SKKN Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 9 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi - Hoằng Quỳ làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)

SKKN Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 9 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi - Hoằng Quỳ làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)

Giáo viên Ngữ văn không chỉ là người truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn có vai trò tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm tòi, khám phá, hiểu biết để cảm nhận, vận dụng kiến thức, kỹ năng Văn học đúng hướng, đúng cách, tránh suy diễn, áp đặt để học sinh tự cảm nhận cái hay cái đẹp của tác phẩm và bộc lộ được những nhận thức của mình. Dạy- học văn nghị luận có vai trò quan trọng trong nhà trường, bởi kiến thức và kĩ năng được rèn luyện trong quá trình học tập về nghị luận và cách nghị luận không chỉ giúp cho học sinh khả năng làm văn mà có tác dụng hình thành năng lực cả về tư duy và sự thành công trong giao tiếp của các em. Ảnh hưởng của văn nghị luận đạt được không chỉ trong phạm vi môn Ngữ văn mà còn lan tỏa tới tất cả các môn học khác ở trường phổ thông. Cũng như các kiểu văn bản khác, ngoài mục đích văn chương, văn bản nghị luận với những giá trị đặc trưng riêng đã đem lại cho người học những phát triển mà mỗi dạng văn bản tạo ra từ chính giá trị của bản thân tác phẩm. Văn bản nghị luận thuyết phục người đọc, người nghe thông qua hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng và những hình ảnh sinh động gắn với thực tiễn. Vẻ đẹp riêng của văn nghị luận vừa cuốn hút hấp dẫn vừa tạo dòng chảy tư duy mạch lạc chặt chẽ trước các vấn đề chính trị xã hội và cả đời sống nhân sinh.

Nghị luận tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) nói riêng là một kiểu bài nghị luận có vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 9. Thông qua việc đọc và học tác phẩm văn học trong phần đọc hiểu văn bản, học sinh chẳng những có một vốn khá phong phú về kiến thức văn học (tác phẩm, thể loại ) mà các em còn được nâng cao dần về năng lực cảm thụ, phân tích, bình giá tác phẩm Khi được học phương pháp nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), học sinh được rèn luyện thêm kĩ năng này một cách có hệ thống, được thực hành từng bước cụ thể chi tiết qua một số đề bài trong sách giáo khoa, đề bài do giáo viên sưu tầm. Hơn thế nữa, khi thi vào Trung học Phổ thông đây là một trong hai dạng đề quan trọng chiếm tới nửa số điểm của đề Văn.

 

doc 22 trang thuychi01 11461
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 9 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi - Hoằng Quỳ làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT HOẰNG HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 9 
TRƯỜNG THCS NGUYỄN VĂN TRỖI - HOẰNG QUỲ 
LÀM TỐT KIỂU BÀI NGHỊ LUẬN 
VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN (HOẶC ĐOẠN TRÍCH)
Người thực hiện: Lê Thị Hà
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Nguyễn Văn Trỗi
SKKN thuộc lĩnh vực : Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2018
MỤC LỤC
I
Mở đầu
Trang 02
1
Lý do chọn đề tài
Trang 02
2
Mục đích nghiên cứu
Trang 02
3
Đối tượng nghiên cứu
Trang 03
4
Phương pháp nghiên cứu
Trang 03
II
Nội dung
Trang 03
1
Cơ sở lý luận của đề tài
Trang 03
2
Thực trạng của vấn đề
Trang 03
3
Giải pháp và tổ chức thực hiện
Trang 05
a
Giải pháp
Trang 5
b
Các biện pháp thực hiện
Trang 05
c
Hướng dẫn học sinh các bước làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và lấy ví dụ mẫu.
