SKKN Tạo hứng thú môn học và phát triển năng lực học sinh bằng việc gắn kiến thức hóa học vào thực tiễn

SKKN Tạo hứng thú môn học và phát triển năng lực học sinh bằng việc gắn kiến thức hóa học vào thực tiễn

Môn hóa học là bộ môn khoa học gắn liền với tự nhiên, đời sống của con người. Việc học tốt bộ môn hóa học trong nhà trường không chỉ giúp học sinh có được nguồn kiến thức khoa học vững chắc mà còn giúp học sinh hiểu được rõ về cuộc sống, những biến đổi vật chất trong cuộc sống hàng ngày, khỏi bỡ ngỡ trong các tình huống gặp phải trong tự nhiên, cũng như trong cuộc sống. Từ đó lý giải được các hiện tượng thực tiễn, các cách làm của dân gian đều có sơ sở khoa học đúng đắn. thậm chí hiểu đ¬ược những dụng ý khoa học hoá học trong cuộc sống. Vận dụng được kiến thức khoa học vào cuộc sống. Tất cả những kiến thức học được đều quay lại phục vụ cuộc sống. Để giúp học sinh có hứng thú học tập môn hóa và thấy được sự gần gũi của hóa học với đời sống thực tiễn, trong quá trình giảng dạy tôi không chỉ dùng hệ thống phương pháp dạy học tích cực mà còn luôn hướng tới phát triển năng lực học sinh, hướng tới phát triển năng lực tìm tòi, khám phá, năng lực vận dụng giải thích, áp dụng kiến thức vào thực tiễn Để tránh kiến thức một cách hàn lâm, vì vậy trong mỗi bài học, tiết học tôi luôn gắn kiến thức hóa học vào thực tiễn gần gũi, liên hệ với thực tế đời sống hàng ngày để kích thích sự ham mê môn học và giúp cho học sinh thấy được hóa học là môn học luôn cần thiết cho cuộc sống, tạo động lực thúc đẩy sự yêu thích môn học. Và đó cũng là lí do mà tôi chọn và viết đề tài: “ Tạo hứng thú môn học và phát triển năng lực học sinh bằng việc gắn kiến thức hóa học vào thực tiễn”

doc 21 trang thuychi01 4601
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tạo hứng thú môn học và phát triển năng lực học sinh bằng việc gắn kiến thức hóa học vào thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
	 Môn hóa học là bộ môn khoa học gắn liền với tự nhiên, đời sống của con người. Việc học tốt bộ môn hóa học trong nhà trường không chỉ giúp học sinh có được nguồn kiến thức khoa học vững chắc mà còn giúp học sinh hiểu được rõ về cuộc sống, những biến đổi vật chất trong cuộc sống hàng ngày, khỏi bỡ ngỡ trong các tình huống gặp phải trong tự nhiên, cũng như trong cuộc sống. Từ đó lý giải được các hiện tượng thực tiễn, các cách làm của dân gian đều có sơ sở khoa học đúng đắn. thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hoá học trong cuộc sống. Vận dụng được kiến thức khoa học vào cuộc sống. Tất cả những kiến thức học được đều quay lại phục vụ cuộc sống. Để giúp học sinh có hứng thú học tập môn hóa và thấy được sự gần gũi của hóa học với đời sống thực tiễn, trong quá trình giảng dạy tôi không chỉ dùng hệ thống phương pháp dạy học tích cực mà còn luôn hướng tới phát triển năng lực học sinh, hướng tới phát triển năng lực tìm tòi, khám phá, năng lực vận dụng giải thích, áp dụng kiến thức vào thực tiễn Để tránh kiến thức một cách hàn lâm, vì vậy trong mỗi bài học, tiết học tôi luôn gắn kiến thức hóa học vào thực tiễn gần gũi, liên hệ với thực tế đời sống hàng ngày để kích thích sự ham mê môn học và giúp cho học sinh thấy được hóa học là môn học luôn cần thiết cho cuộc sống, tạo động lực thúc đẩy sự yêu thích môn học. Và đó cũng là lí do mà tôi chọn và viết đề tài: “ Tạo hứng thú môn học và phát triển năng lực học sinh bằng việc gắn kiến thức hóa học vào thực tiễn”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1. Phát triển năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống
- khi giải thích được một hiện tượng thực tiễn tức là các em đã hiểu rõ đặc điểm, nội dung, thuộc tính của loại kiến thức hóa học đó. Khi vận dụng kiến thức chính là việc lựa chọn kiến thức một cách phù hợp với mỗi hiện tượng, tình huống cụ thể xảy ra trong cuộc sống, tự nhiên và xã hội.
