SKKN Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phát hiện nhanh, chính xác; tạo lập và sử dụng thành thạo cụm Danh từ

SKKN Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phát hiện nhanh, chính xác; tạo lập và sử dụng thành thạo cụm Danh từ

Tiếng Việt là ngôn ngữ của dân tộc Việt, đồng thời cũng là tiếng phổ thông của tất cả các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm phát triển cùng với sự phát triển của dân tộc, Tiếng Việt càng ngày càng phát triển.

Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay, là ngôn ngữ chính thức trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở tất cả các bậc học, ngành học; Là chất liệu của sáng tạo nghệ thuật; Là công cụ nhận thức, tư duy của người Việt. Mặt khác, Tiếng Việt còn mang rõ dấu ấn của nếp cảm, nếp nghĩ, nếp sống của người Việt, nó là phương tiện tổ chức và phát triển xã hội.

Học Tiếng Việt chính là cách tốt nhất để bồi dưỡng tinh thần Việt, bản sắc Việt. Vì vậy, Tiếng Việt ở trường THCS có vai trò quan trọng. Nó giúp cho người học phát triển tư duy, hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; giúp cho học sinh sử dụng tốt, đúng Tiếng Việt, bồi dưỡng lòng yêu mến tiếng mẹ đẻ, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt - chìa khóa vạn năng của dân tộc Việt. Chính những vai trò và chức năng trên cho thấy sự cần thiết của phân môn Tiếng Việt và việc giảng dạy Tiếng Việt trong nhà trường.

Để trang bị cho học sinh công cụ nhận thức và phương tiện giao tiếp, trong giờ dạy Tiếng Việt, yêu cầu người dạy không chỉ nắm vững kiến thức mà còn phải có cách thức làm việc và tổ chức cho học sinh làm việc sao cho học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức, hình thành các kĩ năng, kĩ sảo.

Có thể nói, bộ môn Ngữ văn trong nhà trường là bộ môn được xếp nhiều tiết dạy trong một tuần, lại rất có ý nghĩa trong việc hình thành nhân cách, kĩ năng sống ở học sinh. Song những năm gần đây, bộ môn này chưa được học sinh quan tâm học đúng mức, các em chỉ chú trọng học các môn như: Toán, lí, hóa, anh. Ngay cả phụ huynh học sinh cũng không hứng thú khi con đầu tư thời gian học hay dự thi học sinh giỏi các cấp bộ môn này.

Cũng giống như phân môn Tập làm văn, dạy học phân môn Tiếng Việt khô khan hơn so với phân môn văn bản, kiến thức tuy ít hơn nhưng độ chính xác cao. Mặt khác, học sinh nắm kiến thức và kĩ năng sử dụng Tiếng Việt có phần hời hợt nên đa số giáo viên đều ngại dạy thao giảng phân môn này. Điều đó ảnh hưởng đến việc học hỏi kinh nghiệm giảng dạy phân môn này giữa đồng nghiệp với nhau.

 

doc 15 trang thuychi01 8002
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phát hiện nhanh, chính xác; tạo lập và sử dụng thành thạo cụm Danh từ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mục
Nội dung
Trang
A
Mở đầu
1
I
Lí do chọn đề tài
1
II
Mục đích nghiên cứu
2
III
Đối tượng nghiên cứu
2
IV
Phương pháp nghiên cứu
2
B
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
I
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
II
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
III
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3
Giải pháp 1: Nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức - kĩ năng, tài liệu tham khảo liên quan cụm danh từ
3
Giải pháp 2: Yêu cầu học sinh nắm vững kiến thức về danh từ, số từ, lượng từ và chỉ từ
4
Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức lí thuyết của cụm danh từ
4
Giải pháp 4: Hướng dẫn và yêu cầu học sinh vận dụng lí thuyết để làm các bài tập từ dễ đến khó, từ nhận biết đến tạo lập
7
IV
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
11
C
Kết luận và đề xuất
12
I
Kết luận
12
II
Đề xuất
12
Danh mục tài liệu tham khảo
Danh mục sáng kiến đã được công nhận
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là ngôn ngữ của dân tộc Việt, đồng thời cũng là tiếng phổ thông của tất cả các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm phát triển cùng với sự phát triển của dân tộc, Tiếng Việt càng ngày càng phát triển.
Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay, là ngôn ngữ chính thức trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở tất cả các bậc học, ngành học; Là chất liệu của sáng tạo nghệ thuật; Là công cụ nhận thức, tư duy của người Việt. Mặt khác, Tiếng Việt còn mang rõ dấu ấn của nếp cảm, nếp nghĩ, nếp sống của người Việt, nó là phương tiện tổ chức và phát triển xã hội... 
Học Tiếng Việt chính là cách tốt nhất để bồi dưỡng tinh thần Việt, bản sắc Việt. Vì vậy, Tiếng Việt ở trường THCS có vai trò quan trọng. Nó giúp cho người học phát triển tư duy, hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; giúp cho học sinh sử dụng tốt, đúng Tiếng Việt, bồi dưỡng lòng yêu mến tiếng mẹ đẻ, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt - chìa khóa vạn năng của dân tộc Việt. Chính những vai trò và chức năng trên cho thấy sự cần thiết của phân môn Tiếng Việt và việc giảng dạy Tiếng Việt trong nhà trường.
Để trang bị cho học sinh công cụ nhận thức và phương tiện giao tiếp, trong giờ dạy Tiếng Việt, yêu cầu người dạy không chỉ nắm vững kiến thức mà còn phải có cách thức làm việc và tổ chức cho học sinh làm việc sao cho học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức, hình thành các kĩ năng, kĩ sảo. 
Có thể nói, bộ môn Ngữ văn trong nhà trường là bộ môn được xếp nhiều tiết dạy trong một tuần, lại rất có ý nghĩa trong việc hình thành nhân cách, kĩ năng sống ở học sinh. Song những năm gần đây, bộ môn này chưa được học sinh quan tâm học đúng mức, các em chỉ chú trọng học các môn như: Toán, lí, hóa, anh... Ngay cả phụ huynh học sinh cũng không hứng thú khi con đầu tư thời gian học hay dự thi học sinh giỏi các cấp bộ môn này.
Cũng giống như phân môn Tập làm văn, dạy học phân môn Tiếng Việt khô khan hơn so với phân môn văn bản, kiến thức tuy ít hơn nhưng độ chính xác cao. Mặt khác, học sinh nắm kiến thức và kĩ năng sử dụng Tiếng Việt có phần hời hợt nên đa số giáo viên đều ngại dạy thao giảng phân môn này. Điều đó ảnh hưởng đến việc học hỏi kinh nghiệm giảng dạy phân môn này giữa đồng nghiệp với nhau.
Hiện nay, nói đến Ngữ văn nói chung, Tiếng Việt nói riêng, học sinh ít có hứng thú học tập. Do đó, trong giờ dạy Tiếng Việt, việc tổ chức cho học sinh nắm bài hiệu quả và yêu quý bộ môn này là vấn đề khó so với các môn khác. 
Tiết dạy “Cụm danh từ” là một tiết dạy tuy phần bài tập vừa sức nhưng kiến thức phần lí thuyết thực sự nặng, khó nên để học sinh nắm vững được kiến thức lí thuyết và biết vận dụng thực hành chỉ trong một tiết học là một vấn đề khá vất vả đối với giáo viên. 
Mặt khác, bản thân cảm thấy sách giáo khoa biên soạn thứ tự bài dạy phần Tiếng Việt chưa được hợp lí với lôgíc hệ thống kiến thức (Bài “Danh từ” -> bài “Cụm danh từ” -> bài “Số từ, lượng từ” -> bài “Chỉ từ”). Bởi số từ, lượng từ, chỉ từ là các thành phần phụ kết hợp với danh từ làm thành phần chính của cụm từ để tạo thành cụm danh từ.
