SKKN Kinh nghiệm dạy tiết Hoạt động Ngữ văn 7 chủ đề “Giáo dục chủ quyền biển đảo” ở trường THCS & THPT Như Thanh

SKKN Kinh nghiệm dạy tiết Hoạt động Ngữ văn 7 chủ đề “Giáo dục chủ quyền biển đảo” ở trường THCS & THPT Như Thanh

Trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, biển đảo có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng về an ninh quốc phòng, là địa bàn chiến lược trọng yếu trong công cuộc bảo vệ tổ quốc. Với hai quần đảo lớn là Hoàng Sa và Trường Sa cùng hàng ngàn đảo và quần đảo lớn nhỏ khác được coi là tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ phía Đông đất nước. Một số đảo ven bờ được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển.

Với những lợi ích to lớn về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng mà biển đem lại cho mỗi quốc gia làm cho biển trở thành mục tiêu tranh chấp của các nước trong khu vực có biển. Thực tế đã và đang diễn ra hiện nay đối với nước ta và các nước trong khu vực Biển Đông là các nước đang phải đối mặt với những hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia một cách nghiêm trọng. Trong đó, quan trọng nhất là vụ việc tranh chấp diễn ra ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và khu vực thềm lục điạ của Việt Nam. Vì chủ quyền biển đảo của dân tộc, vì sự phồn vinh của đất nước, việc giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo cho thế hệ trẻ nói chung và cho học sinh trường THCS&THPT Như Thanh nói riêng đang là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa chiến lược đặc biệt. Điều đó không chỉ có ý nghĩa đối với thế hệ trẻ trong thời gian trước mắt mà còn có tác động lâu dài trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Những năm gần đây, ngành giáo dục nước ta đang chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy - học. Ở nhiều cấp học, các nhà trường đã chú ý việc soạn - giảng của giáo viên và tổ chức học tập ở học sinh, trong đó coi trọng vị trí, vai trò của người học trong việc chủ động tiếp thu, lĩnh hội kiến thức. Trong quá trình tổ chức dạy học, học sinh vừa là đối tượng vừa là chủ thể, giáo viên là người tổ chức, điều khiển, hướng dẫn. Vì vậy học sinh cần phải chủ động, tích cực khai thác các kiến thức liên quan.

 

doc 17 trang thuychi01 8911
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm dạy tiết Hoạt động Ngữ văn 7 chủ đề “Giáo dục chủ quyền biển đảo” ở trường THCS & THPT Như Thanh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
1
Mục lục
1
2
1. MỞ ĐẦU
2
1.1 Lí do chọn chọn đề tài
2
1.2 Mục đích nghiên cứu
3
1.3 Đối tượng nghiên cứu
3
1.4 Phương pháp nghiên cứu
3
3
2. NỘI DUNG
3
2.1 Cơ sở lí luận
3
2.2 Thực trạng vấn đề
4
2.2.1 Thuận lợi
4
2.2.2. Khó khăn
4
2.3. Các giải pháp thực hiện
5
2.3.1 Tìm hiểu tài liệu
5
2.3.1.1 Bước 1 - Tìm hiểu các văn bản mang tính pháp lí về chủ quyền biển đảo
5
2.3.1.2 Bước 2 - Tìm hiểu về một số hòn đảo và quần đảo thuộc tỉnh Thanh Hóa và Việt Nam
5
2.3.1.3 Bước 3 - Tìm hiểu những bài thơ hay, các tác phẩm văn học Việt Nam, các bài hát viết về biển và hải đảo
8
2.3.2 Tích hợp với một số môn học khác
8
2.3.2.1 Tích hợp kiến thức môn Địa lí
8
2.3.2.2 Tích hợp kiến thức môn Lịch sử
12
2.3.2.3 Tích hợp kiến thức môn Âm nhạc
14
2.3.3 Tổ chức thực hiện
14
4
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
16
3.1. Kết luận
16
3.2. Kiến nghị
16
5
Tài liệu tham khảo 
17
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, biển đảo có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng về an ninh quốc phòng, là địa bàn chiến lược trọng yếu trong công cuộc bảo vệ tổ quốc. Với hai quần đảo lớn là Hoàng Sa và Trường Sa cùng hàng ngàn đảo và quần đảo lớn nhỏ khác được coi là tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ phía Đông đất nước. Một số đảo ven bờ được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển. 