- Học sinh sẽ định hướng được các kiến thức hóa học một cách tổng hợp và khi vận dụng kiến thức hóa học phải ý thức rõ ràng về loại kiến thức hóa học đó được ứng dụng trong các lĩnh vực gì, ngành nghề gì trong cuộc sống.
- Đồng thời tìm mối liên hệ và giải thích được các hiện tượng trong tự nhiên và các ứng dụng của hóa học trong cuộc sống và trong các lĩnh vực đã nêu trên dựa vào các kiến thức hóa học và kiến thức liên môn khác.
- Thêm vào đó, các em sẽ chủ động sáng tạo lựa chọn phương pháp, cách thức giải quyết vấn đề. Có năng lực hiểu biết và tham gia thảo luận về các vấn đề hóa học liên quan đến cuộc sống thực tiễn và bước đầu biết tham gia nghiên cứu khoa học để giải quyết các vấn đề đó.
 2. Tạo hứng thú trong học tập bộ môn hóa học và giúp cho học sinh thấy được tầm quan trọng của hóa học với cuộc sống
- Việc lồng ghép các câu hỏi, bài tập thực tiễn vào trong quá trình dạy và học, trước hết tạo điều kiện cho việc học và hành gắn liền với thực tế, tạo cho học sinh sự hứng thú, hăng say trong học tập. Cái mới luôn là cái kích thích chúng ta tìm hiểu, tạo động cơ thúc đẩy học tập của học sinh
-Nuôi dưỡng nhận thức và các quan niệm đúng đắn về các hiện tượng trong tự nhiên và cuộc sống đều dựa trên các cơ sở khoa học.
- Các em sẽ phát hiện và hiểu rõ được các ứng dụng của hóa học trong các vấn đề thực phẩm, sinh hoạt, y học, sức khỏe, khoa học thường thức, sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp và môi trường.
- Gắn kiến thức hóa học vào cuộc sống thì mỗi tiết học đối với các em giờ đây ko còn là nhàm chán, mà trở thành một nhu cầu mong muốn được tìm hiểu, khám phá. Tìm kiếm qua sách vở, qua tiết học, qua tài liệu, thông tin trên mạng..... rèn luyện năng lực tìm kiếm thông tin.
Hứng thú học tập là một trong những yếu tố quyết định kết quả học tập của học sinh. Học sinh có khả năng mà không có hứng thú thì cũng không đạt kết quả, giáo viên giỏi chuyên môn mà không có kỹ năng tạo hứng thú học tập cho học sinh thì chưa thành công. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải hội tụ kiến thức và tất cả các yếu tố phục vụ cho công việc dạy học. Kỹ năng tạo hứng thú là kỹ năng quan trọng nhất, mà để có được kỹ năng này thì đầu tiên người giáo viên phải có kiến thức sâu, rộng, phải luôn cung cấp cho học sinh lượng kiến thức : Đủ; Đúng; Mới; Thiết thực
 Với giáo viên bộ môn Hóa học, kiến thức hóa học thực tế sẽ đáp ứng mặt thiết thực của kiến thức.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu về vấn đề dùng kiến thức hóa học chương trình phổ thông để liên hệ và giải thích các hiện tượng, các vấn đề thực tiễn gần gũi trong đời sống và xản xuất hàng ngày đối với học sinh THPT 
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 Để thực hiện đề tài, tôi sử dụng phương pháp chủ yếu là tham khảo nhiều tài liệu, bài báo, nguồn Internet có liên nhiều đến các hiện tượng thực tiễn, tham khảo các kinh nghiệm cách làm thực tế của người dân, trao đổi cùng các giáo viên có kinh nghiệm, tìm hiểu nguyên nhân vướng mắc từ phía học sinh, tại sao môn hóa học lại chưa hấp dẫn học sinh; Áp dụng kiểm tra đối chứng, đánh giá và so sánh kết quả ở nhiều lớp tại trường THPT Lê Lợi... rồi đúc rút ra để viết đề tài này. 