Có thể nói, theo cảm nhận của bản thân, nội dung kiến thức về cụm danh từ so với học sinh là nặng và khó. Vì ở tiểu học các em mới học kiến thức về từ loại, còn cụm từ loại nói chung, cụm danh từ nói riêng là đơn vị kiến thức nâng cao hơn (đó là tổ hợp từ được tạo ra nhờ sự kết hợp của danh từ với một số từ ngữ phụ thuộc khác tạo thành) các em chưa được học, trong khi đó, các em mới bước vào cấp THCS, đang làm quen với phương pháp học của cấp học mới. Không những thế, trong các loại cụm từ thì cụm danh từ là loại cụm từ có mô hình cấu tạo phức tạp hơn cả và lại là bài đầu tiên của cụm từ loại Tiếng Việt. Kiến thức đã khó, dung lượng nhiều nhưng theo phân phối chương trình bài này chỉ dạy trong một tiết học nên học sinh rất dễ lẫn lộn, tràng màng về kiến thức và kĩ năng thực hành. Do đó, trong khuôn khổ đề tài này, tôi mạnh dạn đưa ra “Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phát hiện nhanh, chính xác; tạo lập và sử dụng thành thạo cụm Danh từ”.	
II. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phát hiện nhanh, chính xác; tạo lập và sử dụng thành thạo cụm Danh từ để các em biết nhận diện cụm danh từ, mở rộng thêm vốn từ, sử dụng cụm danh từ để tạo câu, nâng cao kết quả học tập phân môn Tiếng Việt nói riêng, môn Ngữ văn nói chung. Từ đó vận dụng vào quá trình giao tiếp, đồng thời góp phần vào việc bồi dưỡng tinh thần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
III. Đối tượng nghiên cứu
- Kiến thức lí thuyết về cụm danh từ (ở phân môn Tiếng Việt - Ngữ văn 6).
- Các ví dụ minh họa và các bài tập tương tự để HS vận dụng thành thạo kiến thức lí thuyết cũng như các thao tác khác.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi đã vận dụng phương pháp nghiên cứu khoa học như: nghiên cứu tài liệu dạy và học tích cực; một số phương pháp và kĩ thuật dạy học áp dụng cho chương trình SGK cải cách; SGK, SGV, tài liệu trên mạng Internet; học hỏi và rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp thông qua các tiết dự giờ, các cuộc thi, các chuyên đề, hội thảo chuyên môn
Kết hợp nhiều phương pháp tích lũy, điều tra cơ bản, tổng kết kinh nghiệm sư phạm và sử dụng một số phương pháp thống kê toán học trong việc phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm 
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Khi nói, viết, chúng ta thường sử dụng đơn vị thông báo ở cấp độ câu. Trong khi đó, cùng với đơn vị ngôn ngữ từ Tiếng Việt, cụm từ Tiếng Việt có vai trò trực tiếp trong việc tạo câu. Do đó, học sinh nắm vững kiến thức về cụm từ Tiếng Việt nói chung, cụm từ loại Tiếng Việt nói riêng sẽ giúp các em biết dùng từ, đặt câu đúng ngữ pháp, có ý nghĩa; giúp phát triển, mở rộng vốn từ cho mình, phục vụ hiệu quả vào quá trình giao tiếp nói và viết, đồng thời nâng cao năng lực sử dụng Tiếng Việt - tiếng mẹ đẻ cho mỗi học sinh.
Trong các loại cụm từ loại được học (Cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ) thì cụm danh từ là cụm từ loại cấu tạo nên rất nhiều kiểu câu. Mặt khác về cấu trúc mô hình, đây là cụm từ loại phức tạp hơn cả. 
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Năm học 2016 - 2017 bản thân tôi được trường phân công dạy môn Ngữ văn lớp 6. Lúc này tôi thiết kế và dạy theo sách giáo khoa và chuẩn kiến thức kĩ năng phù hợp với đặc trưng bộ môn. Sau khi dạy xong ở chính khóa, tôi ôn lại ở buổi học ôn luôn chứ không để học sinh học xong bài “số từ, lượng từ”, “chỉ từ” mới dạy. Và tôi thấy:
- Tiết học, buổi học nặng về kiến thức. Vì để học sinh hiểu được, tôi còn phải giảng thêm phần trước của cụm danh từ (số từ, lượng từ), phần sau của cụm danh từ (chỉ từ).
- Tuy tôi giảng nhiều nhưng học sinh nắm kiến thức còn mơ màng, việc vận dụng kiến thức lí thuyết vào thực hành còn hạn chế. 
- Kĩ năng xác định cụm danh từ trong các ngữ liệu chưa thành thạo.
- Nhiều em chép các cụm danh từ vào mô hình còn lúng túng. Mặc dù các em biết được từ nào là phần phụ trước, từ nào là phần phụ sau, từ nào là trung tâm nhưng các em chưa điền chính xác vào ô phần trước 2, phần trước 1 hay phần trung tâm 1, trung tâm 2
- Nhiều em rất lúng túng trong việc tạo lập cụm danh từ khi đã cho trước một danh từ.
