SKKN Kinh nghiệm sử dụng kết hợp các phương tiện và phương pháp dạy học vào giảng dạy bài “cảm xúc mùa thu” (thu hứng) của đỗ phủ - Sgk Ngữ văn 10 - Ban cơ bản

SKKN Kinh nghiệm sử dụng kết hợp các phương tiện và phương pháp dạy học vào giảng dạy bài “cảm xúc mùa thu” (thu hứng) của đỗ phủ - Sgk Ngữ văn 10 - Ban cơ bản

Có thể nói, việc dạy văn trong nhà trường phổ thông không bao giờ là dễ dàng cả, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi học sinh không còn cảm thấy hứng thú với môn văn vì cho đó là môn học dài dòng, phải học thuộc, phải viết nhiều,. Vì vậy, đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng tìm tòi những phương pháp, phương tiện dạy học hữu hiệu để giúp các em học sinh không “quay lưng” lại với môn văn.

 Là người rất quan tâm đến sự nghiệp “trồng người”và đặc biệt là môn Ngữ Văn, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng đưa ra ý kiến vô cùng giá trị cho việc gợi mở, tìm tòi một cách thức dạy học mới: “Học sinh học nhiều, nhớ nhiều là điều đáng khuyến khích, nhưng đó không phải là điều chủ yếu. Điều chủ yếu là dạy học sinh suy nghĩ, sáng tạo. Chúng ta phải xem lại cách dạy văn trong nhà trường phổ thông của ta, không nên dạy như cũ. Bởi vì dạy như cũ thì không những việc dạy văn không hay, mà việc đào tạo con người mới cũng không có kết quả. Vì vậy dứt khoát chúng ta phải có cách dạy khác, phải dạy cho học sinh biết suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí óc của mình, và diễn tả sự suy nghĩ đó theo theo cách của mình thế nào cho tôt nhất”. Dạy học nhằm tạo ra sự tác động trong nhận thức và tình cảm, sự tích cực suy nghĩ, niềm đam mê ham thích sáng tạo, tìm tòi của học sinh chứ không phải tạo ra thói quen trông chờ và bắt chước - đó là một tư tưởng quan trọng, kiên quyết và mạnh mẽ;

 Trong quá trình dạy học văn, chúng ta không chỉ dạy những tác phẩm văn học trong nước mà còn dạy những tác phẩm văn học nước ngoài. Bởi “văn học là lịch sử tâm hồn của mỗi dân tộc” và việc dạy và học những tác phẩm văn học nước ngoài đó không chỉ giúp học sinh hiểu biết thêm về đời sống tâm hồn của các dân tộc mà còn giúp các em tiếp thu được tri thức của các nền văn hóa trên thế giới, từ đó góp phần bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách của mình, vì dù cho có khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa thì văn học các dân tộc đều có nét chung là hướng tới Chân, Thiện, Mĩ, giúp con người sống tốt hơn, nhân ái hơn. Từ đó giúp học sinh nâng cao khả năng tự tin khi bước vào thời kì hội nhập.

 

doc 22 trang thuychi01 4670
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm sử dụng kết hợp các phương tiện và phương pháp dạy học vào giảng dạy bài “cảm xúc mùa thu” (thu hứng) của đỗ phủ - Sgk Ngữ văn 10 - Ban cơ bản", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TÊN ĐẦU ĐỀ	 TRANG
1.MỞ ĐẦU	1
1.1. Lý do chọn đề tài 	1
1.2. Mục đích nghiên cứu	3
1.3. Đối tượng nghiên cứu	3
1.4. Phương pháp nghiên cứu 	4
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 	4
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm	4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm	6
2.3. Sáng kiến kinh nghiệm 	8
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 	17
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 	19
3.1.Kết luận 	19
3.2. Kiến nghị 	19
TƯ LIỆU THAM KHẢO 	21
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KINH NGHIỆM SỬ DỤNG KẾT HỢP
CÁC PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀO GIẢNG DẠY
BÀI “CẢM XÚC MÙA THU”(THU HỨNG) CỦA ĐỖ PHỦ
- SGK NGỮ VĂN 10 - BAN CƠ BẢN
1.PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
	Có thể nói, việc dạy văn trong nhà trường phổ thông không bao giờ là dễ dàng cả, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi học sinh không còn cảm thấy hứng thú với môn văn vì cho đó là môn học dài dòng, phải học thuộc, phải viết nhiều,... Vì vậy, đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng tìm tòi những phương pháp, phương tiện dạy học hữu hiệu để giúp các em học sinh không “quay lưng” lại với môn văn.