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
- Tác động của hóa học đến đời sống con người :
- Trong tự nhiên, nhờ có hóa học mà chúng ta có thể khám phá thiên nhiên, nắm được tính chất, quy luật của thiên nhiên và con người ngày càng thành công trong ngành khoa học khám phá vũ trụ, trái đất,
- Trong đời sống, sản xuất : Hóa học được ứng dụng trong việc nghiên cứu thành phần, tác dụng, chế biến, bảo quản lương thực, thực phẩm, các quy trình sản xuất (sản xuất, chế biến các nguồn nguyên liệu thô thành các nguyên liệu có thể sử dụng trong đời sống sản xuất, chế biến các loại nông sản, chế tạo ra các đồ dùng, vật dụng hằng ngày).
	-Về vấn đề về môi trường hiện nay đang trở thành vấn đề cấp bách và mang tính toàn cầu. Môn hóa học có nhiệm vụ và có nhiều khả năng cung cấp những kiến thức về các tác nhân gây ô nhiễm môi trường. Giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ môi trường. Cần tích hợp nội dung về bảo vệ môi trường vào việc dạy học hóa học. Thông qua đó,  rèn luyện văn hóa lao động (lao động có tổ chức, có kế hoạch, gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ nơi làm việc).
- Tác dụng của các kiến thức thực tế về hóa học : 
- Giúp học sinh nắm được cơ sở hóa học, nắm vững và củng cố kiến thức cơ bản về hóa học.
- Nắm nhanh và kĩ các kiến thức đã học trong bài. Hóa học là ngành hóa học thực nghiệm, học lý thuyết và kiểm tra lại bằng thực tế. Chính việc kiểm nghiệm lại kiến thức bằng thực tiễn sẽ phát sinh các vấn đề để các em có thể hiểu sâu và kĩ các kiến thức đã học, qua đó các em hiểu bài hơn.
- Các kiến thức hóa học thực tế làm cho học sinh hiểu được vai trò to lớn của hóa học trong đời sống : kinh tế, quốc phòng, sinh hoạt, thúc đẩy sự ham hỏi của học sinh.
- Giúp học sinh hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng trong đời sống hằng ngày một cách đúng đắn. Các em sẽ nhận thức được những gì có ích, những gì có hại để điều chỉnh hành vi của mình.
- Tác dụng của việc liên hệ thực tế trong giảng dạy 
* Với người thầy : 
- Mở rộng kiến thức hóa học thực tế rèn luyện một số kỹ năng dạy học :
+ Kỹ năng diễn đạt.
+ Kỹ năng sử dụng phương tiện dạy học.
+ Kỹ năng tiến hành thí nghiệm. 
+ Kỹ năng phân bố thời gian.
+ Kỹ năng giao tiếp
- Kích thích lòng ham thích học tập của học sinh
- Tạo ra giờ học lý thú bổ ích. Khi mở rộng kiến thức hóa học thực tế sẽ có rất nhiều câu hỏi đặt ra kích thích học sinh tư duy trả lời, bầu không khí của lớp sẽ trở nên sôi động, tạo điều kiện cho các học sinh còn nhút nhát tham gia vào bài giảng.
- Gần gũi với học sinh. Khi giáo viên thực hành các kỹ năng nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên sẽ có nhiều cơ hội giao tiếp với học sinh. Nhờ đó mà sẽ tạo được ấn tượng tốt với học sinh
*Với học sinh :
- Các em trở nên yêu thích môn hóa. Khi học sinh được hiểu thấu đáo các vấn đề hóa học, được tham gia vào các hoạt động thực tế Các em sẽ có hứng thú với môn học vì các em đã nắm được tầm quan trọng của môn học, từ đó nâng cao được kiến thức.