- Chỉ có học sinh có lực học trội hẳn là nắm vững bài. Còn nhiều học sinh trung bình và yếu rất mơ màng. 
Vì vậy, kết quả khảo sát sau buổi học chỉ đạt được:
Sĩ số
Kết quả qua bài kiểm tra trước khi áp dụng kinh nghiệm.
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
30
2
6.7%
5
16.7%
13
43.3%
10
33.3%
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Do thời gian dạy chính khóa của bài “Cụm danh từ” chỉ có 1 tiết và lại dạy trước các bài “Số từ, lượng từ”, “chỉ từ” nên kinh nghiệm này tôi áp dụng dạy ở học ôn (theo buổi), sau khi học xong các bài “Số từ, lượng từ”, “Chỉ từ”. Bởi như ở phần thực trạng đã khảo sát thì sau khi học xong bài cụm danh từ kiến thức nhiều em nắm được rất mơ màng, việc vận dụng lí thuyết vào thực hành còn hạn chế. 
Để học sinh lớp 6 nhận biết được cụm danh từ trong các ngữ liệu cho trước, đưa cụm danh từ đó vào mô hình một cách chính xác, tạo lập được cụm danh từ và sử dụng nó để đặt câu, trong buổi dạy ôn, tôi đã thực hiện các giải pháp sau:
Giải pháp 1: Nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức - kĩ năng, tài liệu tham khảo liên quan đến cụm danh từ.
Trước khi dạy học sinh nắm vững kiến thức về cụm danh từ, tôi nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức, kĩ năng, tài liệu tham khảo để thu thập kiến thức học sinh cần đạt được và kĩ năng cần có về cụm danh từ.
Giải pháp 2: Yêu cầu học sinh nắm vững kiến thức về danh từ, số từ, lượng từ và chỉ từ. (Xem đây là phần chuẩn bị bài trước khi đến lớp của học sinh)
Do cụm danh từ là tổ hợp từ được tạo nên bởi danh từ làm trung tâm kết hợp với các từ ngữ phụ thuộc là số từ, lượng từ, chỉ từ và một số từ ngữ chỉ đặc điểm khác tạo thành nên để học sinh nắm vững thành phần phụ trước, thành phần phụ sau và thành phần trung tâm của cụm danh từ; chép chính xác vào mô hình phần phụ trước, phần phụ sau, phần trung tâm; nhận biết và tạo lập được các phần này, tôi yêu cầu học sinh nắm vững kiến thức về danh từ, số từ, lượng từ và chỉ từ trước khi tham gia buổi học ôn. Cụ thể là:
- Khái niệm, khả năng kết hợp, chức vụ ngữ pháp, phân loại danh từ.
- Khái niệm số từ, lượng từ, chỉ từ, các nhóm lượng từ và các loại số từ.
Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức lí thuyết của cụm danh từ.
- Trước hết, tôi kiểm tra học sinh kiến thức về danh từ, số từ, lượng từ và chỉ từ.
+ Danh từ:
Khái niệm: Là những từ chỉ người, vật, hiện tượng, khái niệm
	Ví dụ: viên quan, cái bàn, mưa
Khả năng kết hợp: Phía trước kết hợp với những từ chỉ số lượng (số từ chỉ số lượng và lượng từ; Phía sau kết hợp với chỉ từ (các từ “này”, “kia”, “ấy”) và một số nêu đặc điểm khác.
Chức vụ ngữ pháp: Chủ yếu làm chủ ngữ trong câu, ngoài ra cũng có thể làm vị ngữ nhưng khi làm vị ngữ thì phải có từ “là” đứng trước.
	Ví dụ: 	Bông hoa nở rất đẹp. 
 CN(dt) VN
	 	 	 Các em là học sinh.
 CN VN(dt)
Phân loại: Chia thành 2 loại lớn: Danh từ chỉ đơn vị (gồm tên đơn vị dùng để tính toán, đo lường sự vật hoặc chỉ chủng loại khái quát), danh từ chỉ sự vật (nêu tên từng loại, từng cá thể người, vật, hiện tượng, khái niệm).