Với những lợi ích to lớn về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng mà biển đem lại cho mỗi quốc gia làm cho biển trở thành mục tiêu tranh chấp của các nước trong khu vực có biển. Thực tế đã và đang diễn ra hiện nay đối với nước ta và các nước trong khu vực Biển Đông là các nước đang phải đối mặt với những hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia một cách nghiêm trọng. Trong đó, quan trọng nhất là vụ việc tranh chấp diễn ra ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và khu vực thềm lục điạ của Việt Nam. Vì chủ quyền biển đảo của dân tộc, vì sự phồn vinh của đất nước, việc giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo cho thế hệ trẻ nói chung và cho học sinh trường THCS&THPT Như Thanh nói riêng đang là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa chiến lược đặc biệt. Điều đó không chỉ có ý nghĩa đối với thế hệ trẻ trong thời gian trước mắt mà còn có tác động lâu dài trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Những năm gần đây, ngành giáo dục nước ta đang chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy - học. Ở nhiều cấp học, các nhà trường đã chú ý việc soạn - giảng của giáo viên và tổ chức học tập ở học sinh, trong đó coi trọng vị trí, vai trò của người học trong việc chủ động tiếp thu, lĩnh hội kiến thức. Trong quá trình tổ chức dạy học, học sinh vừa là đối tượng vừa là chủ thể, giáo viên là người tổ chức, điều khiển, hướng dẫn. Vì vậy học sinh cần phải chủ động, tích cực khai thác các kiến thức liên quan.
	Trong các phương pháp đổi mới dạy học, phương pháp sử dụng kiến thức liên môn dạy học gây hứng thú cho học sinh trong từng tiết học. Đặc biệt là đối với môn Ngữ văn, việc khai thác, sử dụng kiến thức các môn học Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, Âm nhạc làm cho học sinh nhận thức được sự phát triển của xã hội một cách liên tục thống nhất, giúp học sinh nắm kiến thức một cách có hệ thống, mang tính chất tổng hợp. 
Với những lí do trên, cùng với nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình hiện nay, nhất là trong việc giáo dục chủ quyền biển đảo đối với học sinh, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Kinh nghiệm dạy tiết Hoạt động Ngữ văn 7 chủ đề “Giáo dục chủ quyền biển đảo” ở trường THCS&THPT Như Thanh” hi vọng sẽ được chia sẻ với đồng nghiệp về một vài kinh nghiệm trong công tác tổ chức dạy học tích hợp cho học sinh THCS về “Chủ quyền biển đảo” thiêng liêng của tổ quốc.
1.2 Mục đích nghiên cứu
“Giáo dục chủ quyền biển đảo” qua tiết Hoạt động Ngữ văn cho học sinh lớp 7 bậc THCS ở trường THCS&THPT Như Thanh giúp cho các em bổ sung thêm kiến thức xã hội về biển đảo xứ Thanh cũng như biển đảo Việt Nam. 
Giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào về quê hương, đất nước Việt Nam. Từ đó có tinh thần trách nhiệm với biển đảo quê hương và biển đảo Việt Nam.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Với phạm vi đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu kinh nghiệm một tiết Hoạt động Ngữ văn trong chương trình Ngữ văn 7 cho học sinh ở trường THCS&THPT Như Thanh.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu qua tìm hiểu tài liệu viết về biển đảo Việt Nam và tỉnh Thanh Hóa.
- Phương pháp khảo sát chất lượng học sinh.
- Phương pháp tìm hiểu thực tế.