Trang 08
4
Kiểm nghiệm
Trang 19
III
Kết luận và kiến nghị
Trang 20
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo viên Ngữ văn không chỉ là người truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn có vai trò tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm tòi, khám phá, hiểu biết để cảm nhận, vận dụng kiến thức, kỹ năng Văn học đúng hướng, đúng cách, tránh suy diễn, áp đặt để học sinh tự cảm nhận cái hay cái đẹp của tác phẩm và bộc lộ được những nhận thức của mình. Dạy- học văn nghị luận có vai trò quan trọng trong nhà trường, bởi kiến thức và kĩ năng được rèn luyện trong quá trình học tập về nghị luận và cách nghị luận không chỉ giúp cho học sinh khả năng làm văn mà có tác dụng hình thành năng lực cả về tư duy và sự thành công trong giao tiếp của các em. Ảnh hưởng của văn nghị luận đạt được không chỉ trong phạm vi môn Ngữ văn mà còn lan tỏa tới tất cả các môn học khác ở trường phổ thông. Cũng như các kiểu văn bản khác, ngoài mục đích văn chương, văn bản nghị luận với những giá trị đặc trưng riêng đã đem lại cho người học những phát triển mà mỗi dạng văn bản tạo ra từ chính giá trị của bản thân tác phẩm. Văn bản nghị luận thuyết phục người đọc, người nghe thông qua hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng và những hình ảnh sinh động gắn với thực tiễn. Vẻ đẹp riêng của văn nghị luận vừa cuốn hút hấp dẫn vừa tạo dòng chảy tư duy mạch lạc chặt chẽ trước các vấn đề chính trị xã hội và cả đời sống nhân sinh.
Nghị luận tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) nói riêng là một kiểu bài nghị luận có vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 9. Thông qua việc đọc và học tác phẩm văn học trong phần đọc hiểu văn bản, học sinh chẳng những có một vốn khá phong phú về kiến thức văn học (tác phẩm, thể loại) mà các em còn được nâng cao dần về năng lực cảm thụ, phân tích, bình giá tác phẩm Khi được học phương pháp nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), học sinh được rèn luyện thêm kĩ năng này một cách có hệ thống, được thực hành từng bước cụ thể chi tiết qua một số đề bài trong sách giáo khoa, đề bài do giáo viên sưu tầm. Hơn thế nữa, khi thi vào Trung học Phổ thông đây là một trong hai dạng đề quan trọng chiếm tới nửa số điểm của đề Văn.
 	2. Mục đích nghiên cứu 
	Nhận thức được tầm quan trọng của kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến: Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 9 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi- Hoằng Quỳ làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), để rèn luyện cho học sinh trường THCS Nguyễn Văn Trỗi đạt kết quả tốt nhất khi làm kiểu bài này.
3. Đối tượng nghiên cứu
	Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là học sinh khối 9 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi.
4. Phương pháp nghiên cứu
	- Phương pháp thống kê để phân tích.
	- Phương pháp phân tích thực trạng.
	- Phương pháp chia nhóm đối tượng học sinh.
	- Phương pháp từ lý thuyết, áp dụng thực hành làm bài.
II. NỘI DUNG
Cơ sở lí luận của đề tài:
Dạy - học Ngữ văn phải phù hợp với nội dung, đặc điểm của môn học và tâm sinh lí của học sinh.Trong việc rèn luyện các kĩ năng thì kĩ năng làm bài có vai trò đặc biệt quan trọng.
Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm hay đoạn trích. Thông thường, cần tập trung vào cốt truyện, nhân vật, sự kiện, chủ đề, nghệ thuật tạo tình huống, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự kết hợp với các yếu tố miêu tả, biểu cảm, thuyết minh.
Những nhận xét, đánh giá về truyện hoặc đoạn trích phải căn cứ vào văn bản, những hiểu biết về tác phẩm, tác giả; phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách và số phận của các nhân vật, nghệ thuật dựng truyện của tác giả, từ đó mà người viết bài nghị luận phát hiện và khái quát.
Các nhận xét, đánh giá về tác phẩm hoặc đoạn trích trong bài nghị luận cần rõ ràng, đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục. Bài nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) phải có bố cục chặt chẽ, mạch lac, lối văn chuẩn xác, gợi cảm.
Kiến thức về văn nghị luận được học bắt đầu từ lớp 7 đến lớp 9 theo một quy trình từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao nhưng trên cơ sở lôgic khoa học. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, phương pháp cơ bản của bộ môn Ngữ văn nói chung thể loại nghị luận nói riêng, tôi đã đề ra yêu cầu, cách thức cụ thể áp dụng trong quá trình dạy học cho học sinh. Học sinh cần kết hợp linh hoạt nhiều phép lập luận như giải thích, chứng minh, phân tích trong bài làm. 
 2. Thực trạng của vấn đề
 2.1.Thuận lợi
 Bản thân nhiều năm dạy lớp 9 nên tôi có nhiều thuận lợi trong việc nghiên cứu, rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy. Môn Ngữ văn là một trong những môn học chính khóa trong nhà trường THCS, thường được các cấp giáo dục, nhà trường, phụ huynh, học sinh coi trọng.