	Là người rất quan tâm đến sự nghiệp “trồng người”và đặc biệt là môn Ngữ Văn, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng đưa ra ý kiến vô cùng giá trị cho việc gợi mở, tìm tòi một cách thức dạy học mới: “Học sinh học nhiều, nhớ nhiều là điều đáng khuyến khích, nhưng đó không phải là điều chủ yếu. Điều chủ yếu là dạy học sinh suy nghĩ, sáng tạo... Chúng ta phải xem lại cách dạy văn trong nhà trường phổ thông của ta, không nên dạy như cũ. Bởi vì dạy như cũ thì không những việc dạy văn không hay, mà việc đào tạo con người mới cũng không có kết quả. Vì vậy dứt khoát chúng ta phải có cách dạy khác, phải dạy cho học sinh biết suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí óc của mình, và diễn tả sự suy nghĩ đó theo theo cách của mình thế nào cho tôt nhất”. Dạy học nhằm tạo ra sự tác động trong nhận thức và tình cảm, sự tích cực suy nghĩ, niềm đam mê ham thích sáng tạo, tìm tòi của học sinh chứ không phải tạo ra thói quen trông chờ và bắt chước - đó là một tư tưởng quan trọng, kiên quyết và mạnh mẽ; 
	Trong quá trình dạy học văn, chúng ta không chỉ dạy những tác phẩm văn học trong nước mà còn dạy những tác phẩm văn học nước ngoài. Bởi “văn học là lịch sử tâm hồn của mỗi dân tộc” và việc dạy và học những tác phẩm văn học nước ngoài đó không chỉ giúp học sinh hiểu biết thêm về đời sống tâm hồn của các dân tộc mà còn giúp các em tiếp thu được tri thức của các nền văn hóa trên thế giới, từ đó góp phần bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách của mình, vì dù cho có khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa thì văn học các dân tộc đều có nét chung là hướng tới Chân, Thiện, Mĩ, giúp con người sống tốt hơn, nhân ái hơn. Từ đó giúp học sinh nâng cao khả năng tự tin khi bước vào thời kì hội nhập.
	 Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, việc dạy và học văn học nước ngoài vẫn bị xem nhẹ, một phần là do chúng ta tiếp cận các tác phẩm từ các bản dịch và đương nhiên các bản dịch dù ít nhiều cũng không thể chuyển tải được một trăm phần trăm nguyên bản tác phẩm nên chúng ta khó cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn bản. Mặt khác, mỗi dân tộc đều có một đời sống văn hóa riêng nên khiến chúng ta cảm thấy xa lạ khi tiếp cân tác phẩm. Hơn thế nữa là, do trong các bài kiểm tra trên lớp, đặc biệt là đề thi Ngữ văn của các kì thi trung học phổ thông quốc gia hiện nay không thi phần văn học nước ngoài nên cả giáo viên và học sinh đều không chú trọng đến phần này.Tôi nghĩ đây là một điều đáng tiếc.
	Một trong những phần văn học nước ngoài được đề cập nhiều nhất trong sách giáo khoa (cả THCS và THPT) là thơ Đường. Riêng trong chương trình Ngữ văn lớp 10, chúng ta có đến 5 văn bản thơ Đường ( trong đó 2 văn bản học chính thức và 3 văn bản đọc thêm) và chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy rằng thơ Đường đã ảnh hưởng sâu rộng đến văn học nước ta như thế nào. Bất cứ về là về phương diện chọn đề tài, xây dựng hình ảnh, cấu tạo tứ thơ, sử dụng ngôn ngữ ... Thơ Đường đều đã cung cấp cho các nhà thơ Việt Nam những chất liệu sống động, những gợi ý quý báu. Truyền thống hiện thực, nhân đạo của thơ Đường đã tác động tích cực đến nhiều nhà thơ tiến bộ của Việt Nam. Có thể tìm thấy dấu vết nhiều bài thơ Đường phản đối chiến tranh, trước hết là của Vương Xương Linh và của Lí Bạch, trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Có thể tìm thấy âm vang của Tì bà hành (Bạch Cư Dị), không chỉ trong thơ ca cổ điển Việt Nam mà cả trong phong trào Thơ mới 1930 - 1945. Nguyễn Du đã tôn Đỗ Phủ “Bậc thầy thiên cổ của văn chương thiên cổ”. 