2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận
Từ xa xưa tổ tiên người Việt đã thấy được giá trị, tiềm năng của sông, biển đem lại nên tại các vùng ven sông, ven biển đã là nơi tập trung dân cư đông đúc để làm ăn sinh sống. Vì vậy, giữ biển, bảo vệ biển, vươn ra biển để khai thác biển là sự lựa chọn sống còn của nhân dân các dân tộc ở các quốc gia có biển.
Những năm gần đây, dân tộc ta đang phải đối mặt với những hành động chống phá của các thế lực thù địch bên ngoài. Chúng tìm mọi cách can thiệp vào công việc nội bộ đất nước, gây mất ổn định về an ninh chính trị, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Đặc biệt, Trung Quốc đã liên tục có những hành động xâm hại đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam, gây tổn hại đến mối quan hệ giữa hai dân tộc. Để học sinh biết hành động của Trung Quốc là xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam cũng như để giáo dục cho các em hiểu Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam thì việc giáo dục cho học sinh ý thức chủ quyền dân tộc, chủ quyền biển đảo là vấn đề vô cùng quan trọng.
Năm học 2016-2017 là năm học mà ngành giáo dục cùng với toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 Khóa X về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Trên cơ sở Công ước Liên hiệp quốc về luật biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử các bên ở biển Đông (DOC), tình hình phức tạp trên biển Đông đã được báo chí phản ánh, Đảng, nhà nước, các cấp các ngành, nhất là ngành giáo dục đã liên tục có các văn bản chỉ đạo về công tác tuyên truyền, giáo dục mọi tầng lớp nhân dân về ý thức giữ gìn, bảo vệ chủ quyền biển đảo, nhất là thế hệ trẻ. Đó là những cơ sở quan trọng để các thầy cô giáo, các nhà trường có thể chủ động trong việc tổ chức các hoạt động, tích hợp kiến thức để giáo dục về ý thức trách nhiệm, khơi lên tình yêu biển, tình yêu tổ quốc của các em học sinh.
2.2 Thực trạng vấn đề
2.2.1 Thuận lợi
Vì vấn đề “Giáo dục chủ quyền biển đảo” của dân tộc đang là một vấn đề mang tính thời sự mà chương trình Ngữ văn 7 lại có tiết Hoạt động Ngữ văn (Ngoại khóa) sẽ rất thuận lợi cho giáo viên trong việc tích hợp kiến thức các môn học vào bài giảng để tuyên truyền, giáo dục theo đúng chủ trương của nhà nước ta và của ngành giáo dục. Trước đây với tiết Hoạt động Ngữ văn này, giáo viên tùy chọn kiến thức giảng dạy là có thể đọc diễn cảm văn bản nghị luận, đọc thơ hay tập làm thơ Bản thân tôi thấy tiết học diễn ra nhàm chán, học sinh ngại học. 
Do vậy, khi thực hiện tiết Hoạt động Ngữ văn lớp 7 - Tiết 135 theo quy định phân phối chương trình của Sở GD&ĐT (số 463/PGDĐT-GDTrH ngày 16 tháng 10 năm 2013), trong năm học 2016-2017, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và thử nghiệm cụ thể trong tiết học này. Bản thân tôi nhận thấy rằng, việc“Giáo dục chủ quyền biển đảo” cho học sinh là vô cùng cần thiết. Học sinh ham thích học và tìm hiểu hơn, tích cực, chủ động hơn trong tiếp thu và lĩnh hội kiến thức. Tiết học cũng trở nên sôi nổi, đạt hiệu quả hơn. Vậy nên tôi đã mạnh dạn đưa vấn đề này vào chương trình Hoạt động Ngữ văn lớp 7 - Tiết 135 là rất phù hợp. 
2.2.2. Khó khăn
Khi đưa vấn đề “Giáo dục chủ quyền biển đảo” vào giảng dạy cho học sinh để các em hiểu được quả là vần đề khó. Bởi vì, đối tượng học sinh lớp 7 các em còn nhỏ nên còn nhiều hạn chế trong hiểu biết về kiến thức xã hội. Phần đông các em đều là con em dân tộc thiểu số điều kiện hoàn cảnh gia đình còn gặp nhiều khó khăn, các em ít được đi chơi xa nhất là đến các nơi trung tâm như: thị trấn, thành phố; đặc biệt là những địa phương có biển. Vì vậy, khi hỏi về biển và chủ quyền biển đảo nhiều em trả lời rất mơ hồ thậm chí có em còn không biết.