- Hình thành năng lực tư duy trước một vấn đề thực tiễn, năng lực vận dụng giải quyết vấn đề, gắn học đi đôi với hành, sử dụng sách các nguồn thông tin hình thành kĩ năng sống đúng khoa học.
- Phát huy tính tích cực sáng tạo trong học tập
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CẢI TIẾN CỦA ĐỀ TÀI
Đa số học sinh chưa hứng thú với bộ môn hóa học, cho rằng học hóa khó, cảm thấy lí thuyết hàn lâm và quá nhiều, các giờ học hóa học sinh thấy nhàm chán, chưa biết tác dụng của môn hóa học. Số học sinh đăng ký đầu vào các khối thi ĐH, CĐ có môn hóa giảm sút mạnh. Trước tình trạng đó tổ bộ môn hóa học chúng tôi đã tìm ra nguyên nhân để khắc phục là do chủ yếu ở các lớp dưới học sinh không có hứng thú với môn hóa học. tất cả những tồn tại trên là do việc giảng dạy ở trường còn mắc phải một số khuyết điểm :
- Còn thiên về lý thuyết thiếu thực tế. giáo viên còn chưa kịp đổi mới dạy học từ định hướng nội dung sang định hướng phát triển năng lực nên học sinh đa số thụ động.
- Chưa cung cấp cho học sinh các kiến thức hóa học có ứng dụng nhiều trong thực tiễn.
- Do đầu vào thấp, cho nên khả năng vận dụng kiến thức để lý giải các tượng liên quan
đến hóa học đối với học sinh còn khó khăn, chưa gắn hóa học với đời sống sản xuất.
Vì vậy để tạo hứng thú và giúp cho học sinh thấy được vai trò quan trọng của môn hóa với đời sống và sản xuất bản thân tôi đã đưa ra kế hoạch dạy học lồng ghép, tích hợp và tổ chức thêm các buổi ngoại khóa cho học sinh hiểu thêm về môn hóa thấy môn hóa rất gần gũi với đời sống hàng ngày, sau một năm học trong kỳ thi kiểm tra chất lượng cuối năm lớp 10 số lượng học sinh thay đổi nguyện vọng đăng ký chuyển học khối A, B tăng lên rõ rệt.
* Do đó, để khắc phục các nhược điểm trên và để nâng cao khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn,để phát triển năng lực cho học sinh, để tạo hứng thú trong việc học môn Hóa học thì việc liên hệ thực tế trong quá trình giảng dạy là cần thiết. 
III. CÁC GIẢI PHÁP CẢI TIẾN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 Với đặc điểm đa dạng và phong phú của các vấn đề thực tiễn, việc truyền đạt cho học sinh những kiến thức thực tiễn có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, thông qua nhiều hình thức khác nhau, có thể đưa vào khi giảng bài mới thông qua các câu hỏi, cách đặt vấn đề, hay một bài tập nhỏ, và cũng có thể giáo viên thông tin cho học sinh; cũng có thể đưa vào trong các giờ luyện tập thông qua các bài tập hay đưa vào đề kiểm tra với một dung lượng nhất định. Đặc biệt là tổ chức các hoạt động ngoại khóa như các cuộc thi,các câu lạc bộ hóa học,.
1. Sử dụng trong giảng dạy bài mới :
 Trong các giờ giảng bài mới giáo viên có thể linh hoạt nhiều phương pháp khác nhau để kết hợp các kiến thức thực tiễn vào bài giảng, thuận lợi nhất là hai phương pháp tích hợp và lồng ghép.
-Tích hợp: là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức hóa học với kiến thức thực tiễn, làm cho chúng hòa quyện vào nhau thành một thể thống nhất.
