. Trình độ dân trí tương đối thấp, vì thế việc nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ học tập của một bộ phận không nhỏ người dân trong Buôn chưa cao. Năm học 2014-2015: Nhà trường có 10 lớp học. Tổng số học sinh toàn trường 238 em; trong đó 87% là người dân tộc thiểu số. Qua thời gian công tác trên địa bàn có 87% học sinh là người dân tộc thiểu số tôi nhận thấy: 
	+ Về phía học sinh: 
 Hầu hết học sinh DTTS khi vào lớp Một rất hạn chế về ngôn ngữ nói, rụt rè trong giao tiếp, không tự tin làm quen với bạn bè ,cô giáo; thường khóc đòi về khi bố mẹ đưa đến lớp. Do điều kiện sống của học sinh ở nhà được cha mẹ chiều chuộng không cho con giao tiếp xã hội.
 	- Trẻ em thuộc gia đình nghèo, đông con, các em không có áo quần lành lặn để đến lớp như bao bạn khác. Những học sinh này thường mặc cảm, tự ti về hoàn cảnh, tự cho thân phận của mình không bằng bạn bè, tự tách biệt khỏi tập thể, các em luôn cảm thấy lòng tự trọng bị tổn thương và chán nản dẫn đến bỏ học .
 	- Phần đa học sinh dân tộc, bố mẹ các em không biết chữ nên khi đi học về không có ai kèm, dẫn đến học yếu, các em phải ở lại lớp nhiều năm liền cảm thấy xấu hổ không ham muốn đến trường .
 	- Có một số em chưa qua lớp mẫu giáo, chưa làm quen với Tiếng Việt, các em phát âm rất khó, tiếp thu bài cũng chậm đâm ra chán nản và không thích đi học.
 	- Trẻ em thuộc gia đình thiếu bố ( mẹ) hoặc thiếu cả bố lẫn mẹ ; Tức là bố mẹ ly hôn hoặc bố mẹ hay cãi nhau. Số trẻ em này thường có tính khí bất thường, hay quậy phá, hờn giận, đánh nhau, tự ti, lúc nào cũng mặc cảm, tự cho mình thua kém và tự xa lánh bạn bè không đến lớp .
 	- Trẻ em thuộc gia đình có mức kinh tế trung bình, không đông con, nhưng bố mẹ ít quam tâm đến con cái, lo kiếm sống, suốt ngày để các em lêu lổng đua đòi, không quản lý giờ giấc. Số trẻ này rất tự do, bừa bãi, hay quậy phá, học ít chơi nhiều, hay trốn học, thường nói dối cha mẹ, thầy cô, hay cãi lại người lớn, không biết nghe lời, ít có lòng tự trọng và thích rong chơi.
	+ Về phía giáo viên 
 Do bất đồng ngôn ngữ, không hiểu phong tục tập quán của học sinh, phương pháp vận động học sinh đến trường cứng nhắc không khéo léo, thiếu thân thiện nên khi học sinh nghỉ học giáo viên chưa vận động được học sinh đến trường hoặc có vận động nhưng hiệu quả chưa cao. Dẫn đến tỷ lệ học sinh hàng ngày không đảm bảo trong quá trình duy trì sĩ số nhất là đối với các em học sinh mới bước vào lớp Một.
	+ Về phía gia đình học sinh. 
 Trình độ dân trí tương đối thấp cộng với nhiều hủ tục lạc hậu như làm cúng; làm ma, kiêng ... gia đình thường cho con em nghỉ học không lý do. Đời sống của đa số người dân trong Buôn còn gặp nhiều khó khăn nên vào mùa nương rẫy một bộ phận nhỏ học sinh còn hay nghỉ học để phụ giúp công việc gia đình dẫn đến tỷ lệ chuyên cần của các em chưa cao. Phần đa các bậc cha mẹ thường không quan tâm đến việc học tập của con cái mà phó thác toàn bộ cho các thầy cô giáo trong trường. Sự đầu tư cho con cái về thời gian cũng như sách vở, đồ dùng học tập hầu như là không có. Mặt khác, không kiểm tra chặt chẽ việc con em có đến trường trong các buổi học hay không, chỉ khi giáo viên vào nhà mới biết con mình nghỉ học. 
Thành công, hạn chế.