Cụ thể là trong năm học trước (năm học 2015-2016), sau khi học xong tiết 139 Chương trình địa phương Ngữ văn 6 (PPCT số 463/PGDĐT-GDTrH ngày 16/10/2013) bài“Giới thiệu danh lam thắng cảnh và di tich lịch sử văn hóa Thanh Hóa”, tôi ra câu hỏi sau:
Câu hỏi: Ngoài bãi biển Sầm Sơn, em hãy kể tên những bãi biển đẹp của Thanh Hóa mà em biết? Bãi biển đó ở huyện nào?
Đáp án:
Ngoài bãi biển Sầm Sơn Thanh Hóa còn có các bãi biển đẹp như sau:
- Bãi biển Hải Hòa- Tĩnh Gia
- Bãi biển Hải Thanh- Tĩnh Gia
- Bãi biển Hải Tiến- Hoằng Hóa
Lớp
TS
HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6A
25
0
0
2
8
8
32
15
60
	Đó là tình hình chung của học sinh hiện nay khiến tôi suy nghĩ về thực trạng kiến thức xã hội của các em còn quá yếu. Vì vậy với tham vọng của bản thân, tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “Giáo dục chủ quyền biển đảo” để dạy học sinh bậc THCS ở trường THCS&THPT Như Thanh. Sau đây là những giải pháp để khắc phục tình trạng trên mà tôi đã đúc rút trong quá trình giảng dạy.
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1 Tìm hiểu tài liệu
2.3.1.1 Bước 1 - Tìm hiểu các văn bản mang tính pháp lí về chủ quyền biển đảo
Dạy tiết Hoạt động Ngữ văn (Ngoại khóa) “Giáo dục chủ quyền biển đảo”. giáo viên trước hết cho học sinh nắm được một số cơ sở pháp lí của chủ quyền biển đảo Việt Nam. 
Đầu tiên cho các em hiểu được công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền Biển Đảo của nước ta trong thời gian qua. Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10; Quốc hội ban hành Luật biển Việt Nam, số 18/2012/QH13. Đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21 tháng 6 năm 2012. Đây là căn cứ có tính pháp lý lớn nhất ở nước ta về biển đảo. 
Các công ước quốc tế như bộ quy tắc ứng xử Biển Đông , công ước quốc tế Biển năm 1982 củng là những căn cứ pháp lý về quyền và nghĩa vụ trên biển Đông của các quốc gia trong đó có Việt Nam.Sự đầu tư của nhà nước về mọi mặt như: Hiện đại hoá Quân chủng hải quân nhân dân, Tăng cường tiềm lực quốc phòng, Hỗ trợ ngư dân bám biển, Đưa dân ra xây dựng các đảo, xây dựng các nhà dàn DK, Xây dựng phòng thủ kiên cố các đảo tiền phươngĐã thấy rõ vai trò của biển đảo nước ta.
2.3.1.2 Bước 2 - Tìm hiểu về một số hòn đảo và quần đảo thuộc tỉnh Thanh Hóa và Việt Nam
- Tìm hiểu về một số hòn đảo và quần đảo thuộc tỉnh Thanh Hóa:
Vùng biển Thanh Hóa có 3 hòn đảo lớn, phía Bắc là đảo Nẹ thuộc xã Ngư Lộc huyện Hậu Lộc, về phía Nam là đảo Mê thuộc xã Hải Bình và đảo Biện Sơn thuộc xã Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia. Đây là hai vị trí tiền tiêu hết sức quan trọng trên vùng biển xứ Thanh.
