SKKN Một số bài tập và phương pháp huấn luyện chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) cho học sinh trường THPT Lê Lợi

SKKN Một số bài tập và phương pháp huấn luyện chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) cho học sinh trường THPT Lê Lợi

Thể dục trường học là một bộ phận quan trọng cấu thành nền thể dục thể thao (TDTT) toàn dân, là nơi giao nhau của hai lĩnh vực Giáo dục và TDTT. TDTT trường học không chỉ là phương tiện nâng cao sức khoẻ, phát triển thể chất mà còn góp phần rèn luyện nhân cách, đạo đức, ý chí, kỷ luật và lối sống lành mạnh cho các thế hệ học sinh, sinh viên Việt Nam. Chính vì vậy TDTT trường học góp phần tích cực tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [2]

Hồ Chủ Tịch đã kêu gọi toàn dân tập Thể dục. Trong bài “Sức khoẻ và thể dục người viết.

“Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công. Mỗi người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt. Mỗi người dân mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ. Vậy nên luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Người mong “đồng bào ta ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi ngày nào cũng tập, [10]

Ở Việt Nam môn điền kinh là môn thế mạnh và được quan tâm hàng đầu, đồng thời trong trường THPT môn điền kinh là môn học chính thức trong chương trình giáo dục thể chất, trong đó chạy bền là môn được phân phối trong nhiều tiết học, được sắp xếp xen kẽ giữa các tiết từ đầu năm học cho đến kết thúc năm học và được chọn là nội dung kiểm tra đánh giá tiêu chuẩn rèn luyện thân thể của học sinh vào cuối học kỳ II vì “Sức bền là một tố chất đặc biệt không thể thông qua vài tiết học mà rèn luyện được. chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) cần dạy xen kẽ vào tất cả các tiết trong năm học, đồng thời vận động học sinh tập chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam)hàng ngày tạo thành một thói quen, có như vậy việc rèn luyện sức bền mới có hiệu quả và an toàn trong các đợt kiểm tra và thi đấu.”. Việc luyện tập và thi đấu chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) không những có tác dụng tốt tới sức khoẻ mà còn có tác dụng phát triển thể lực một cách toàn diện, đồng thời còn tạo điều kiện nâng cao thành tích các môn thể thao khác. Nó còn tạo cho con người một ý trí mãnh liệt. [6]

 

doc 17 trang thuychi01 14691
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số bài tập và phương pháp huấn luyện chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) cho học sinh trường THPT Lê Lợi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mục
Nội dung
Trang
Mục lục
1
Các chữ viết tắt trong sáng kiến kinh nghiệm
2
I.
MỞ ĐẦU
3
1. 
Lí do chọn đề tài.
3
2. 
Mục đích nghiên cứu.
3
3. 
Đối tượng nghiên cứu
3
4. 
Phương pháp nghiên cứu.
3
II. 
NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
6
1. 
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
6
2.
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
6
2.1. 
Thuận lợi
6
2.2. 
Khó khăn
6
3. 
Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
7
3.1. 
Khảo sát thực tế lựa chọn đội tuyển:
7
3.2. 
Các biện pháp giải quyết vấn đề:
8
3.2.1. 
Phần chuẩn bị:
8
3.2.2. 
Phương pháp giảng dạy và huấn luyện:
8
4. 
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với các hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
11
4.1. 
Đối với các hoạt động giáo dục, đồng nghiệp và nhà trường.
11
4.2. 
Số liệu thống kê thực tế.
11
III. 
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
13
1. 
Kết luận.
13
2. 
Kiến nghị và đề xuất:
13
2.1. 
Đối với phòng giáo dục và cấp trên:
13
2.2. 
Về phía nhà trường:
13
2.3. 