 Kiểu bài nghị luận văn học là kiểu bài quan trọng trong phân môn Tập làm văn, chiếm tỉ lệ cao trong các kì thi, kiểm tra định kì, kiểm tra học kì, thi tuyển lên THPT. Bên cạnh đó môn Ngữ văn là một trong hai môn điều kiện để xếp loại học lực của học sinh cuối kì, cuối năm vì thế bắt buộc các em phải nắm kiến thức cơ bản, và quan tâm đến môn Văn.
 2.2. Khó khăn 
 2.2.1. Về phía học sinh
 Do sự phát triển của khoa học kĩ thuật, do những đòi hỏi về nhu cầu trong cuộc sống hiện đại bản thân học sinh và phụ huynh thường hướng cho con theo các môn học tự nhiên để thuận lợi cho việc học nghề sau này; bản thân học sinh 
trong lúc học, quen lối suy nghĩ ngắn gọn, không biết cách trình bày, ngại học và viết Văn.	
 Theo điều tra thực tế học sinh trường THCS Nguyễn Văn Trỗi trong những năm gần đây, học sinh khối lớp 9 viết kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện thường khô cứng, sáo rỗng, lúng túng và máy móc... Các em cũng hoàn thành đầy đủ các bài thi nhưng thường dựa vào văn mẫu hoặc dựa vào các ý trong đề cương hay trong dàn ý thầy cô cho sẵn rồi viết lại nên rất hạn chế về mạch cảm xúc (cảm xúc thường không chân thật, còn gượng ép). Rất ít học sinh chịu khó tìm tòi, khám phá ra các ý mới, ý riêng, ý sâu sắc, ý hay do chính bản thân các em cảm nhận, chưa thật sự rung động với tác phẩm, bởi thế mà chất lượng môn văn kể cả đại trà lẫn mũi nhọn chưa cao.
 Mặt khác, đa số các em học sinh thường không tìm hiểu kĩ đề bài và tìm ý trước khi bắt tay vào làm bài viết của mình nên thường lệch lạc kiểu bài, nhầm lẫn các dạng đề. Đó là một thực trạng phổ biến không chỉ riêng trường Nguyễn Văn Trỗi mà còn ở hầu khắp các trường THCS hiện nay.
 2.2.2.Về phía giáo viên
 Vì học sinh ngại học hoặc xem nhẹ môn Ngữ văn nên nhiều giáo viên cũng có tâm lí chán nản, dao động. Trong các phân môn của Ngữ văn thì phân môn Tập làm văn vừa khô vừa khó. Khi thao giảng, thanh tra... giáo viên thường chỉ đăng ký giảng Văn và Tiếng Việt, bởi dạy hai phân môn này thường dễ thành công hơn, còn dạy Tập làm văn đặc biệt là kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện... giáo viên thường ít đăng kí. 
Trong năm học 2016 - 2017, tôi đã tiến hành khảo sát ở lớp 9 (thực hành một đề nghị luận về tác phẩm truyện) với đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai qua truyện ngắn làng của nhà văn Kim Lân. Tôi đã thu được kết quả như sau:
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9B
38
2
5,3
7
18,4
20
52,6
9
23,7
0
0
	Nhìn vào kết quả khảo sát trên, tôi luôn trăn trở và lo lắng, số học sinh không có hứng thú học tập bộ môn rất nhiều, bài làm nhiều em còn sa vào kể, diễn xuôi tác phẩm truyện hoặc xác định đề sai, lạc đề, ý không rõ ràng chưa có những nhận xét đánh giá trong bài. Điều đó cũng chứng tỏ các em chưa biết cách làm kiểu bài này, các em đang còn nhầm giữa cách làm bài nghị luận với cách làm bài tự sự, chưa biết dùng những nhận xét đánh giá trong bài làm của mình... Đứng trước thực trạng đó, tôi đã đề ra một số giải pháp và cách thức thực hiện như sau:
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
 	a. Giải pháp
 Nghiên cứu kĩ chương trình, nội dung kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) có trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THCS ở các lớp .
	 Nghiên cứu kĩ sách giáo viên để nắm được mục tiêu của kiểu bài nghị luận về tác phẩm hoặc đoạn trích.