Đảo Nẹ cách bờ biển xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc 6 km về phía Đông, đây là một cù lao đồi dài gần 900m, bề ngang nơi rộng nhất 400m, hướng Tây Nam - Đông Bắc, cao nhất về góc Tây Nam (có đỉnh 70,8m), thấp dần về bờ đảo Đông Bắc. Trung tâm đảo là điểm gặp nhau của kinh tuyến 106000’12’’ Đông và vĩ tuyến 19054’50’’ Bắc. Đảo Nẹ vừa là vị trí quân sự tiền tiêu mặt Đông của huyện Hậu Lộc, vừa là cột mốc chỉ đường cho tàu thuyền đánh cá ngoài khơi xa tìm về đúng bến, vừa là nơi trú ẩn an toàn cho thuyền bè khi có sóng to gió lớn.
 Hòn Mê là tên quần đảo, cũng là tên đảo lớn nhất, thuộc xã Hải Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Quần đảo Hòn Mê cách đất liền 11 km, gồm 17 đảo lớn nhỏ, diện tích tổng cộng 450 ha, riêng đảo Hòn Mê, còn gọi là Hòn Mê Lớn, có diện tích 420 ha. Ngoài đảo chính la Hòn Mê, còn có các đảo Hòn Bung, Hòn Cháy, Hòn Ruộc, đảo Hòn Diêm, Hòn Miệng, Hòn Buồm, đảo Hòn Sổ, Hòn Sập, Hòn Nếu trong, Hòn Nếu ngoài, Hòn Bò, Hòn Vàng, Hòn Sảnh, Hòn Đót.
Biện Sơn hay còn gọi là “Hòn Biện Sơn” được mệnh danh là hòn đảo xanh vùng ven biển huyện Tĩnh Gia. Xưa kia là Cù lao Biện thuộc đất An Hòa, tổng Tuần La, huyện Kiết Chuế, sau gọi là phường Tứ Chiếng Biện Sơn, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa. Nay là thuộc xã đảo Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Đảo thuộc huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa, xưa có tên gọi là Biện Sơn.
Biện Sơn là một địa danh nổi tiếng có phong cảnh tuyệt mĩ, có vị trí địa lí quan trọng và có giá trị lịch sử, văn hóa to lớn không chỉ đối với xứ Thanh mà còn với cả dân tộc. Phía Đông Biện Sơn là biển cả mênh mông, phía Tây là vụng Ngọc, phía Nam là hòn Cù, phía Bắc là đảo Mê và nhiều hòn đảo khác, được mệnh danh là Thập bát Mã Sơn. Những hòn đảo cùng với màu nước biển xanh biếc tạo nên cảnh sắc non nước hữu tình. Đặc biệt, Biện Sơn còn lưu giữ đậm nét các giá trị lịch sử - văn hóa biển đảo qua hàng ngàn năm như: Huyền tích về Mỵ Châu - Trọng Thủy ở giếng Ngọc, Phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn, đền thờ Tôn Thất Cơ, di tích thành Ông Ninh, đền thờ Sát hải đại vương, đền thờ Trần Quý Phi Lễ hội Quang Trung mang đậm dấu ấn văn hóa biển.
- Tìm hiểu về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - hai quần đảo tiêu biểu, có vị trí chiến lược quan trọng trong số hàng ngàn đảo lớn nhỏ của Việt Nam::
Quần đảo Hoàng Sa là một quần đảo san hô nằm giữa Biển Đông. Từ lâu Hoàng Sa cũng như Trường Sa đã thuộc lãnh thổ Việt Nam với tên Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa. Quần đảo Hoàng Sa nằm trong kinh độ 1110 đến 1130 Đông, vĩ độ 15045’ đến 17015’, ngang với vĩ độ Huế và Đà Nẵng. 
Hoàng Sa nằm ở phía Bắc Biển Đông, trên đường biển quốc tế từ Châu Âu đến các nước phía Đông và Đông Bắc Á và giữa các nước Châu Á với nhau. Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 37 đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm và một số đối tượng địa lý khác trong vùng biển rộng khoảng 30.000 km2 chia ra làm 2 nhóm: 
Nhóm phía Đông có tên là Nhóm An Vĩnh.
Nhóm phía Tây là Nhóm Lưỡi Liềm. 