Về phía xã và phụ huynh:
14
Tài liệu tham khảo
15
Phụ lục
16
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
	Thể dục trường học là một bộ phận quan trọng cấu thành nền thể dục thể thao (TDTT) toàn dân, là nơi giao nhau của hai lĩnh vực Giáo dục và TDTT. TDTT trường học không chỉ là phương tiện nâng cao sức khoẻ, phát triển thể chất mà còn góp phần rèn luyện nhân cách, đạo đức, ý chí, kỷ luật và lối sống lành mạnh cho các thế hệ học sinh, sinh viên Việt Nam. Chính vì vậy TDTT trường học góp phần tích cực tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [2]
Hồ Chủ Tịch đã kêu gọi toàn dân tập Thể dục. Trong bài “Sức khoẻ và thể dục người viết. 
“Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công. Mỗi người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt. Mỗi người dân mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ. Vậy nên luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Người mong “đồng bào ta ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi ngày nào cũng tập, [10]
Ở Việt Nam môn điền kinh là môn thế mạnh và được quan tâm hàng đầu, đồng thời trong trường THPT môn điền kinh là môn học chính thức trong chương trình giáo dục thể chất, trong đó chạy bền là môn được phân phối trong nhiều tiết học, được sắp xếp xen kẽ giữa các tiết từ đầu năm học cho đến kết thúc năm học và được chọn là nội dung kiểm tra đánh giá tiêu chuẩn rèn luyện thân thể của học sinh vào cuối học kỳ II vì “Sức bền là một tố chất đặc biệt không thể thông qua vài tiết học mà rèn luyện được... chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) cần dạy xen kẽ vào tất cả các tiết trong năm học, đồng thời vận động học sinh tập chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam)hàng ngày tạo thành một thói quen, có như vậy việc rèn luyện sức bền mới có hiệu quả và an toàn trong các đợt kiểm tra và thi đấu...”. Việc luyện tập và thi đấu chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) không những có tác dụng tốt tới sức khoẻ mà còn có tác dụng phát triển thể lực một cách toàn diện, đồng thời còn tạo điều kiện nâng cao thành tích các môn thể thao khác. Nó còn tạo cho con người một ý trí mãnh liệt. [6]
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nhằm tìm ra một số kinh nghiệm và phương pháp huấn luyện chạy bền một cách có hiệu quả. Học sinh hứng thú hơn với học nội dung chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) nói riêng và môn học thể dục nói chung, từ đó giúp học sinh nâng cao thể lực, nâng cao sức bền chung, tạo điều kiện tốt cho học sinh phát triển sức bền chuyên môn, học tập và lao động tốt hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này tôi đã áp dụng để huấn luyện đội tuyển chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) tham gia giải cấp huyện, cấp tỉnh cho học sinh THPT trong năm học 2014-1015.
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối 10-11 trường THPT Lê Lợi.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Giảng dạy và huấn luyện chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) phải dựa trên cơ sở khoa học tự nhiên của giáo dục thể chất, phải nắm vững được nguyên lý kỹ thuật động tác, phương pháp lý luận. Đó là điều không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy và huấn luyện chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam), là hệ thống các bài tập được tiến hành tuần tự theo phương pháp và được tổ chức một cách hợp lý, hoạt động của các tố chất thể lực bên trong và bên ngoài với mục đích vận dụng đầy đủ, có hiệu quả những tố chất đó. Qua thực tế đã giảng dạy và huấn luyện chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam), tôi thấy cần phải áp dụng tốt nhiều phương pháp giảng dạy, huấn luyện và phải tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc đó. [2]
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu trên tôi sử dụng các phương pháp sau:
1.4.1. Phương pháp học tập và tham khảo tài liệu: 
Phương pháp này nhằm tổng hợp các tài liệu, hệ thống lại các kiến thức có liên quan đến đề tài nghiên cứu, hình thành cơ sở lý luận, xác định các nhiệm vụ, lựa chọn các phương pháp và các chỉ tiêu để đánh giá kết quả nghiên cứu khi thực hiện đề tài cũng như tìm chọn các bài tập phát triển sức bền một cách hợp lý nhất. [4]
1.4.2. Phương pháp phỏng vấn: Sử dụng phiếu điều tra phương pháp này nhằm tìm hiểu tâm, sinh lý của học sinh nhằm xác định các bài tập phù hợp, gây hứng thú cho học sinh trong quá trình giảng dạy và huấn luyện chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam). [4]
1.4.3. Phương pháp lý luận: 
Y học- sinh học hiện đại khi nghiên cứu cơ thể sống thường tách nó ra làm các cơ quan, hệ cơ quan và các chức năng riêng biệt. Tuy nhiên cơ thể con người là một hệ sinh học hoàn chỉnh và thống nhất, có khả năng tự điều chỉnh và tự phát triển.