	Song, việc giảng dạy thơ Đường trong trường phổ thông đang còn gặp rất nhiều khó khăn một phần vì nó là một thể thơ ngoại nhập,ngôn ngữ khác, với nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng, điển cố, điển tích. Mặt khác thơ Đường yêu cầu rất nghiêm ngặt về niêm, luật, đối, vần, bố cục ... lại mang tính hàm súc cao, “ý tại ngôn ngoại”, cộng với những khoảng cách về không gian, thời gian, sự khác biệt về hoàn cảnh xã hội, văn hóa... sẽ là những trở ngại không nhỏ đối với học sinh. Chính vì thế, người giáo viên muốn dạy thành công các tác phẩm thơ Đường không chỉ cần có kiến thức chắc chắn, một sự am hiểu sâu sắc về thơ Đường mà cần phải có phương pháp giảng dạy phù hợp, có các phương tiện giảng dạy thích hợp.
Chủ trương đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo là lấy học sinh làm trung tâm, nâng cao vai trò của học sinh trong giờ học. Giáo viên chỉ có vai trò hướng dẫn, chỉ đường để học sinh tự nắm lấy tri thức. Từ đó giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác,kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui và niềm hứng thú trong học tập.
Muốn đổi mới cách học, phải đổi mới cách dạy. Cách dạy sẽ quyết định cách học. Để học sinh có thể nắm bắt bài học một cách chủ động, giáo viên không chỉ sử dụng các tài liệu như SGK, SGV, các tài liệu tham khảo mà còn phải sử dụng đa dạng các phương tiện, thiết bị dạy học như tranh ảnh, bảng phụ, các đồ dùng thí nghiệm trực quan... . Tuy nhiên, phương tiện dạy học không chỉ dừng ở mức minh họa nội dung dạy học mà phải trở thành công cụ nhận thức, là một bộ phận hữu cơ của cả phương pháp và nội dung dạy học. Do yêu cầu tăng hoạt động thực hành, nên khi xây xây dựng chương trình cần đặt đúng vị trí của thiết bị dạy học bộ môn. Có thể nói, thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai chương trình sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực,chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này, phương tiện, thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh thực hiện các hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.
	Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, hầu hết các nhà trường đều được trang bị hệ thống máy vi tính, máy chiếu để phục vụ cho công tác giảng dạy đạt chất lượng tốt hơn. Vì thế chúng ta cần tận dụng tối ưu các thiết bị hiện đại này.
	Sau nhiều năm giảng dạy, tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi để sử dụng các phương tiện dạy học tốt hơn.Cùng với việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì việc sử dụng phương tiện đã giúp cho tôi có các tiết dạy trên lớp đạt hiệu quả cao hơn, đặc biệt là các tiết dạy về thơ Đường. Từ đó, tôi đã tự tích lũy cho mình một số kinh nghiệm nhỏ về việc sử dụng kết hợp các thiết bị, phương tiện dạy học và các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy các tiết đọc văn, cụ thể là bài học “Cảm xúc mùa thu” (Thu hứng) của tác giả Đỗ Phủ. Bài học này được học trong thời gian một tiết học.
1.2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 	Khi viết đề tài này tôi có mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sự thành công chung của tiết dạy và vào lĩnh vực nghiên cứu này. Đồng thời, qua đề tài này tôi muốn được lắng nghe, tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp để đề tài của tôi hoàn thiện hơn, cũng như hoàn thiện hơn phương pháp giải dạy của mình.
	Đồng thời qua đề tài này tôi cũng mong muốn lồng ghép nội dung rất thực tế là rèn luyện kĩ năng sống, lòng yêu nước cho HS, giúp HS rút ngắn khoảng cách địa lý và lịch sử giữa các nền văn hóa để hoàn thiện bản thân mình.