 * Thành công
	Qua 2 năm thực hiện tại trường . Đề tài đã góp phần cung cấp cho đội ngũ một số giải pháp tích cực trong công tác vận động học sinh đi học chuyên cần ở trường đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số. Giúp học sinh mạnh dạn tự tin và thích đến trường học tập và thực hiện các hoạt động giáo dục tại trường hơn . 
 * Hạn chế 
 Việc nắm bắt và xử lí thông tin của một số giáo viên chưa thật sự nhạy bén. Chưa có tính sáng tạo nên ít nhiều cũng ảnh hưởng đến công tác vận động học sinh.Vốn hiểu biết ngôn ngữ, phong tục tập quán bản địa của giáo viên còn rất ít ỏi nên việc giao tiếp ban đầu với học sinh cũng như phụ huynh gặp nhiều khó khăn.
 Đa phần phụ huynh chưa quan tâm con cái trong việc học chữ, để học sinh tùy tiện thích học thì đi không thích học thì ở nhà
Mặt mạnh, mặt yếu.
* Mặt mạnh
 - Các đoàn thể phát huy được vai trò trách nhiệm, nhiệt tình trong công tác.
 	 - Giáo viên chủ nhiệm lớp đa số tâm huyết với công tác trường lớp, yêu thương học sinh, tham gia tích cực trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
   - Các em rất thích đến trường, giao tiếp hòa đồng tự tin hơn nhất là học sinh dân tộc thiểu số.
	- Đội ngũ giáo viên có thêm kinh nghiệm về công tác tuyên truyền vận động học sinh ra lớp. Gần gũi thân thiện với gia đình học sinh và biết thêm về phong tục tập quán của đồng bào dân tộc Ê - đê.
	* Mặt yếu 
Đồng bào dân tộc thường cho con em sống tự do, chiều chuộng con em không đúng mức nên việc thực hiện đề tài này đòi hỏi người cán bộ quản lí phải mẫu mực cương quyết và biết kết hợp nhiều mối quan hệ trong công tác tuyên truyền. Giáo viên phải tâm huyết, sáng tạo và nhạy bén, lời nói phải có tính thuyết phục mới mang lại hiệu quả mình mong muốn. 
d. Nguyên nhân của thành công và hạn chế
Để thực hiện thành công đề tài này, bản thân đã thực sự tâm huyết, đem hết khả năng trải nghiệm trong công tác làm quản lí chỉ đạo. Sự phối hợp giúp đỡ của các đoàn thể trong trường và chính quyền thôn, buôn cũng như đội ngũ giáo viên trong trường là động lực thúc đẩy tôi thực hiện. Bên cạnh đó niềm vui và hiệu quả học tập của các em đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.
 3. Giải pháp, biện pháp.
	a. Mục tiêu.
	Những giải pháp, biện pháp nêu trong đề tài này đã được thực hiện xuyên suốt trong công tác chỉ đạo của nhà trường. 
	b. Nội dung cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
 	 * Phương pháp vận động của cá nhân:
 	 Muốn có học sinh thì phải hiểu học sinh. Nghĩa là một khi muốn vận động các em đến lớp, điều quan trọng với một giáo viên là phải nắm rõ về hoàn cảnh, điều kiện sinh hoạt, học tập của các em tại gia đình để rồi từ đó đưa ra những biện pháp vận động thuyết phục phù hợp. Cái này cần được quán triệt ngay từ đầu năm học. Cụ thể, ngay từ đầu năm học, nhà trường và mỗi giáo viên chủ nhiệm phải khảo sát điều tra để nắm vững hoàn cảnh học sinh, em nào cư trú tại các thôn, buôn nào, em nào hiện đang gặp khó khăn, có khả năng không tham gia học tập chuyên cần v.v.. Từ đó kịp thời động viên các em bằng hình thức kêu gọi hỗ trợ giúp đỡ trong khả năng có thể về vật chất, làm sao để các em đảm bảo “ba đủ” (đủ ăn, đủ mặc, đủ quần áo đến trường). Từ đó, các thầy cô trong trường đã cùng nhau phát động chương trình xin quần áo cũ cho học sinh liên tiếp trong vòng hai năm liền. Nhờ đó, học sinh trường tôi đã có thêm quần áo để mặc. Việc này cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống tình trạng nghỉ học, bỏ học. Ngoài ra, quá trình tuyên truyền vận động từ lời nói, cử chỉ, hành vi phải thể hiện được sự chân thành, đồng cảm với hoàn cảnh của học sinh để tạo sự tin tưởng đối với phụ huynh và học sinh. Đặc biệt là tránh cách vận động khô cứng, nói những câu thiếu sức thuyết phục như “Đi học đi, ở nhà làm gì” hoặc “Cho con đi học chứ sao lại bắt con ở nhà?” Tôi nhớ một lần đến nhà em H’ Rép, học sinh lớp 4A, để khuyên em trở lại trường. Hôm đấy, vừa thấy bóng tôi ở ngoài ngõ, nét mặt em đã thoáng chút hoảng sợ, em lẩn rất nhanh. Tôi vào nhà, tìm mãi chẳng thấy em đâu cả. Khi nhìn xuống gầm giường thì thấy em đang chui tận trong góc và hét lên “A mâo mâo nao sang hră!” (tiếng Ê đê là “Không đi học!Không đi học!”). Tôi cũng nói lại với em ấy bằng tiếng Ê đê: “ Si ngă amâo nao sang hră?”.( Nghĩa là tại sao không đi học?) Nghe vậy, H’ Rép lại càng sợ hơn, co người vào một góc Tôi hiểu là cần phải thay đổi “chiến thuật” nên dỗ dành: “A amâu nao tũ mơh, bĩa dah mtuôm hãng nai amao nao hũi ôh” có nghĩa là “Ừ, không đi cũng được, nhưng ra đây với cô. Không sao đâu!”. Cuối cùng thì H’ Rép cũng chịu chui ra khỏi gầm giường Tôi vừa chải đầu, tết tóc cho em, vừa nói rõ tác dụng của việc đến trường, tất nhiên là theo cách đơn giản, dễ hiểu nhất. Cô trò cứ thủ thỉ với nhau, và tôi mừng khôn xiết khi em ấy ngập ngừng nói: “Nhưng cô phải hứa với em là không cho các bạn trong lớp chọc em” tôi đồng ý và hứa với H’Rép. Thế là buổi học ngày hôm sau em đến trường thật sớm và cứ nhìn chăm chăm vào cô. Tôi lại gần và thủ thỉ với em một lúc và khuyên em nên đến trường chăm chỉ mỗi ngày, em đồng ý ngay. Từ đó tôi thường xuyên theo dõi thấy em đi học chuyên cần mỗi ngày và cuối kì một chất lượng đọc viết và tính toán của em được các giáo viên đánh giá có tiến bộ vượt bậc.
* Công tác chỉ đạo:
	- Tháng 6 hằng năm, sau khi tổng kết năm học chỉ đạo giáo viên tổ chức điều tra thống kê số liệu; tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể phối hợp cùng nhà trường để huy động tối đa học sinh trong độ tuổi ra lớp; làm tốt công tác tuyển sinh vào lớp Một.
 	- Phân loại đối tượng xây dựng kế hoạch chỉ đạo cho PHT, đoàn thể trong nhà trường làm tốt công tác tuyên truyền vận động.
	- Phối kết hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể thường xuyên tuyên truyền cho các bậc phụ huynh HS về tầm quan trọng của việc học tập. 
	- Thường xuyên kiểm tra việc đi học chuyên cần của HS nhằm phát hiện kịp thời những học sinh có nguy cơ bỏ học, đến tìm hiểu nguyên nhân và có biện pháp vận động phù hợp.
	* Tổ chức các hoạt động ngoại khóa để thu hút học sinh tham gia đến trường:
 	- Để giảm bớt căng thẳng, nhàm chán, hàng ngày bị nhồi nhét bởi một khối lượng kiến thức khổng lồ làm cho nhiều học sinh khi đến trường cảm thấy sợ hãi và mệt mỏi. Nhà trường đã xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài giờ, bao gồm hoạt động giữa giờ ra chơi, kế hoạch hoạt động chéo buổi xen lẫn các môn học Thể dục, học phụ đạo, học bồi dưỡngNội dung các hoạt động này chủ yếu tập trung vào việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi dân gian, trò chơi tập thể, múa hát cộng đồng, thi đố vui để học
	* Nâng cao chất lượng học tập của học sinh:  
 	- Tổ chức khảo sát đầu năm để phân luồng HS và xây dựng kế hoạch phụ đạo, bồi dưỡng phù hợp với tình hình thực tế như: Tăng thời lượng các môn HS học yếu trong giờ chính khoá và bố trí phụ đạo chéo buổi.