 Ví dụ: Trong danh từ “ngọn núi” thì “ngọn” là danh từ chỉ đơn vị, “núi” là danh từ chỉ sự vật.
+ Số từ:
Là những từ chỉ số lượng hoặc thứ tự của sự vật.
	Ví dụ: một, hai, ba 
Phân loại: Số từ chỉ số lượng (khi đứng trước danh từ), số từ chỉ thứ tự (khi đứng sau danh từ).
+ Lượng từ: 
Là những từ chỉ lượng ít hay nhiều của sự vật.
	Ví dụ: tất cả, mọi, các, vài
Phân loại: Chia thành 2 nhóm: Nhóm lượng từ chỉ ý nghĩa toàn thể (VD: tất cả, toàn bộ), nhóm lượng từ chỉ ý nghĩa tập hợp hay phân phối (VD: vài, các, mọi, những, mỗi)
+ Chỉ từ:
Là những từ dùng để trỏ vào sự vật, nhằm xác định vị trí của sự vật trong không gian hoặc thời gian.
	Ví dụ: này, kia, nọ, ấy
- Tiếp đó, tôi hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm vững kiến thức về khái niệm cụm danh từ, đặc điểm cấu tạo và ý nghĩa của cụm danh từ.
+ Khái niệm: Là tổ hợp từ do danh từ với một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành.
	Ví dụ: tất cả những cuốn sách này.
-> Đây là cụm danh từ do danh từ “cuốn sách” làm trung tâm của cụm kết hợp với từ ngữ phụ thuộc “tất cả những” ở phía trước và “này” ở phía sau tạo thành.
+ Đặc điểm:
Cấu tạo: Phức tạp hơn danh từ.
Ý nghĩa: Đầy đủ hơn danh từ.
Chức vụ ngữ pháp: Hoạt động trong câu giống danh từ.
Cấu tạo đầy đủ của cụm danh từ: Gồm 3 phần (Phần trước, phần trung tâm và phần sau). Trong đó các phụ ngữ ở phần trước bổ xung cho danh từ các ý nghĩa về số và lượng, các phụ ngữ ở phần sau nêu lên đặc điểm của sự vật mà danh từ biểu thị hoặc xác định vị trí của sự vật ấy trong không gian hay thời gian.
Tuy nhiên không phải lúc nào cụm danh từ cũng có đầy đủ 3 bộ phận. Có thể cụm danh từ chỉ có phần trung tâm và phần trước (phụ ngữ trước).
	Ví dụ: hai người, cả hai học sinh
Cũng có thể cụm danh từ lại chỉ gồm phân trung tâm và phần sau (phụ ngữ sau). 
	Ví dụ: quyển sách ấy, cái bút này
- Trên cơ sở học sinh đã nắm vững những kiến thức trên, tôi tiếp tục hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm vững mô hình, các bộ phận, thành tố của cụm danh từ. (Tôi nghĩ đây là nội dung rất quan trọng để các em học sinh nhận diện, xếp vào mô hình và tạo lập cụm danh từ.)
+ Mô hình cụm danh từ: 
Phần trước
Phần trung tâm
Phần sau
t2
t1
T1
T2
s1
s2
Tôi lưu ý học sinh: Trong thực tế, có cụm danh từ đầy đủ tất cả các phần, các thành tố như mô hình trên, nhưng cũng có những cụm danh từ khuyết một trong hai thành tố của mỗi phần cũng như có thể khuyết phần trước hoặc khuyết phần sau.
+ Các bộ phận, thành tố của cụm danh từ: Có thể nói, do mỗi cụm danh từ đầy đủ gồm có ba bộ phận, mỗi bộ phân lại gồm hai thành tố nên tôi sẽ hướng dẫn học sinh tìm hiểu cụ thể nội dung ý nghĩa biểu thị của từng thành tố tạo nên từng bộ phận của cụm danh từ. Đây là điểm quan trọng để học sinh nắm vững mô hình cụm danh từ. 