	Cần cho học sinh thấy được Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc, được người Trung Quốc mệnh danh là “thi thánh”, là danh nhân văn hóa thế giới. Thơ ông có nội dung phong phú, sâu sắc được gọi là “thi sử” (lịch sử bằng thơ) chứa chan tinh thần yêu nước và nhân đạo; nghệ thuật điêu luyện, phong cách trầm uất. Đồng thời cũng thấy được sức ảnh hưởng to lớn của Đỗ Phủ đối với các nhà thơ Việt Nam trung đại như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.... Học sinh cần rèn luyện kỹ năng, phương pháp tiếp cận một tác phẩm văn học chân chính.
	Qua tác phẩm học sinh tự rút ra bài học về cách sống để hoàn thiện bản thân.
1.3.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là bài học “Cảm xúc mùa thu”(Thu hứng) của tác giả Đỗ Phủ trong chương trình Ngữ văn 10 – Ban cơ bản. Người nghiên cứu sau khi tham khảo tài liệu tìm hiểu về bài học đã viết đề tài này.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Từ việc tìm hiểu đặc điểm chung về một vài phương pháp dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên áp dụng cụ thể vào một số tiết học cụ thể trong chương trình Ngữ Văn 10- Ban cơ bản.
- Để đạt được kết quả nghiên cứu, tôi đã vận dụng tổng hợp các phương pháp : quan sát, tìm hiểu, phân tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, thực nghiệm, xây dựng kế hoạch bài học, giảng dạy cụ thể trong một giờ đọc văn “Cảm xúc mùa thu”(Thu hứng) của tác giả Đỗ Phủ sau đó rút kinh nghiệm để triển khai đề này.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 2.1.CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.1.Khái niệm về phương tiện dạy học
	Phương tiện dạy học là những đối tượng vật chất được giáo viên sử dụng với tư cách là những phương tiện tổ chức đều khiển hoạt động nhận thức của người học nhằm đạt mục tiêu dạy học.
	Phương tiện dạy học là toàn bộ các phương tiện mang tin, phương tiện truyền tin và phương tiện tương tác trong sự hỗ trợ và điều khiển quá trình dạy học.
	Ví dụ: sách giáo khoa, bảng viết, tranh ảnh, phim, các đoạn clip, máy chiếu...
2.1.2 Vai trò của phương tiện dạy học
	- Giúp học sinh dễ hiểu bài, hiểu bài sâu sắc hơn và nhớ bài lâu hơn. Phương tiện dạy học tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nghiên cứu dạng bề ngoài của đối tượng và các tính chất có thể tri giác trực tiếp của chúng.
	- Phương tiện dạy học giúp là sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng thú học tập bộ môn.
	- Phương tiện dạy học còn giúp cho học sinh phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là khả năng quan sát, tư duy (phân tích, tổng hợp các hiện tượng, rút ra những kết luận có độ tin cậy ... ).
	- Giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết học. Giúp giáo viên điều khiển được hoạt động nhận thức của học sinh, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của các em được thuận lợi và có hiệu suất cao.
2.1.3 Khái niệm về phương pháp dạy học
	- Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp (Methodos) có nghĩa là con đường để đạt mục đích. Theo đó, phương pháp dạy học là con đường để đạt mục đích dạy học.
	- Phương pháp dạy học là một hệ thống hành động có mục đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh, đảm bảo học sinh lĩnh hội nội dung học vấn.
	- Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (tháng 1-1993); Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (tháng 12 - 1996) được thể chế hóa trong Luật giáo dục (tháng 12-1998) , được thể chế hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (tháng 4 - 1999)
 	- Luật giáo dục, điều 28.2, đã ghi: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức và thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” 
	- Phương pháp dạy học là cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Cách thức hành động bao giờ cũng diễn ra trong những hình thức cụ thể. Cách thức và hình thức không tách nhau một cách độc lập. Phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục đích dạy học. Phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức, thông qua đó và bằng cách đó giáo viên và học sinh lĩnh hội những hiện thực tự nhiên và xã hội xung quanh trong những điều kiện học tập cụ thể.
2.1.4 Một số phương pháp dạy học trong nhà trường.
* Phương pháp vấn đáp: 
	- Vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra những câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.
	- Có ba cách vấn đáp: vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích - minh họa, vấn đáp tìm tòi.