Sự phát triển sức bền phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện của sự phối hợp giữa các chức năng vận động và chức năng dinh dưỡng, phụ thuộc vào độ bền vững chức năng của các cơ quan nội tạng. Đặc biệt là các hệ hô hấp và tim mạch, đây là những hệ cơ quan bảo đảm việc cung cấp oxy cho cơ thể.
Các cơ sở sinh lý chủ yếu để phát triển sức bền là mức độ phát triển chức năng của tim mạch và hô hấp, trạng thái của máu (hàm lưọng Hemoglobin, dự trữ kiềm - toan) dự trữ chất dinh dưỡng trong cơ thể và khả năng sử dụng chúng. Công xuất của các quá trình trao đổi năng lượng và thiếu oxy, đặc điểm của quá trình điều nhiệt, trạng thái các tuyến nội tiết. [4]
1.4.4. Phương pháp huấn luyện, tập luyện (phương pháp thực nghiệm sư phạm): 
Phương pháp này nhằm mục đích đưa các bài tập vào thực tiễn (có thể đưa các bài tập mới vào), qua thực nghiệm góp phần làm sáng tỏ những yếu tố tác động trực tiếp (yếu tố thực nghiệm) tới kết quả luyện tập của học sinh (đối tượng nghiên cứu). [3]
Huấn luyện là một phương pháp giảng dạy, hướng dẫn thực hành do giáo viên chỉ đạo, trong đó việc luyện tập của học sinh được thực hiện. Huấn luyện chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) là một quá trình sư phạm nhằm hoàn thiện năng lực thể thao (sức bền) cho học sinh. Các nhiệm vụ chính của huấn luyện chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) được xác định trên cơ sở của các yêu cầu được đặt ra từ quá trình huấn luyện.
Đó là các nhiệm vụ:
+ Giáo dục các phẩm chất tâm lý.
+ Chuẩn bị thể lực.
+ Chuẩn bị kỹ thuật và năng lực phối hợp vận động.
+Phát triển trí tuệ.
Để giải quyết tốt các nhiệm vụ nêu trên, phải sử dụng tốt các phương tiện huấn luyện thể thao sau:
+ Các bài tập thể chất (thể lực).
+Các phương tiện tâm lý.
+ Các biện pháp vệ sinh.
+ Các yếu tố lành mạnh của thiên nhiên. [8]
Trong huấn luyện thể thao, đặc biệt là chạy bền phải chú trọng đến lượng vận động, nó bao gồm ba bộ phận cơ bản, gắn bó với nhau một cách chặt chẽ. Các yêu cầu của lượng vận động, quá trình thực hiện lượng vận động, độ lớn của lượng vận động
Nguyên tắc huấn luyện đó là:
+Nguyên tắc nâng cao lượng vận động
+ Nguyên tắc đảm bảo tính liên tục của lượng vận động
+ Nguyên tắc sắp xếp lượng vận động theo chu kỳ.
Phát triển tốt sức bền là tiền đề cần thiết cho khả năng phục hồi nhanh chóng sau các bài tập nặng. Căn cứ vào yêu cầu thi đấu cho từng môn thể thao cụ thể mà sức bền được phân thành; Sức bền chung và sức bền chuyên môn.
+Huấn luyện sức bền chung.
+ Huấn luyện sức bền chuyên môn. [4]
1.4.5. Phương pháp kiểm tra sư phạm, thống kê toán học: Các test đánh giá.
Kiểm tra thành tích của học sinh sau một quá trình giảng dạy và huấn luyện chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam).