Phần trước (phụ ngữ trước): Gồm t2 và t1, trong đó:
	t2: gồm những lượng từ chỉ ý nghĩa toàn thể (VD: tất cả, toàn bộ).
	t1: gồm những lượng từ chỉ ý nghĩa tập hợp hay phân phối (VD: vài, các, mọi, những, mỗi) và số từ chỉ số lượng (số từ đứng trước danh từ: hai cái bàn, ba quyển sách)
Phần trung tâm: Gồm T1 và T2, trong đó:
	T1: Gồm các danh từ chỉ đơn vị (tên đơn vị dùng để tính toán, đo lường sự vật hoặc chỉ chủng loại khái quát: cái bàn, ngọn núi ).
	T2: Gồm các danh từ chỉ sự vật (nêu tên từng loại, từng cá thể người, vật, hiện tượng, khái niệm: cái bàn, ngọn núi ).
Phần sau (phụ ngữ sau): Gồm s1 và s2, trong đó:
	s1: Gồm các từ nêu đặc điểm của sự vật mà danh từ biểu thị.
	s2: Gồm các từ xác định vị trí của sự vật mà danh từ biểu thị trong không gian hay thời gian (tức là các chỉ từ: “này”, “kia”, “ấy”).
 (Đặc điểm của mỗi thành tố của cụm danh từ trên đây tôi yêu cầu học sinh phải học thuộc.)
Để học sinh nắm vững hơn, hiểu cụ thể hơn nội dung tôi vừa hướng dẫn về các bộ phận, các thành tố của cụm danh từ, tôi lấy ví dụ và phân tích ví dụ cụ thể đồng thời hướng dẫn các em lần lượt các bước xác định cụm danh từ, phân tích cấu tạo và xếp vào mô hình của cụm danh từ.
	Ví dụ 1: Cụm từ “tất cả những con hổ hung dữ ấy”.
Trước hết để xem cụm từ này có phải là cụm danh từ không thì các em phải xác định được từ đóng vai trò trung tâm của cụm từ. Và nếu từ đóng vai trò trung tâm của cụm từ là danh từ thì cụm từ loại này là cụm danh từ.
Và các em đã xác định được “con hổ” là từ trung tâm của cụm từ trên. Về từ loại, “con hổ” là danh từ. Do đó cụm từ trên là cụm danh từ.
Các từ đứng trước từ “con hổ” là phần trước (tất cả những), các từ đứng sau từ “con hổ” là phần sau (hung dữ ấy).
Để xếp cụm từ trên vào mô hình tôi hướng dẫn và yêu cầu các em xác định trong danh từ “con hổ” thì tiếng nào là danh từ chỉ đơn vị, tiếng nào là danh từ chỉ sự vật và xác định từ loại của các từ đứng trước từ “con hổ” (tất cả những) và các từ đứng sau từ “con hổ” (hung dữ ấy).
Vận dụng kiến thức về danh từ, số từ, lượng từ, chỉ từ đã được nắm vững các em sẽ xác định được: “con” là danh từ chỉ đơn vị, “hổ” là danh từ chỉ sự vật, “tất cả” là lượng từ chỉ ý nghĩa toàn thể, “những” là lượng từ chỉ ý nghĩa tập hợp hay phân phối, “hung dữ” là từ nêu đặc điểm của con hổ, “ấy” là chỉ từ xác định vị trí của con hổ trong không gian.
Từ kết quả trên, căn cứ vào đặc điểm của mỗi thành tố của cụm danh từ, tôi yêu cầu các em lần lượt xếp vào mô hình cụm danh từ. Các em sẽ dễ dàng xếp được “con” là danh từ chỉ đơn vị nên thuộc T1, “hổ” là danh từ chỉ sự vật nên thuộc T2, “tất cả” là lượng từ chỉ ý nghĩa toàn thể thuộc t2, “những” là lượng từ chỉ ý nghĩa tập hợp hay phân phối thuộc t1, “hung dữ” là từ nêu đặc điểm của con hổ thuộc s1, “ấy” là chỉ từ xác định vị trí của con hổ trong không gian thuộc s2.
-> Mô hình cụ thể của cụm từ trên:
Phần trước
Phần trung tâm
Phần sau
t2
t1
T1
T2
s1
s2
tất cả
những
con
hổ
hung dữ
ấy
	Ví dụ 2: Cụm từ “một dải mây mỏng”
	Ví dụ 3: Cụm từ “các chỏm núi ấy”
Ở VD2 và VD3 tôi yêu cầu học sinh lần lượt vận dụng các thao tác như ở VD1 để thực hiện. Các em đã rất nhanh làm được như sau:
Trong cụm từ “một dải mây mỏng” từ “dải mây” là từ trung tâm của cụm và là danh từ. Do đó cụm từ “một dải mây mỏng” là cụm danh từ.