* Phương pháp đọc sáng tạo: 
	- Đọc sáng tạo là phương pháp đặc biệt với bộ môn văn. Đọc sáng tạo bao gồm cả đọc thầm, đọc thành tiếng. Mỗi người đọc đem phần kinh nghiệm sống, vốn văn hóa riêng của mình vào việc tiếp nhận văn bản, tiếp nhận một cách chủ động sáng tạo. Đọc diễn cảm là một hình thức của đọc sáng tạo.
	- Nếu hoạt động này làm tốt sẽ giúp học sinh hình dung, tưởng tượng nội dung ẩn chứa trong bài. Chỉ khi nào thực sự hiểu, cảm nhận được cái hay cái đẹp của văn bản, lúc đó mới có thể đọc diễn cảm được và ngược lại, đọc diễn cảm văn bản cũng chính là cách giúp học sinh hiểu sâu hơn về văn bản. 
* Phương pháp nêu vấn đề:
	- Phương pháp dạy học nêu vấn đề là một trong những phương pháp dạy học mà ở đó giáo viên là người tạo ra tình huống có vấn đề, tổ chức, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, học sinh tích cực, chủ động, tự giác giải quyết vấn đề thông qua quá trình đó mà lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, nhằm đạt được mục tiêu dạy học.
	- Ở phương pháp này, học sinh tích cực, chủ động, tự giác tham gia hoạt động học, tự mình tìm ra tri thức cần học chứ không phải được thầy giảng giải một cách thụ động, học sinh là chủ thể sáng tạo ra hoạt động học. Học sinh không những được học nội dung học tập mà còn được học con đường và cách thức tiến hành dẫn đến kết quả đó. Học sinh học được cách phát hiện và giải quyết vấn đề.
* Phương pháp phân tích, bình giảng:
	- Phương pháp phân tích là phân chia các vấn đề cần bàn luận thành các bộ phận để có thể xem xét một cách cặn kẽ và kĩ càng. Trong việc giảng dạy đọc hiểu văn bản văn học, cần phải có sự phân tích, chia nhỏ vấn đề để đi sâu vào từng khía cạnh của tác phẩm nhằm mục đích hiểu được những tầng ý nghĩa của văn bản và dụng ý của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.
	- Còn phương pháp bình giảng để thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học, đem đến cho học sinh những xúc cảm thẩm mĩ, và thêm yêu, thêm quý tác phẩm văn học.
	- Có thể nói trong việc dạy học môn ngữ văn không thể thiếu được phương pháp phân tích, bình giảng bởi nếu không có phân tích, bình giảng sẽ không thấy được ý đồ nghệ thuật của nhà văn cũng như những sáng tạo độc đáo và tài năng của tác, thấy được những thành công của tác giả trong việc điều khiển những “con chữ” để tạo nên những hình tượng nghệ thuật bất hủ và những trang chi tiết, hình ảnh in đậm mãi trong tâm trí người đọc.
2.2.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
- Một trong những trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và niềm vui trong học tập. Tiếp tục tận dụng các ưu điểm của phương pháp truyền thống và dần dần làm quen với những phương pháp mới.
- Trước đây khi chưa sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học tích cực cùng với việc sử dụng các phương tiện dạy học, trong mỗi tiết dạy đọc văn, tôi vẫn thường xuyên sử dụng nhiều phương pháp khác nhau đặc biệt là phương pháp đàm thoại phát vấn, nêu vấn đề để học sinh trả lời. Song tôi vẫn nhận thấy kết quả đạt được chưa cao bởi chưa thực sự phát huy được tính tích cực của học sinh, kết của giờ dạy được phản ánh như sau :
+ 65 % học sinh nắm được nội dung ngay tại lớp và có thể làm đúng bài tập, biết vận dụng vào các bài tập khác.
+ 35 % hiểu rất lơ mơ về bài học và không thể làm được các bài tập ứng dụng.
+ 25 % học sinh tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài
+ 10 % học sinh khi giáo viên gọi lên mới trả lời và thường trả lời chưa đạt yêu cầu.
Số còn lại chỉ ngồi nghe và ghi theo hướng dẫn của giáo viên, giờ học thiếu sôi nổi
Điều tra bất kỳ 10 em thì có : 4 em hiểu bài, 3 em không rung động với nội dung bài học, 3 em cho rằng câu hỏi giáo viên đặt ra rất khó.
