SKKN Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học tác phẩm Chí phèo của Nam Cao
Dạy học văn là quá trình đào sâu, tìm tòi để cảm nhận cái hay, cái đẹp trong tác phẩm văn chương. Bộ môn ngữ văn lại có đặc thù riêng bởi bằng nghệ thuật ngôn từ sinh động nó cung cấp cho người đọc những kiến thức về cuộc sống, những điều ẩn sâu trong tâm hồn con người. Văn học còn có vai trò rất quan trọng đối với mỗi con người đặc biệt là học sinh. Ta vẫn thường nói “ Văn học là
nhân học” học văn là học làm người, học văn giúp cho con người ngày một hoàn
thiện nhân cách. Hơn thế nữa văn học ngày nay còn tác động trưc tiếp đến tâm tư
tình cảm của con người nó làm cho cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa hơn, lạc
quan, yêu đời hơn. Nhưng điều làm cho hầu hết những giáo viên đang trực tiếp
giảng dạy bộ môn ngữ văn trong trường THPT hiện nay đang phải trăn trở là hiện
tượng học sinh không hứng thú đón nhận bộ môn này như những môn học khác
thậm chí có thái độ thờ ơ, lạnh nhạt đối với giờ học Ngữ văn.Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên? Làm thế nào để học sinh say mê, hứng thú trong giờ học Ngữ văn ? Có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này nhưng với cá nhân tôi
mạnh dạn chỉ ra một nguyên nhân quan trọng từ phía những người đang trực tiếp
đứng trên bục giảng đó là chưa tạo được sự hứng thú và phương pháp phù hợp với
từng đối tượng học sinh. Vì vậy chưa lôi cuốn các em trong việc hoc tập bộ môn
này. Từ đó tôi cũng mạnh dạn đưa ra một vài suy nghĩ nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học bộ môn Ngữ văn trong trường THPT.
Thực hiện được vấn đề này quả không đơn giản, nó đòi hỏi mỗi giáo viên dạy văn phải mất nhiều thời gian và công sức tìm tòi sáng tạo cho mỗi giờ lên lớp. Xuất phát từ thực tế trên nên tôi chọn đề tài: “ Một vài suy nghĩ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh khi học tác phẩm Chí Phèo”. Bản thân tôi với mong muốn được trình bày vài kinh nghiệm để các đồng nghiệp chia sẻ và góp ý. Xin chân thành cảm ơn!
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT LÊ HOÀN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học tác phẩm Chí phèo của Nam Cao” ( Ngữ văn 11, ban cơ bản) Họ và tên: Hà Thị Tình Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT Lê Hoàn SKKN thuộc môn: Ngữ văn THANH HÓA NĂM 2019 1. MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài: Dạy học văn là quá trình đào sâu, tìm tòi để cảm nhận cái hay, cái đẹp trong tác phẩm văn chương. Bộ môn ngữ văn lại có đặc thù riêng bởi bằng nghệ thuật ngôn từ sinh động nó cung cấp cho người đọc những kiến thức về cuộc sống, những điều ẩn sâu trong tâm hồn con người. Văn học còn có vai trò rất quan trọng đối với mỗi con người đặc biệt là học sinh. Ta vẫn thường nói “ Văn học là nhân học” học văn là học làm người, học văn giúp cho con người ngày một hoàn thiện nhân cách. Hơn thế nữa văn học ngày nay còn tác động trưc tiếp đến tâm tư tình cảm của con người nó làm cho cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa hơn, lạc quan, yêu đời hơn. Nhưng điều làm cho hầu hết những giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn ngữ văn trong trường THPT hiện nay đang phải trăn trở là hiện tượng học sinh không hứng thú đón nhận bộ môn này như những môn học khác thậm chí có thái độ thờ ơ, lạnh nhạt đối với giờ học Ngữ văn.Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên? Làm thế nào để học sinh say mê, hứng thú trong giờ học Ngữ văn ? Có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này nhưng với cá nhân tôi mạnh dạn chỉ ra một nguyên nhân quan trọng từ phía những người đang trực tiếp đứng trên bục giảng đó là chưa tạo được sự hứng thú và phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Vì vậy chưa lôi cuốn các em trong việc hoc tập bộ môn này. Từ đó tôi cũng mạnh dạn đưa ra một vài suy nghĩ nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học bộ môn Ngữ văn trong trường THPT. Thực hiện được vấn đề này quả không đơn giản, nó đòi hỏi mỗi giáo viên dạy văn phải mất nhiều thời gian và công sức tìm tòi sáng tạo cho mỗi giờ lên lớp. Xuất phát từ thực tế trên nên tôi chọn đề tài: “ Một vài suy nghĩ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh khi học tác phẩm Chí Phèo”. Bản thân tôi với mong muốn được trình bày vài kinh nghiệm để các đồng nghiệp chia sẻ và góp ý. Xin chân thành cảm ơn! 1.2. Mục đích nghiên cứu. Nhằm đưa ra một số biện pháp cụ thể nhằm khơi gợi sự hứng thú của học sinh làm cho giờ học diễn ra sôi nổi , học sinh ham học hơn, không còn cảm thấy mệt mỏi, nặng nề khi đến tiết Ngữ văn. Từ đó giúp cho giờ học đạt hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu của phương pháp dạy học đổi mới. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Đề tài này tôi muốn áp dụng cho học sinh lớp 11 trường THPT Lê Hoàn nơi tôi đang trực tiếp giảng dạy nhằm góp phần nhỏ bé của mình tạo sự cuốn hút trong giờ học văn, giúp học sinh yêu thích say mê môn học này. Cụ thể là hai lớp tôi được trực tiếp giảng dạy 11A3, 11A8. 1.4. Phương pháp nghiêu cứu. Với đề tài này tôi sẽ kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, từ nhiều góc độ và cấp độ khác nhau để phát hiện rõ vấn đề. Tôi có thể kể tên các phương pháp tiêu biểu sau: 1.4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống: Để phát huy tính tích cực của học sinh trong bài học Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, tôi sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống các tài liệu hướng dẫn về bài học này, về phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để từ đó có đánh giá, có khái quát, có cách tổ chức giờ dạy sao cho hiệu quả nhất. 1.4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát: Với phương pháp này, chủ thể nghiên cứu nhằm điều tra, khảo sát thực trạng về hứng thú của học sinh đối với bài học trước và sau khi áp dụng đề tài. 1.4.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp phân tích tổng hợp nhằm soi sáng cho những nhận định chung. Nhờ phương pháp này mà quá trình tổ chức bài học theo đúng đặc trưng thể loại và phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh bài học. 1.4.4. Phương pháp so sánh đối chiếu: So sánh đối chiếu là phương pháp giúp cho đề tài trở nên phong phú, rõ nét hơn. Ta có thể rút ra những kiến thức cơ bản của một văn bản văn học ở chương trình Ngữ văn 11 cơ bản một cách cụ thể hơn. 1.5. Những điểm mới của SKKN: So với các SKKN trước, ở SKKN này tôi chủ yếu sử dụng kết hợp ưu thế của một số PP/KT dạy học tích cực (Phương pháp trò chơi kết hợp kĩ thuật động não, kĩ thuật sơ đồ tư duy kếtan hợp với phương pháp thảo luận nhóm, PP/KT sơ đồ tư duy kết hợp với "Trình bày một phút") nhằm phát huy tích tích cực của học sinh trong giờ đọc hiểu văn bản văn học. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Bác Hồ đã từng căn dặn các thế hệ học sinh : “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quanh để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.” Chúng ta đang trên đà đổi mới, hội nhập cùng xu thế chung của thời đại công nghệ 4.0. Cùng với sự đổi mới đó, đòi hỏi nền giáo dục nước ta có sự đổi mới, đổi mới toàn diện để bắt kịp thời đại. Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục” (Nghị quyết TW II – Khóa VIII). Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu thenchốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”. Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như vậy, vai trò của giáo dục là cực kì quan trọng, liên quan đến sự phát triển bền vững của một quốc gia. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn nhận thức rất rõ điều đó. Trong xu thế mới, điều kiện phát triển mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giáo dục càng được ưu tiên hàng đầu. Để đáp ứng nhu cầu mới, nhất thiết phải đẩy mạnh đổi mới, đổi mới toàn diện giáo dục. Trong đó, việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là với môn Ngữ văn là điều rất cần thiết. Trong đó nhiệm vụ đầu tiên là làm cách nào để người học luôn sẵn tâm thế và yêu thích môn học, từ đó say mê, chủ động tích cực coi học tập là nhiệm vụ hàng đầu. Các khái niệm cơ bản Với đề tài đã lựa chọn “Một vài suy nghĩ nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao” trước hết tôi muốn làm rõ một số vấn đề: hứng thú học tập là gì? – Theo Đại từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm 1998, hứng thú có hai nghĩa, đó là “Biểu hiện của một nhu cầu, làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn, tạo ra khoái cảm, thích thú và huy động sinh lực để cố gắng thực hiện” và “hứng thú là sự ham thích”. Qua khái niệm trên ta thấy rằng: hứng thú có nghĩa là tâm trạng vui vẻ, thích thú, hào hứng của con người đối với một hoạt động nào đó. Ở đây là hứng thú, chủ động tích cực học tập nói chung và với môn Ngữ văn nói riêng. Khi có được sự say mê, thích thú con người sẽ làm việc có hiệu quả hơn, dễ thành công và thành công nhanh hơn, bởi lẽ hứng thú còn chính là động lực thúc đẩy hoạt động của con người đi sâu vào bản chất của