	 Nghiên cứu các tài liệu tham khảo để đề ra phương pháp cũng như các biện pháp tổ chức cho học sinh trong tiết học kiểu bài nghị luận .
	 Nắm vững lí thuyết kiểu bài, các bước làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
 Dự giờ trao đổi học tập qua đồng nghiệp.
Thiết kế và hướng dẫn học sinh thực hiện các dạng câu hỏi, bài tập phát triển tư duy và rèn luyện kĩ năng, tạo niềm vui hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho học sinh; giúp các em phát triển tối đa năng lực, tiềm năng của bản thân, hướng dẫn học sinh có thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
 	b. Các biện pháp thực hiện
 	Biện pháp thứ nhất: Hướng dẫn để học sinh nắm một số kiến thức cơ bản về những tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) đã học trong chương trình Ngữ văn 9 
 	Với biện pháp này, trước khi làm đề, tôi yêu cầu học sinh làm nhanh các ý sau: Tóm tắt ngắn gọn: tên tác giả, tác phẩm, năm sáng tác, thể loại, phương thức biểu đạt, nội dung cơ bản và nghệ thuật tiêu biểu.
 	Có thể cho học sinh lập bảng kiến thức sau:
TT
TênVăn 
bản 
Tác giả
Thể loại, PTBĐ
Nội dung
Nghệ thuật
1
Chuyện người con gái Nam Xương
(thế kỉ XVI), rút từ Truyền kì mạn lục
Nguyễn Dữ (sống ở thế kỉ XVI)
- Truyện truyền kì
- Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương truyện thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ
Nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình
2
Làng
(1948)
Kim Lân
(1920-2007
Truyện ngắn
Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm
Qua tâm trạng đau xót và tủi hổ của ông Hai nôi tản cư khi nghe tin làng mình theo giặc, truyện thể hiện lòng yêu làng quê với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân sau cách mạng
Xây dựng tình huống truyện, nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật
Lặng lẽ Sa Pa
(1970)
rút từ tập “Giữa trong xanh”
Nguyễn
Thành Long (1925-1991)
- Truyện ngắn
- Tự sự kết hợp với biểu cảm 
Cuộc gặp gỡ tình của ông họa sĩ cô kĩ sư mới ra trường với anh thanh niên làm việc một mình trên trạm khí tượng . Qua đó ca ngợi những con người thầm lặng, có cách sống đẹp, cống hiến cho mình cho đất nước
Xây dựng tình huống hợp lí, cách kể chuyện tự nhiên, có sự kết hợp giữa tự sự trữ tình và bình luận
Việc yêu cầu học sinh thống kê và học thuộc các đơn vị kiến thức ấy sẽ giúp học sinh thâm nhập được những kiến thức cơ bản nhất, quan trọng nhất khi tiến hành nghị luận. Thường thì khi dạy kiểu bài này giáo viên thường bỏ qua việc nắm lại tác phẩm, chỉ chú tâm ra đề và yêu cầu học sinh làm bài nên dẫn đến tình trạng học sinh không trình bày được hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm hay nội dung xác định để nghị luận thường lan man. Lập được bảng thống kê này sẽ hạn chế được những lỗi ấy. Thuộc và nắm kĩ bảng thống kê này học sinh sẽ làm được nhiều dạng đề khác nhau, có thể tập trung vào nghệ thuật hoặc nội dung. Như vậy khi lập bảng, giáo viên cần lưu ý cho học sinh một số vấn đề sau:
 	Nắm được năm sáng tác để liên hệ về hoàn cảnh ra đời của bài, có thể dùng vầo phần mở bài hoặc thân bài của bài nghị luận
 	Nắm phương thức biểu đạt để biết cách dùng từ, trình bày và diễn đạt đúng thể loại
 	Nắm nội dung để tránh sự lan man khi phân tích (nội dung có thể xem là luân điểm chính)
 	Nắm nghệ thuật để làm phương tiện phân tích cũng như đạt được các yêu cầu về trình bày các giá trị nghệ thuật
Ví dụ:
 	 Với dạng đề: Phân tích tác phẩm “Làng” của nhà văn Kim Lân, cần hướng cho học sinh nắm được:
Đây là dạng đề phân tích tác phẩm, khi học sinh nắm và hiểu bảng trên thì khi phân tích sẽ tập trung vào các nội dung:
+ Sáng tác năm 1948: Là những năm đầu thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
+ Sử dụng phương thức: Tự sự kết hợp với mêu tả và biểu cảm.