Ví dụ: Khi giảng bài về “Các hợp chất của cacbon”, bên cạnh giảng về vai trò làm chất khử của CO trong công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp luyện kim, giáo viên cần kết hợp với kiến thức về khả năng gây ngộ độc của CO, triệu chứng bị ngộ độc. Các nguồn sinh CO thường có trong cuộc sống để phòng tránh. Hoặc khi giảng về khí CO2, song song với việc giảng về vai trò của CO2 đối với quá trình quang hợp của cây xanh, đồng thời giáo viên phải đề cập đến vấn đề gây “hiệu ứng nhà kính” của CO2, và giáo dục học sinh nên trồng cây xanh, bảo vệ rừng để bảo vệ môi trường và cuộc sống.
Hoặc khi dạy bài “Photpho”, giáo viên giải thích hiện tượng “Ma trơi”, thông qua đó, giáo dục cho học sinh cách nhìn nhận đúng đắn và khoa học các vấn đề trong cuộc sống, tránh những tư tưởng sai lầm, mê tín dị đoan do kém hiểu biết. Đôi khi chỉ một vài câu liên hệ của giáo viên cũng gây được ảnh hưởng tốt cho học sinh.
-Lồng ghép: là thể hiện sự lắp ghép nội dung bài học về mặt cấu trúc để có thể đưa vào bài học một đoạn, một mục, một số câu hỏi có nội dung liên quan đến thực tiễn.
Ví dụ: Khi giảng về pH của dung dịch ta có thể hỏi học sinh “Vì sao chúng ta lại bị sâu răng? Đặc biệt là khi ăn các thức ăn ngọt?” Hay khi dạy về sự thủy phân của các muối giáo viên có thể đặt câu hỏi “Vì sao phèn chua lại có thể làm trong nước”. Hoặc trong bài “muối amoni”  giáo viên có thể yêu cầu học sinh ““giải thích vì sao trước khi hàn người ta thường rắc một lớp bột amoniclorua lên bề nặt kim loại và nung nóng?”, “tại sao NH4HCO3 được dùng làm bột nở ?”.Giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh vận các dụng kiến thức trong bài để giải quyết vấn đề đặt ra và bổ sung thêm cho học sinh 
những kiến thức có liên quan đến vấn đề nhưng không nằm trong phạm vi kiến thức  
hóa học như vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe,.
2. Sử dụng trong giờ bài tập và kiểm tra đánh giá:
 Trong các giờ bài tập, giáo viên có thể đưa vào các bài tập có nội dung thực tiễn mà học sinh có thể vận dụng được những kiến thức trong nội dung luyện tập để giải quyết hoặc thông qua một bài tập có nội dung lý thuyết, sau khi giải quyết xong giáo viên thông tin thêm những kiến thức thực tiễn có liên quan.
Một số câu hỏi hoặc bài tập mang tính thực tiễn nhưng nội dung trả lời ngắn gọn và chỉ vận dụng thuần túy các kiến thức lý thuyết trong các chương, bài mà  học sinh đã được cung cấp có thể đưa vào các đề kiểm tra 15phút, 1 tiết, kiểm tra học kỳ. Chẳng hạn, khi kiểm tra chương 1, trong chương trình lớp 11 “Sự điện li” có thể đưa vào các câu như: Vì sao nước cất để lâu ngày ngoài không khí lại có PH 7?.....
3. Sử dụng thông qua tổ chức các hoạt động ngoại khóa:
    Giáo viên hóa học nên tổ chức cho học sinh các câu lạc bộ hóa học, các buổi ngoại khóa về hóa học, các cuộc thi hóa học vui,. nhằm tạo điều kiện cho học sinh vận dụng những kiến thức hóa học vào cuộc sống, tạo niềm hứng thú và say mê hóa học, đồng thời kích thích học sinh lòng ham hiểu biết, hình thành cho học sinh thói quen luôn thắc mắc, đặt vấn đề đối với những hiện tượng trong cuộc sống và phải  tìm cách giả quyết cho được các vấn đề đó. Ví dụ, khi tham gia câu lạc bộ nhiều, học sinh sẽ tự mình đưa ra thắc mắc vì sao người ta lại quảng cáo “Kem đánh răng P/S bảo vệ hai lần cho răng chắc khỏe”? “Vì sao những người ăn trầu thường có răng rất chắc và không bị sâu răng?”, “Vì sao phải bón đạm cho cây?”.. Từ đó, học sinh tự tìm cách để giải quyết vấn đề, dần dần hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học.