So sánh kết quả trước và sau huấn luyên (kết quả có đối chứng).
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trên thực tế chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) là một môn học đơn điệu gây mệt mỏi và dễ nhàm chán. Để đạt thành tích cao trong chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) ngoài việc có kỹ thuật, có mối quan hệ giữa độ dài và tần số bước chạy phù hợp theo nguyên lý kỹ thuật, người chạy cần có thể lực nhất định để duy trì được kỹ thuật cần thiết. Chính vì vậy người chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) cần có sức bền chung và sức bền chuyên môn tốt. Sức bền chung giúp cho người tập hoàn thành được nhiệm vụ của từng buổi tập trong quá trình tập luyện cũng như thi đấu, nó cũng là cơ sở để phát triển sức bền tốc độ. Sức bền tốc độ cho phép người chạy có tốc độ trung bình cao trên toàn cự ly. Ở chạy cự li này yếu tố chủ yếu gây mệt mỏi, làm giảm thành tích chạy là những biến đổi của môi trường bên trong cơ thể như: Tăng lượng axit lactic và đioxi cacbon trong máu... Quá trình luyện tập chính là quá trình rèn luyện, phát triển nhiều mặt của người tập, trong đó có việc giúp cho cơ thể quen dần và chịu đựng được mệt mỏi, dễ dàng vượt qua trạng thái cực điểm duy trì được tốc độ trung bình cao hoặc thực hiện được các phương án chiến thuật trong thi đấu.
Căn cứ vào cơ sở lí luận, thực tiễn giảng dạy và huấn luyện trong những năm qua với tinh thần tình cảm và trách nhiệm cao trong công việc giảng dạy và huấn luyện môn chạy bền cùng với các đồng nghiệp trao đổi nghiên cứu tôi mạnh dạn đưa ra “Một số bài tập và phương pháp huấn luyện chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) cho học sinh trường THPT Lê Lợi”.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, tổ nhóm chuyên môn.
- Bản thân là giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn và đối tượng nghiên cứu (học sinh khối 10 và khối 11).
- Học sinh có năng khiếu, tiếp thu nhanh, dễ uốn nắn, sửa sai.
- Hiện nay việc giáo dục thể chất cho học sinh đang được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm, đầu tư đúng mức. 
2.2.2. Khó khăn 
- Sức khỏe và khả năng tiếp thu của học sinh không đồng đều.
- Đa số học sinh chưa thấy được tầm quan trọng của việc luyện tập chạy bền nói riêng và tập thể thao nói chung nên không có hứng thú và tự giác tập luyện ở lớp cũng như ở nhà.
- Trong quá trình học tập, rèn luyện các em còn ngại ngùng, rụt rè do lứa tuổi, tâm sinh lý đang phát triển.
- Gia đình và xã hội còn coi trọng làm kinh tế còn chưa quan tâm đúng mức về rèn luyện sức khỏe ở địa phương.
- Sân học tập thể dục còn thiếu hoặc chưa đáp ứng được nhu cầu học tập và vui chơi của học sinh.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Khảo sát thực tế lựa chọn đội tuyển:
Khảo sát bằng hình thức tổ chức thi đấu.
Khảo sát đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT.
2.3.1.1. Đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi thanh, thiếu niên.
Các em ở độ tuổi này rất hiếu động, thích nghịch ngợm, hầu hết các em chưa nhận thức được tác dụng mục đích của việc tập luyện Thể dục Thể thao. Do tính hưng phấn cao hơn ức chế nên các em tiếp thu cái mới rất nhanh, nhưng cũng chóng quên. Sự hình thành các nếp nhăn của võ đại não chưa ổn định và trung khu tiểu não chưa phát triển cao. ở lứa tuổi này các em đã hiểu chút ít về điều sai lẽ phải, tính tự trọng được bắt đầu xuất hiện các em thích được khen, khích lệ hơn phê bình, mắng mỏ, trong các cuộc thi đấu căng thẳng sinh ra các khát vọng chiến thắng sự mếm mộ tôn trọng khán giả. [9]
2.3.1.2. Đặc điểm sinh lý ở lứa tuổi thanh, thiếu niên.