Trước từ trung tâm “dải mây” là từ “một” - đây là phần trước, sau từ trung tâm “dải mây” là từ “mỏng” - đây là phần sau.
Trong từ trung tâm thì “dải” là danh từ chỉ đơn vị nên thuộc T1, “mây” là danh từ chỉ sự vật nên thuộc T2, “một” là số từ chỉ số lượng thuộc t1, “mỏng” là từ nêu đặc điểm của dải mây thuộc s1. Như vậy mô hình cụ thể của cụm từ này là:
Phần trước
Phần trung tâm
Phần sau
t2
t1
T1
T2
s1
s2
một
dải
mây
mỏng
Trong cụm từ “các chỏm núi ấy” từ “chỏm núi” là từ trung tâm của cụm và là danh từ. Do đó cụm từ “các chỏm núi ấy” là cụm danh từ.
Trước từ trung tâm “chỏm núi” là từ “các” - đây là phần trước, sau từ trung tâm “chỏm núi” là từ “ấy” - đây là phần sau.
Trong từ trung tâm thì “chỏm” là danh từ chỉ đơn vị nên thuộc T1, “núi” là danh từ chỉ sự vật nên thuộc T2, “các” là lượng từ chỉ ý nghĩa tập hợp hay phân phối thuộc t1, “ấy” là chỉ từ xác định vị trí của dải mây trong không gian thuộc s2. Như vậy mô hình cụ thể của cụm từ này là:
Phần trước
Phần trung tâm
Phần sau
t2
t1
T1
T2
s1
s2
các
chỏm
núi
ấy
Giải pháp 4: Hướng dẫn và yêu cầu học sinh vận dụng lí thuyết để làm các bài tập từ dễ đến khó, từ nhận biết đến tạo lập.
(Ở nội dung này, tôi hướng dẫn và yêu cầu học sinh lần lượt thực hiện 4 dạng bài tập.)
- Hướng dẫn và yêu cầu học sinh làm dạng bài tập tìm cụm danh từ trong ví dụ.
	Ví dụ 1: “Hỡi những chàng trai, những cô gái yêu
 Trên những đèo mây, những tầng núi đá.”
	Ví dụ 2: “Từ trong các bụi rậm xa, gần, những chú chồn, những con dúi với bộ lông ướt mềm, vừa mừng rỡ, vừa lo lắng nối tiếp nhau nhảy ra rồi biến mất. Trên các vòm lá dày ướt đẫm, những con chim klang mạnh mẽ, dữ tợn, bắt đầu dang những đôi cánh lớn giũ nước phành phạch.” 
Để học sinh tìm được cụm danh từ trong ví dụ nói chung, trong 2 ví dụ trên nói riêng, tôi hướng dẫn các em lần lượt các bước để tìm cụm danh từ.
Bước 1: Xác định các danh từ có trong ví dụ.
Bước 2: Quan sát xem trước danh từ có lượng từ hay số từ chỉ số lượng, sau danh từ có từ chỉ đặc điểm hay chỉ từ không. 
Nếu có lượng từ hay số từ chỉ số lượng ở trước danh từ, từ chỉ đặc điểm hay chỉ từ ở sau danh từ thì danh từ đó và các từ trước, sau danh từ đó là một cụm danh từ. 
Hoặc chỉ cần lượng từ hay số từ chỉ số lượng ở trước danh từ, hoặc danh từ và từ chỉ đặc điểm hay chỉ từ ở sau danh từ cũng là một cụm danh từ.
Căn cứ vào 2 bước trên các em đã xác định được:
Ở ví dụ 1: Có các danh từ: chàng trai, cô gái, đèo mây, tầng núi.
Trước danh từ “chàng trai” có lượng từ chỉ tập hợp hay phân phối “những”. => Cụm danh từ “những chàng trai”.
Trước danh từ “cô gái” có lượng từ chỉ tập hợp hay phân phối “những”, sau danh từ “cô gái” có từ chỉ đặc điểm “yêu” => Cụm danh từ “những cô gái yêu”.
T

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_phat_hien_nhanh_chinh_xa.doc