HỆ THỐNG CÁC CÂU HỎI, BÀI TẬP DÙNG ĐỂ TÍCH HỢP, LỒNG GHÉP TRONG GIẢNG DẠY CHƯƠNG TRÌNH PHỔ THÔNG TRUNG HỌC
KHỐI 10
Bài 30-Clo: 
Nước máy là nguồn nước sạch được công ty cấp nước cung cấp để người dân dùng trong sinh hoạt và đời sống. Khi dùng nước máy em có ngửi thấy mùi của khí gì?Hãy giải thích tại sao lại có mùi đó
 Để làm sạch nước người ta sục vào nước một lượng nhỏ clo thì sẽ có tác dụng sát khuẩn do clo tan một phần trong nước(gây mùi) và phản ứng một phần với nước:
	H2O + Cl2 HCl +HClO
 HClO có tính oxi hóa rất mạnh nên phá hoại hoạt tính một số enzim trong vi sinh vật, làm cho vi sinh vật chết
Như vậy khi giải thích đc hiện tượng thực tiễn này thì học sinh đã nắm được tính diệt khuẩn của HClO và ứng dụng của khí Clo
Bài 31- Hidroclorua- Axit clohidric
Axit clohiđric có vai trò như thế nào đối với cơ thể ?
 Axit clohiđric có vai trò rất quan trọng đối với quá trình trao đổi chất của cơ thể. Trong dịch vị dạ dày của người có axit clohiđric với nồng độ khoảng từ 0,0001 đến 0,001 mol/l (có độ pH tương ứng là 4 và 3). Ngoài việc hoà tan các muối khó tan, axit clohiđric còn là chất xúc tác cho các phản ứng thuỷ phân các chất gluxit (chất đường, bột) và chất protein (chất đạm) thành các chất đơn giản hơn để cơ thể có thể hấp thụ được.
 Lượng axit clohiđric trong dịch vị dạ dày nhỏ hơn hoặc lớn hơn mức bình thường đều mắc bệnh. Khi trong dịch vị dạ dày, axit clohiđric có nồng độ nhỏ hơn 0,0001 mol/l (pH > 4,5) ta mắc bệnh khó tiêu, ngược lại, nồng độ lớn hơn 0,001 mol/l (pH < 3,5) ta mắc bệnh ợ chua.
Khi bị đau dạ dày người bệnh lại dùng thuốc Nabica. Vậy thuốc nabica là gì và Vì sao nabica uống vào lại làm giảm đau dạ dày?
Thành phần của nabica có NaHCO3 dùng để chế thuốc đau dạ dày (bao tử) vì nó làm giảm lượng axit HCl trong dạ dày nhờ phản ứng:
NaHCO3 + HCl ® NaCl + CO2 + H2O
Giải thích trên giúp cho học sinh nắm được tính chất của muối NaHCO3 là muối của axit yếu và có tính lưỡng tính nên td được với axit
Bài 34- Flo
Ngày nay người ta dùngnồi, chảo chống phổ biến. Em có biết vì sao “chảo không dính” khi chiên rán thức ăn lại không bị dính chảo?
Thực ra mặt trong của chảo không dính người ta có trải một lớp hợp chất cao phân tử. Đó là politetra floetylen là một hợp chất của Flo
 (-CF2-CF2-)n được tôn vinh là “vua chất dẻo”  thường gọi là “teflon”. Politetra floetilen chỉ chứa 2 nguyên tố C và F nên liên kết với nhau rất bền chắc. Khi cho teflon vào axit vô cơ hay axit H2SO4 đậm đặc, nước cường thủy( hỗn hợp HCl và HNO3 đặc), vào dung dịch kiềm đun sôi thì teflon không hề biến chất. Dùng teflon tráng lên đáy chảo khi đun  với nước sôi không hề xảy ra bất kì tác dụng nào. Các loại dầu ăn, muối, dấm, cũng xảy ra hiện tượng gì. Cho dù không cho dầu mỡ mà trực tiếp rán cá, trứng trong chảo thì cũng không xảy ra hiện tượng gì.