Sinh lý cơ thể thanh, thiếu niên phát triển sức mạnh rất nhanh đánh dấu một bước ngoặt hoàn chỉnh của cơ thể ở lứa tuổi này nổi bật về cơ sở sinh lý, là sự hình thành giới tính, nó là một biến đổi phức tạp của việc phát triển cơ thể, từ hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ cơ, xương, hệ hô hấp. [9]
Hệ thần kinh: Não đang ở giai đoạn phát triển hứng phấn chiếm ưu thế tính linh hoạt của trung ương thần kinh cao, nhưng dễ bị khuyếch tán động tác thừa nhiều, sức tập chung chú ý kém, khả năng phân tích tổng hợp còn thấp, dễ thành lập phản xạ song nó cũng dễ phai mờ, do tiêp thu nhanh nhưng chóng quên. Vì vậy việc xuất hiện mệt mỏi sẽ gây căng thẳng thần kinh rất dễ dẫn đến sự chán nản thờ ơ. Căn cứ vào đặc điểm trên trong giảng dạy huấn luyện nên thi phạm đúng nội dung của buổi học phải sinh động, đa dạng hoá, có thể xen kẽ vào các trò chơi để cho hệ thống thần kinh phát triển một cách đa dạng, giữa các hệ thống tín hiệu. [9]
Hệ tuần hoàn: ở lứa tuổi này hệ tuấn hoàn có nhiều đột biến chỉ 3 – 4 năm dậy thì tăng một khối lượng bằng khối lượng tăng trong mười năm trước, tế bào cơ tim và tính đàn hồi của các em còn nhỏ, van tim phát triển kém, dung tích và thể tích tim nhỏ nhịp đập nhanh, cùng với sự lớn lên của tuổi.
Do vây việc vận dụng các bài tập có cường độ không được quá cao, phải phù hợp với VĐV thanh, thiếu niên, lượng vận động đối với các em không quá lớn cần huấn luyện có tính hệ thống nâng dần. Dùng các bài tập có cường độ trung bình làm cho tim to lên, cơ tim dày lên, có lợi cho việc nâng cao cơ năng của hệ thống tim mạch. [9]
Hệ cơ: Đang phát triển nhưng chậm hơn so với hệ xương, các cơ phát triển theo chiều dài, tổng số sợi cơ trong bắp có chứa nhiều sức chịu đựng của cơ còn yếu. Vì vậy việc phát triển tốc độ cần phải ra các bài tập hợp lý không nên có cường độ và khối lượng quá lớn.
Hệ xương: Trong lứa tuổi này hệ xương của các em phát triển nhanh nhất là các xương có khả năng vận động như ở tứ chi, xương cột sống, xương ở lứa tuổi này còn xốp vì vậy việc cốt hoá sớm các đầu xương ở các khợp sẽ gây tác hại cho việc phát triển cơ thể.
Do vậy việc lựa chọn và áp dụng phải phù hợp với sự phát triển của hệ xương, điều đó sẽ tạo cho các em những điều kiện phát triển cơ thể, không những nhanh hơn mà còn phát triển hài hoà, cân đối. [9]
Hệ hô hấp: Khoang ngực nhỏ hẹp phổi phát triển chưa đầu đủ, song trao đổi chất mạnh mẻ, nhu cầu ô xy cao, độ hít thở nông nên quá trình tao đội khí kém, dung tích sống nhỏ nhưng tần số nhanh, cơ liên sườn phát triển châm hoành còn yếu. Vì vậy tần số hô hấp trong khi các em tập luyện chúng ta cần hướng dẫn thở sâu, thở đúng. [9]
Căn cứ vào đặc điểm phát triển tâm sinh lý của các em, vận đụng các quy luật tâm lý để tổ chức giảng dạy – huấn luyện, khẳng định sẽ thu được kết quả tốt.