Riêng đảo Hoàng Sa có trạm khí tượng của Việt Nam hoạt động từ năm 1938 đến 1947, được tổ chức khí tượng quốc tế đặt số hiệu 48-860 (số 48 chỉ khu vực Việt Nam). Dưới triều Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa thuộc phủ Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Nam. Năm 1938 thuộc tỉnh Thừa Thiên. Năm 1961 gọi là xã Định Hải, quận Hoà Vang tỉnh Quảng Nam. Năm 1982 chính phủ ta quyết định thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Nay trở thành huyện Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng. 
Năm 1956 Trung Quốc chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Tháng 1 năm 1974, trong lúc quân và dân ta đang tập trung sức tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung Quốc đã đem quân ra đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Vì vậy, quần đảo này tuy là biển đảo nước ta nhưng Trung Quốc đã và đang chiếm đóng, sử dụng trái phép.
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 200 hải lý về phía Nam. Quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 100 đảo nhỏ, bãi ngầm, bãi san hô nằm trải rộng trong một vùng biển khoảng 180.000 km2 với chiều Đông Tây là 325 hải lý, chiều Bắc Nam là 274 hải lý, từ vĩ độ 6030’ Bắc đến 120 Bắc và từ kinh độ 111030’ Đông đến 117020’ Đông, cách Cam Ranh 248 hải lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 595 hải lý. 
Quần đảo Trường Sa được chia làm 10 cụm: Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bãi Vũng Mây, Bãi Hải Sâm, Bãi Lim, Song Tử Tây là đảo cao nhất (cao 4 đến 6 mét lúc triều xuống); Ba Đình là đảo rộng nhất (0,6km2) trong quần đảo. Điều kiện tự nhiên và khí hậu vùng này rất khắc nghiệt: nắng gió, giông bão thường xuyên, thiếu nước ngọt, nhiều đảo không có cây. Quần đảo Trường Sa không chỉ là vị trí quân sự chiến lược cực kì quan trọng án ngữ phía Đông Nam nước ta, bảo vệ vùng biển và hải đảo ven bờ, mà còn là một vùng có trữ lượng phốt phát khá lớn, có nhiều loại động thực vật và có thể có nhiều dầu. Việt Nam đang có mặt và bảo vệ 21 đảo và bãi đá ngầm trên quần đảo Trường Sa. 
2.3.1.3 Bước 3 - Tìm hiểu những bài thơ hay, các tác phẩm văn học Việt Nam, các bài hát viết về biển và hải đảo
Ở phần này, giáo viên cần cho học sinh thấy được vẻ đẹp của biển đảo quê hương đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận của các văn nghệ sĩ để họ sáng tạo nên tác phẩm của mình. Phải cho học sinh thấy được đề tài về biển đảo vô cùng phong phú và đa dạng. Qua các tác phẩm bồi dưỡng cho học sinh tình yêu biển đảo quê hương, từ đó bồi đắp tình yêu tổ quốc cho các em. 
Qua việc tìm hiểu của giáo viên và hướng dẫn học sinh tìm hiểu qua sách báo, đài, tivi, mạng intenet có rất nhiều bài thơ viết về biển như: “Người lính đảo” (Nguyễn Quang Định), “Đẹp mãi lòng anh” (Tùng Nguyễn), “Tiếp bước” (Mai Ngọc Thoan), “Biển mặn” (Hoàng Hôn Tím),“Tiễn đưa em” (Chương Nguyễn), “Đời phù du” (Đan Hạ), “Sóng” (Xuân Quỳnh), “Tình của sóng” (Phú Sĩ)  Ngoài ra trong chương trình Ngữ văn THCS còn có những bài văn, bài thơ viết về biển như: “Cô Tô” (Nguyễn Tuân) - Ngữ văn 6, “Quê hương” (Tế Hanh) - Ngữ văn 8, “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận) - Ngữ văn 9  Giáo viên cho học sinh phát biểu rồi tổng hợp các bài thơ. Đọc diễn cảm hoặc cho học sinh đọc diễn cảm mtộ bài thơ tiêu biểu nào đó.