Một điều chú ý là không nên đốt nóng chảo không trên bếp lửa vì teflon ở nhiệt độ trên 250oC là bắt đầu phân hủy và thoát ra chất độc. Khi rửa chảo không nên chà xát bằng các đồ vật cứng vì có thể gây tổn hại cho lớp chống dính.
Giải thích được hiện tượng trên giúp cho học sinh có thêm hiểu biết nguyên tố Flo có một hợp chất rất bền, bền với nhiệt độ, bền trong các môi trường axit, bazo, chất oxihoa
Trong ngệ thuật điêu khắc có những bức tranh được khắc trên chất liệu thủy tinh rất đẹp. Làm thế nào có thể khắc được thủy tinh ?
Muốn khắc thủy tinh người ta nhúng thủy tinh vào sáp nóng chảy, nhấc ra cho nguội, dùng vật nhọn khắc hình ảnh cần khắc nhờ lớp sáp mất đi, rồi nhỏ dung dịch HF vào thì thủy tinh sẽ bị ăn mòn ở những chỗ lớp sáp bị cào đi
SiO2  + 4HF  →  SiF4↑  +  2H2O
Qua đó khắc sâu cho học sinh tính chất đặc biệt là tính ăn mòn thủy tinh của axit HF
Bài 36- Iot
Hàng năm bộ y tế khuyến cáo người dân dùng muối iot trong bữa ăn. Tại sao phải ăn muối iot ?
Trong cơ thể con người có tồn tại một lượng iot tập trung ở tuyến giáp trạng. Theo các nhà khoa học mỗi ngày cơ thể con người cần được cung cấp 1.10-4- 2.10-4g iot 
Hàng ngày ta phải bổ sung lượng iot cần thiết cho cơ thể bằng cách ăn muối iot. Iôt có trong muối ăn dạng KI và KIO3. Nếu lượng iot không cung cấp đủ thì sẽ dẫn đến tuyến giáp trạng sưng to thành bướu cổ, nặng hơn là đần độn, vô sinh và các chứng bệnh khác. 
Qua đó giúp học sinh hiểu được Iot có trong tuyến giáp trạng của con người và tầm quan trong của nó đối với cơ thể. Sự nguy hiểm khi thiếu iot
Bài 42- Ozonvà hidropeoxit 
Sau những ngày nắng nóng kéo dài, thời tiết oi bức khó chịu chúng ta thường thấy xuất hiện những cơn giông sau cơn giông ta cảm giác không khí trong lành , con người khoái dễ chịu. Vì sao lại như vậy
Sau những ngày nắng to thường có những cơn giông, trong cơn giông hay có sấm sét, tức là có hiện tượng đánh tia lửa điện qua không khí , khi đó đã biến một phần nhỏ oxi trong không khí thành một lượng nhỏ khí ozon.
 3O2 2O3
 Khí ozon sinh ra có tính sát khuẩn, diệt trùng cùng với nước mưa đã dội hết các bụi bẩn trong không khí nên không khí sau cơn mưa đã được diệt khuẩn, sạch hơn và trở nên trong lành, con người có cảm giác khoan khoái dễ chịu khi hít thở bầu không khí trong lành
Vì sao khi sử dụng máy photocopy phải chú ý đến việc thông gió ?
 Chúng ta đều biết khi máy photocopy làm việc thường xảy ra hiện tượng phóng điện cao áp do đó có thể sinh ra khí ozon theo phản ứng: 3O2 2O3
 Với một lượng ít ozon trong không khí thì có tác dụng diệt khuẩn, diệt vi trùng. Nhưng nếu lượng ozon lại vượt qua giới hạn cho phép sẽ gây tổn hại cho đại não, phá hoại khả năng miễn dịch bệnh, gây mất trí nhớ, biến đổi nhiễm sắc thể, gây quái thai ở phụ nữ mang thai, ...Hiển nhiên là lượng ozon do máy photocopy sinh ra rất bé nên nếu ngẫu nhiên mà tiếp xúc với nó 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tao_hung_thu_mon_hoc_va_phat_trien_nang_luc_hoc_sinh_ba.doc