2.3.1.3.Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện:
Căn cứ vào kế hoạch tổ chức giải, các lớp tiến hành tổ chức thi đấu giải cấp trường, qua đó tuyển chọn học sinh vào đội tuyển để tập luyện, thi đấu đạt Căn cứ vào
2.3.1.4 Số liệu điều tra khi thực hiện:
Thành tích học sinh trước tập luyện (qua kiểm tra thi đấu giải cấp trường) tôi chon ra nhóm học sinh để tiến hành thực nghiệm. 
Bảng 1: Kết quả chọn đội tuyển năm học 2014 - 2015
STT
Họ và tên
Năm sinh
Cự ly (m)
Thành tích
Ghi chú
1
Đỗ Thị Linh
1999 
800
3’05
2
Hà Văn Hoàn
1999
1500
6’00
3
Hà Thị Mai
1999
800
3’10
4
Hà Trọng Đạt
1999
1500
5’40
5
Trịnh Văn Hải
1999 
1500
5’50
6
Trần Tuấn Anh
1999 
1500
5,40
7
Lê Thị Hồng Nhị
1999 
800
3’15
8
Phạm Thị Sáu
1999 
800
3’10
9
Đỗ Linh Chi
1999 
800
3’15
10
Hà Hoàng Anh
1999
1500
6’05
11
Hà Thị Mây
1999
800
3’10
12
Hà Thanh Đạt
1999
1500
5’40
13
Trịnh An Hải
1999 
1500
5’50
14
Trần Tuấn Ngọc
1999 
1500
5,30
15
Lê Thị Hồng 
1999 
800
3’15
16
Phạm Thị Văn
1999 
800
3’13
Đây là nhóm học sinh có thành tích tôt của trường. Từ nhóm này tôi chia thành hai nhóm học sinh để tiến thành thực nghiệm. Một nhóm thực nghiệm A và nhóm đối chiếu B.
Bảng 2: Kết quả chọn đội tuyển năm học 2014 – 2015. ( Nhóm A)
STT
Họ và tên
Năm sinh
Cự ly (m)
Thành tích
Ghi chú
1
Đỗ Thị Linh
1999 
800
3’05
2
Hà Văn Hoàn
1999
1500
6’00
3
Hà Thị Mai
1999
800
3’10
4
Hà Trọng Đạt
1999
1500
5’40
5
Trịnh Văn Hải
1999 
1500
5’50
6
Trần Tuấn Anh
1999 
1500
5,40
7
Lê Thị Hồng Nhị
1999 
800
3’15
8
Phạm Thị Sáu
1999 
800
3’10
Bảng 3: Kết quả chọn đội tuyển năm học 2014 – 2015.( Nhóm B)
STT
Họ và tên
Năm sinh
Cự ly (m)
Thành tích
Ghi chú
1
Đỗ Linh Chi
1999 
800
3’15
2
Hà Hoàng Anh
1999
1500
6’05
3
Hà Thị Mây
1999
800
3’10
4
Hà Thanh Đạt
1999
1500
5’40
5
Trịnh An Hải
1999 
1500
5’50
6
Trần Tuấn Ngọc
1999 
1500
5,30
7
Lê Thị Hồng 
1999 
800
3’15
8
Phạm Thị Văn
1999 
800
3’13
Hai nhóm này ta thấy thành tích tương đương nhau.
Nhìn vào thành tích thực tế của các em, tôi thấy thành tích này chưa cao. Vì qua kiểm tra quan sát tôi nhận thấy rằng các em chạy chưa đúng kỹ thuật, chiến thuật, có những em phân phối sức chưa hợp lý dẫn tới khi về đích thì mệt mỏi và rút đích chưa tốt. Để các em nắm được kỹ thuật, chiến thuật và thi đấu đạt thành tích cao tôi tiến hành cho các em học tập ngay trong các giờ chính khoá và giao bài tập về nhà.