Các bài hát về biển như: “Gần lắm Trường Sa” (Huỳnh Phước Long), “Chút thư tình của người lính biển” (Phan Huỳnh Điểu), “Chiều trên bến cảng” (Nguyễn Đức Toàn), “Mưa Trường Sa” (Xuân An), “Chuyện tình của biển” (Thanh Tùng), Ở phần này, sau khi giới thiệu, giáo viên sẽ chọn một bài hát cho học sinh thưởng thức trực tiếp qua clip đã chuẩn bị sẵn.
2.3.2 Tích hợp với một số môn học khác
2.3.2.1 Tích hợp kiến thức môn Địa lí
Địa lý là môn học có nhiều quan hệ liên quan đến môn Ngữ văn, bởi vì bất kì một bài học cũng liên quan đến địa danh cụ thể. Vì vậy việc dạy học Ngữ văn kết hợp với bản đồ, lược đồ là vô cùng cần thiết. Những bản đồ, lược đồ sẽ là giáo cụ giúp học sinh hình dung rõ về vấn đề giáo viên đưa ra, đặc biệt là đối với vấn đề tìm hiểu kiến thức và giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo cho đối tượng học sinh bậc THCS.
Bản đồ được coi là phương tiện trực quan sinh động giúp học sinh học chăm chú, hình dung ra các địa điểm, miền quê hay một vùng trên lược đồ từ đó, học sinh có hứng thú hơn, hiểu bài hơn, tiếp thu kiến thức nhanh hơn và nhớ lâu hơn. Từ việc hiểu và cảm nhận về biển đảo sẽ hình thành trong các em tình yêu biển đảo quê hương, góp phần bồi đắp tình yêu tổ quốc và hình thành ý thức trách nhiệm của các em về chủ quyền biển đảo và ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tổ quốc. 
Tuy nhiên để sử dụng, khai thác bản đồ Địa lí có hiệu quả người giáo viên dạy văn phải có kiến thức cơ bản về bản đồ. Nếu giáo viên có thể kết hợp sử dụng dạy bằng công nghệ thông tin thì hiệu quả càng cao hơn.
Ví dụ 1: Khi dạy Phần I: Biển đảo Xứ Thanh, giáo viên treo bản đồ Thanh hóa và giới thiệu cho học sinh:
Thanh Hóa là tỉnh cực Bắc miền Trung Việt Nam và là tỉnh lớn cả diện tích lẫn dân số, đứng thứ 5 về diện tích và thứ 3 về dân số trong số các đơn vị hành chính trực thuộc trung ương.
Thanh Hóa gồm 2 thành phố trực thuộc tỉnh, 1 thị xã và 24 huyện. Với diện tích 11133 4km2, dân số 3,405 triệu người.
Đến với Thanh Hóa du khách được thỏa sức tắm biển tại những bãi biển xanh biếc đầy quyến rũ đó là: bãi biển Sầm Sơn, bãi biển Hải Hòa, bãi biển Hải Thanh và bãi biển Hải Tiến, thăm thú các đảo Biện Sơn, đảo Mê, đảo Nẹ và nhiều vùng quê biển đẹp và thanh bình khác.
Ví dụ 2: Khi dạy Phần II: Biển đảo Việt Nam, giáo viên giới thiệu chung về biển đảo Việt Nam. Sau đó giới thiệu cụ thể, chi tiết về hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đặc biệt nhất là cần giới thiệu về các văn bản, các cơ sở pháp lí về hai quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam có diện tích biển khoảng trên 1 triệu km², gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông. Vùng biển nước ta có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa được phân bố khá đều theo chiều dài bờ biển của đất nước. Một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển Việt Nam.
Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô và bãi cạn, nằm ở khu vực biển giữa vĩ độ 15º45’00’’ Bắc - 17º1

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_day_tiet_hoat_dong_ngu_van_7_chu_de_giao_du.doc
  • docBìa phu luc SKKN.doc
  • docBìa SKKN.doc
  • docPHU LUC SKKN TANG.doc