+ Nội dung: Thể hiện lòng yêu làng quê với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân sau cách mạng (qua phân tích nhân vật ông Hai).
 + Nghệ thuật: Xây dựng tình huống truyện, nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật.
Với các ý như vậy khi làm bài học sinh sẽ đi vào phần trọng tâm, tránh thiếu hay thừa ý...
 	Biện pháp thứ hai: Yêu cầu học sinh nắm lý thuyết của kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
Qua kinh nghiệm dạy nhiều năm cho tôi thấy rằng: Không thể làm đúng kiểu bài nếu học sinh không nắm được khái niệm. Với kiểu bài này yêu cầu học sinh nắm: thế nào là nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và đây là cách học sinh có thể tìm ra điểm khác biệt với kiểu bài khác.
	Trước khi cho học sinh làm đề tôi đã đặt một số câu hỏi để kiểm tra khái niệm, yêu cầu của kiểu bài (sách giáo khoa Ngữ văn 9 - tập hai, trang 63). Đây cũng là việc làm rất cần thiết mà nhiều giáo viên thường bỏ qua không hướng dẫn học sinh trình bày. Việc học sinh nắm chắc được lí thuyết giúp các em tránh lạc đề với các kiểu bài khác
	Sau khi kiểm tra để học sinh nắm chắc lí thuyết về kiểu bài, ngoài những yêu cầu có trong sách giáo khoa, tôi đã lưu ý cho học sinh một số vấn đề sau:
 - Nhận xét, đánh giá về tác phẩm truyện, phải xuất phát từ giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát trong quá trình tiếp cận tác phẩm đó (ví dụ như: tính cách, số phận nhân vật; ý nghĩa cốt truyện; các tình huống nghệ thuật; kết cấu của tác phẩm...). Những nhận xét đánh giá này có thể hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: từ chính những rung động, xúc cảm của mình khi tiếp cận và khám phá tác phẩm; từ những nhận xét đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học về tác phẩm đó Việc phối hợp, dung hòa các điểm nhìn, các ý kiến trên sẽ góp phần làm cho nội dung nhận xét, bình luận về tác phẩm thêm xác đáng, sâu sắc, toàn diện tránh sự suy diễn theo ý chủ quan của người viết. 
 - Các nhận xét đánh giá về tác phẩm truyện được hình thành trong quá trình nghị luận đòi hỏi phải rõ ràng, chính xác, có lập luận thuyết phục. Thông thường, các nhận xét đánh giá ấy được thể hiện thành những luận điểm, các luận điểm được sắp xếp theo một trình tự chặt chẽ lôgíc. Trong từng luận điểm, hệ thống các luận cứ phải đảm bảo, phong phú, đa dạng, tiêu biểu.
 - Trong quá trình nghị luận về tác phẩm truyện cần có thói quen liên hệ, so sánh, đối chiếu (liên hệ với cuộc đời và phong cách sáng tác của tác giả; liên hệ với hoàn cảnh sáng tác; liên hệ so sánh đối chiếu với các tác phẩm khác cùng đề tài, cùng chủ đề, cùng tác giả
 - Lời văn trong tác phẩm truyện phải linh hoạt, vừa khúc chiết, chặt chẽ để đảm bảo đặc trưng của văn nghị luận lại vừa phải có sự uyển chuyển gợi cảm cho phù hợp với đối tượng nghị luận.
 	* Với biện pháp này học sinh sẽ nắm được một cách đầy đủ và đúng bản chất của kiểu bài. 
 	c. Hướng dẫn học sinh các bước làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và lấy ví dụ mẫu. 
 	Để giúp học sinh rèn luyện được các kĩ năng viết một tác phẩm hoàn chỉnh thì phải hướng dẫn học sinh các bước làm bài. Cụ thể tôi đã hướng dẫn học sinh như sau:
 	c.1. Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý
 c.1.1. Tìm hiểu đề: 
 Tìm hiểu đề là khâu đầu tiên, có vai trò quyết định “dẫn đường chỉ lối” cho người làm bài. Nếu phân tích đúng yêu cầu của đề bài thì sẽ tìm ra được hướng đi đúng. Ngược lại nếu phân tích sai, sẽ không đáp ứng được yêu cầu của đề, đôi khi còn bị lệch đề, lạc đề. Vì thế giáo viên phải hướng dẫn học sinh biết phân tích kỹ đề. 