	- Bài thơ Thu hứng (cảm xúc mùa thu) là bài đầu trong chùm thơ Thu hứng của Đỗ Phủ. Đây là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Đỗ Phủ nói riêng và thơ Đường nói chung. Ta thấy tác giác đã vẽ nên bức tranh phong cảnh mùa thu tại kẽm Vu (Vu Hiệp) thuộc núi Vu Sơn với cảnh sắc tiêu sơ vắng lạnh và đầy hiểm nguy; từ đó mà biểu lộ nỗi lòng đau thương của người chạy loạn, nỗi u hoài da diết về quê hương. Ở đây, ta thấy tình và cảnh hòa quện đến kỳ lạ, lời thơ thì thảm đạm mà ý cảnh thì hùng tráng; thêm nữa, âm điêu mạnh mẽ, câu chữ tinh luyện đã làm cho vần thơ có sức biểu hiện thật là cao. 
	- Tuy nhiên, cũng giống như nhiều bài thơ Đường khác, dạy Cảm xúc mùa thu thực chất là dạy bản dịch thơ và “Dịch tất phản”, dịch thơ rất khó, dịch thơ Đường lại càng khó hơn. Bản dịch của Nguyễn Công Trứ đã rất đạt nhưng còn có một vài chỗ dịch chưa hết ý, chưa thể hiện được trọn vẹn các hàm nghĩa và đặc sắc nghệ thuật của nguyên tác. Thêm nữa, do tính chất đặc biệt cô đọng của bài Thu hứng cộng với những khoảng cách về không gian, thời gian sự khác biệt về hoàn cảnh xã hội, văn hóa sẽ là những trở ngại không nhỏ đối với học sinh. Đây là bài thất ngôn bát cú đường luật đầu tiên của Trung Quốc mà học sinh được học trong chương trình (ở trung học cơ sở, học sinh được học và đọc thêm ba bài thất ngôn tứ tuyệt, một bài ngũ ngôn tứ tuyệt). Vì thế học sinh sẽ không tránh khỏi những bỡ ngỡ nhất định khi vận dụng những kiến thức về luật thơ Đường để hiểu về bài thơ này. 
	- Vì vây, tôi thiết nghĩ cần phải giúp các em từ chỗ còn hiểu biết, mơ hồ, nông cạn về bài thơ Cảm xúc mùa thu nói riêng và thơ Đường nói chung, cần phải hiểu thật đúng, thật sâu sắc về tác phẩm này để thấy được tính chất cô đọng, hàm súc, “lời ít ý nhiều”và cách biểu hiện tư tưởng, tình cảm của nhà thơ trong tác phẩm cũng như nghệ thuật tinh tế, điêu luyện của tác giả.
	- Để tiết học được sinh động hấp dẫn hơn, học sinh học bài được hứng thú, say mê và nắm bắt tinh thần của bài học một cách đúng đắn và sâu sắc nhất, tôi đã suy nghĩ và quyết định sử dụng phương tiện điện tử có sử dụng các hình ảnh minh họa kết hợp với việc sử dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy vào từng phần, từng mục của bài để soạn bài học này để giúp học sinh có thể vừa khắc sâu kiến thức về lý thuyết ,vừa củng cố kiến thức bằng các dẫn chứng sinh động, cụ thể, vừa có thể giúp học sinh biết cách phân tích hoặc bình giảng một văn bản văn học theo đặc trưng thể loại.
- Bài học được phân phối thời gian trong 1 tiết, nội dung bài học thì nhiều mà thời gian lại có hạn với biết bao điều cần khai thác, cần hỏi, cần để học sinh tìm hiểu, nắm bắt. Đối tượng tiếp nhận bài học lại là học sinh trường trung du, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên nhiều em chưa thực sự chú tâm vào học hành, còn hạn chế nhiều về năng lực cảm thụ, lỗ hổng kiến thức còn nhiều nên không phải em nào cũng yêu thích học văn và hơn nữa không phải em nào cũng có khao khát tìm kiếm khám phá về bài học.
2.3. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
	TÊN BÀI DẠY: CẢM XÚC MÙA THU (THU HỨNG)
	- Mức độ cần đạt của bài học này là: 
	+ Hiểu được tâm trạng buồn rầu của nhà th

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_su_dung_ket_hop_cac_phuong_tien_va_phuong_p.doc