2.3.1.5 Đội tuyển chạy cự li 800m (nữ), 1500m (nam) tập thể lực ngay từ đầu năm học ở các giờ chính khoá:
Trong tiết học thể dục, sau phần khởi động và bài tập chung của cả lớp xong, tôi cho các em tập các bài tập riêng với khối lượng, cường độ, mật độ lớn hơn, phù hợp với trình độ tập luyện và thể lực của từng em (nhằm mang lại hiệu quả cao trong tập luyện) Tố chất thể lực bao gồm; sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ mềm dẻo, sự khéo léo. Các bài tập được thực hiện từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ nhẹ đến nặng. 
Ví dụ:
- Chạy bước nhỏ 2 - 4 lần x 20m.
- Chạy nâng cao đùi 2 - 4lần x 20m.
- Chạy gót chạm mông 2 - 4 lần x 20m.
- Chạy đạp sau 2 - 4 lần x 20m.
- Chạy tăng tốc 20 - 30m x 3lần.
VĐV	20m	VĐV
	VĐV
VĐV
- Chạy dích dắc, chạy vòng số 8.
- Chạy trên địa hình tự nhiên (sân trường) 500 - 1000m.
Các bài tập trên được sắp xếp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Sau mỗi giờ học tôi giao bài tập về nhà cho các em tự tập luyện ở nhà.
Trước khi thi đấu khoảng 2 tháng tôi tập trung huấn luyện đội tuyển, vào các buổi chiều (16h30 sau giờ tan học), học sinh trong đội tuyển ở lại tập khoảng 45 phút, để chuẩn bị tốt thể lực, kỹ chiến thuật và tâm lý cho học sinh nhằm thi đấu đạt kết quả cao. [6] [7] [8]
2.3.2. Các biện pháp giải quyết vấn đề:
2.3.2.1. Phần chuẩn bị:
- Giáo viên chuẩn bị bài giảng, tranh kỹ thuật, còi, đồng hồ, cờ...
- Học sinh chuẩn bị trang phục gọn gàng, sân tập sạch sẽ, thể lực tốt và tâm lý thoả mái.
2.3.2.2. Phương pháp giảng dạy và huấn luyện:
+ Bước 1: Xây dựng khái niệm và giới thiệu môn học: 
- Ở tiết 1; tiết học lý thuyết đầu tiên tôi đã xây dựng cho các em khái niệm về sức bền là khả năng của cơ thể chống lại mệt mỏi khi học tập, lao động hay tập luyện TDTT kéo dài để cho các em nắm được thế nào là sức bền, tầm quan trọng của sức bền trong thể thao cũng như trong học tập, lao động và sinh hoạt hằng ngày[1]
- Ở các tiết tiếp theo, tôi xây dựng khái niệm bằng cách; giảng giải, làm mẫu phân tích động tác, cho học sinh xem tranh ảnh.
- Tập bổ trợ kỹ thuật đánh tay trong khi chạy.
- Trong tất cả các tiết học (các buổi tập) tôi đều cho học sinh tập các động tác bổ trợ ở sau phần khởi động chung.
- Chạy tăng dần từ 300m, 500m, 8000m, 1200m, 2000, (chia đều cho khoảng 60 tiết học (buổi tập) trong thời gian tôi huấn luyện chuẩn bị cho học sinh thi đấu chạy giải hội khỏe phù đổng.
- Ở 10 tiết học đầu (T1 - T10) tôi cho học sinh học lý thuyết, tập và sửa sai các động tác bổ trợ, tập chạy 500m vào cuối các tiết học (buổi tập).
- Ở 10 tiết học tiếp theo (T11 - T20) tôi cho học sinh tập các động tác bổ trợ sau phần khởi động chung, tập chạy 800m vào cuối các tiết học (buổi tập).
 - Tiết 21 - T30 học sinh tập các động tác bổ trợ sau phần khởi động chung, tập chạy 1000m vào cuối các tiết học (buổi tập).
- Tiết 31 - T40 học sinh tập các động tác bổ trợ sau phần khởi động chung, tập chạy biến tốc trên đường thẳng, đường vòng, tập chạy 1200m vào cuối các tiết học 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bai_tap_va_phuong_phap_huan_luyen_chay_cu_li_800.doc