 Đề bài văn nghị luận về tác phẩm truyện có 2 loại: đề mệnh lệnh và đề mở. Đề mệnh lệnh là những đề bài có yêu cầu rõ ràng như: suy nghĩ, cảm nhận, phân tích, còn dạng đề mở là những đề bài không có yêu cầu, học sinh tùy từng vấn đề để lựa chọn những thao tác phù hợp. với cả hai dạng đề nghị luận này đối tượng nghị luận có thể là tác phẩm, nhân vật hay những đổi thay trong số phận của nhân vật. 
 Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) không bao giờ đồng nhất một dạng đề đơn điệu, ở chương trình lớp 9 các em tập trung vào 3 dạng cơ bản sau: 
 Dạng đề 1: Suy nghĩ, cảm nhận, phân tích về nhân vật hoặc khía cạnh của nhân vật trong tác phẩm hoặc đoạn trích. 
 Ví dụ như các đề bài:
 	- Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn: “Làng” của Kim Lân (SGK Ngữ văn 9 tr 65) 
 Dạng đề 2: Suy nghĩ, cảm nhận, phân tích tác phẩm, đoạn trích hoặc một khía cạnh về tác phẩm, đoạn trích. 
 Ví dụ như các đề:
 - Phân tích truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long
 - Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân (SGK Ngữ văn 9 tr 65)
 Dạng đề 3: Phân tích tác phẩm để nêu ra nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn đề.
 Ví dụ như các đề:
 - Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở truyện Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ (SGK Ngữ văn 9 tr 65)
 - Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng (SGK Ngữ văn 9 tr 65)
 Tuỳ theo mỗi dạng đề bài mà giáo viên hướng dẫn học sinh các thao tác làm bài khác nhau. 
 Đối với dạng đề 1 và dạng đề 2: Học sinh thường hay nhầm lẫn, tôi đã hướng dẫn cho các em biết phân biệt rõ thế nào là suy nghĩ, cảm nhận về nhân vật, về tác phẩm? Thế nào là phân tích nhân vật, tác phẩm? Suy nghĩ, cảm nhận về nhân vật, tác phẩm hoặc một khía cạnh về nhân vật, tác phẩm là nghiêng về cảm nhận chủ quan của người viết về nhân vật, tác phẩm hay một khía cạnh của nhân vật, tác phẩm đó (không nhất thiết phải phân tích đầy đủ từng đặc điểm của nhân vật hoặc đầy đủ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, có thể chọn những gì mình cảm nhận sâu sắc nhất mà thôi).
 	Ví dụ đề bài: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn: "Làng" của Kim Lân, giáo viên có thể hướng học sinh cảm nhận, suy nghĩ về nét nổi bật của nhân vật này là tình yêu làng hòa quyện với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến được bộc lộ trong tình huống nào? Tình cảm ấy có đặc điểm gì ở hoàn cảnh cụ thể lúc bấy giờ? (thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp?) Những chi tiết nghệ thuật nào chứng tỏ một cách sinh động, thú vị tình yêu làng và lòng yêu nước ấy (về tâm trạng, cử chỉ, lời nói). 
 Trong khi đó yêu cầu của dạng đề phân tích (phân tích nhân vật, tác phẩm hay một khía cạnh về nhân vật, tác phẩm) là yêu cầu người viết tìm hiểu, đánh giá và nhận xét đầy đủ từng đặc điểm nhân vật, từng giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm (dạng đề này nghiêng về phương pháp). Trong nội dung bài có những yêu cầu gì thì đòi hỏi học sinh phải trình bày đầy đủ các nội dung đó
 Đối với dạng đề 3: Phân tích để nêu ra nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn đề, người Giáo viên phải biết tích hợp các kiến thức chương trình Tập làm văn ở các lớp dưới để nâng cao yêu cầu giải quyết đề bài văn dạng này.
 Ví dụ đối với đề bài: “Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn: "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng (SGK Ngữ văn 9 tr 65), học sinh không phải đơn thuần tập trung phân tích những biểu hiện cụ thể tình cảm cha con của hai nhân vật ông Sáu và bé Thu mà còn phải trình bày những cảm nhận của mình về tình 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_9_truong_thcs_nguyen_van.doc