 	- Xác định HS bị hổng kiến thức ở những phần nào, đồng thời tìm hiểu điều kiện và phương pháp học tập của các em để có các biện pháp phụ đạo thích hợp.
 	- Trong giảng dạy cần quan tâm nhiều hơn đối tượng HS yếu, HS có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhằm cảm hoá các em để các em coi thầy cô là chỗ dựa tinh thần và tạo được mối quan hệ tình cảm thầy - trò, làm cho các em thích đến trường hơn ở nhà.
 	- Trong quá trình giảng dạy GV luôn luôn kích thích, tạo sự hứng thú cho các em học tập, tránh căng thẳng, khô cứng sẽ dẫn tới các em chán học và bỏ học. 
	 - Tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan: thí nghiệm, thực hành, tranh ảnh...để nâng cao hiệu quả học tập.
 - Thường xuyên kiểm tra theo dõi sự tiến bộ trong học tập của HS, đặc biệt chú trọng những HS yếu.
 	- Đối với  giáo viên chủ nhiệm:
	+ Thường xuyên kiểm tra giám sát học sinh (đặc biệt là đối tượng học sinh yếu và học sinh cá biệt) để có biện pháp phối hợp giáo dục, giúp đỡ học sinh. Thực hiện sinh hoạt 15 phút đầu giờ và sinh hoạt cuối tuần nghiêm túc.
 	+ Nội dung sinh hoạt tập trung chấn chỉnh về nề nếp biểu dương khen ngợi những học sinh tham gia học tập nghiêm túc đầy đủ, phê bình nhắc nhở những học sinh lười học, bỏ học, về nhà không học bài cũ, đến lớp không chuyên cần.
	 + Động viên những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, những học sinh yếu nhưng có thái độ học tập tốt .
 	+ Phân công cho học sinh khá giỏi kèm cặp giúp đỡ những học sinh yếu kém. Thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh, đặc biệt là những trường hợp cá biệt, thường trốn học, bỏ học để phối hợp giáo dục.
 	- Đối với đoàn thể:
	 + Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên phối hợp với giáo viên chủ nhiệm tổ chức cho học sinh viết cam kết đi học chuyên cần; tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm thu hút học sinh tham gia đến trường học tập; tổ chức đăng ký đôi bạn, nhóm bạn học tập cùng tiến. Thành lập tổ kiểm tra thường xuyên kiểm tra việc học bài  ban đêm của học sinh
	c. Điều kiện để thực hiện giải pháp.
 Phối kết hợp công tác giáo dục Gia đình – Nhà trường và các tổ chức xã hội.
Muốn học sinh đến trường đầy đủ hằng ngày thì người giáo viên cần phải biết kết hợp với cha mẹ học sinh và các tổ chức trong xã hội mở rộng môi trường giáo dục. Để giúp các em hiểu, hòa đồng thân thiện yêu thích các hoạt động ở trường, công tác phối kết hợp giữa Gia đình – Nhà trường -Xã hội là yếu tố không thể thiếu. Khác với người Kinh cha mẹ học sinh hiểu biết hơn về giá trị của việc được học và có thể kèm cặp động viên các em trong việc học . Còn với HSDT việc kết hợp phải khác, vì phần lớn cha mẹ xem nhẹ việc học hoặc không đủ điều kiện để giúp học sinh được học và thường xuyên vắng nhà nên việc kèm cặp là khó. Nên tôi đã triển khai trong Hội đồng giáo viên cách phối kết hợp với mục đích:
Phối hợp với phụ huynh trong việc duy trì sĩ số hằng ngày. Làm cho phụ huynh và nhân dân từng bước hiểu rõ tầm quan trọng của việc học tập chính là tương lai của con em mai sau.
Cách tiến hành để thực hiện mục đích trên triển khai nội d

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_chi_dao_duy_tri_ty_le_hoc_sinh_chuyen.doc