đối tượng nhận thức mà không dừng lại ở bề ngoài của hiện tượng, nó đòi hỏi con người phải hoạt động tích cực, chịu khó tìm tòi hoặc sáng tạo. Hứng thú có nhiều tác dụng trong cuộc sống nói chung và trong dạy học nói riêng. Sau đây là các góc độ và tác động của sự hứng thú trong cuộc sống, dạy học. Tác động của hứng thú trong cuộc sống – Hứng thú có tác dụng chống lại sự mệt nhọc và những cảm xúc tiêu cực, duy trì trạng thái tỉnh táo ở con người. – Hứng thú định hướng và duy trì tính tích cực của con người, làm con người chịu khó tìm tòi và sáng tạo. – Hứng thú đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển và hình thành nhân cách con người, nó tạo nên khả năng cho hoạt động trí tuệ, thẩm mỹ và các dạng hoạt động khác. – Hứng thú làm cho con người xích lại gần nhau hơn. Tác động của hứng thú trong dạy học Dạy học là một nghệ thuật, người dạy – giáo viên là những “kỹ sư tâm hồn”, sản phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt – con người (nhân cách). Nó không hề giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với giáo viên. Theo William A. Ward thì: “ Người thầy trung bình chỉ biết nói, Người thầy giỏi biết giải thích, Người thầy xuất chúng biết minh họa, Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng” Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh, người học là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ: “Chúng ta không thể dạy ai làm bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó” (Theo Galileo Galilei). Cho nên, nếu khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả học tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác, không bị ép buộc, Khi hứng thú học tập, người học sẽ: – Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra. – Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa hiểu rõ ràng. – Chủ động vận dụng kiến thức kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học. – Kiên trì hoàn thành bài tập, không nản chí trước những tình huống khó khăn – Hứng thú còn giúp học sinh tích cực học tập qua những cấp độ từ thấp đến cao: + Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của bạn + Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau về một vấn đề + Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu. Tóm lại, khi học sinh hứng thú với bài học, với môn học sẽ tạo không khí thi đua học tập sôi nổi, tích cực, say mê học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu đây chính là một trong những tiền đề dẫn đến sáng tạo và tài năng. Và tôi tin rằng quá trình dạy học nhất định sẽ đạt được kết quả cao. “Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng.”(Viện KHGD – “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.) 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ, yêu cầu bắt buộc đối với giáo dục nước ta hiện nay, đặc biệt đối với hệ thống giáo dục phổ thông, trong đó có việc dạy và học môn Ngữ văn. Những năm gần đây, việc tích cực đổi mới, đổi mới căn bản, toàn diện trong giáo dục của chúng ta đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều khó khăn, bất cập và cần tích cực đổi mới hơn nữa. Dạy và học môn Ngữ văn ở các trường THPT chưa đạt được yêu cầu chất lượng và hiệu quả như mong muốn. Đặc biệt, sự mến mộ yếu thích của người học đối với môn học không còn nhiều mặn mà. 2.2.1. Khảo sát số liệu Bảng 1: Khảo sát số liệu học sinh yêu thích hứng thú với môn học đầu năm học 2018 – 2019 lớp 11 A3 Đối tượng khảo sát Mức độ hứng thú Thích Không thích Bình thường Sĩ số Số lượng % Số lượng % Số lượng % 40 7 17.5 10 25 23 57.5 Bảng 2: Khảo sát chất lượng môn học đầu năm Khảo sát điểm Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém TS % TS % TS % TS % TS % 40 0 0 4 10 16 40 17 42.5 3 7.5 Số liệu được khảo sát đầu năm học 2018 – 2019 trên tổng số 40 học sinh, lớp 11A3, với 26 nữ, 14 nam. Nhận thấy, tỷ lệ học sinh yêu thích và hứng thú với môn học là không cao, chỉ chiếm 17.5%. Kết quả khảo sát qua bài kiểm tra đánh giá kiến thức môn học của học sinh cũng cho thấy số lượng học sinh có điểm môn học yếu, kém cao chiếm 50%. Theo tôi, Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan. 2.2.2. Về phía giáo viên Theo tôi, có rất nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn hiện nay trong các trường THPT, từ việc thiết kế chương trình chưa hợp lý : nặng về lý thuyết thiếu thực hành đã gây nhàm chán và lãng phí thời gian mà lại không phát huy sự tìm tòi khám phá những điều mới mẻ của học sinh; việc thiếu thốn về trang thiết bị dạy học như tranh ảnh minh họa, đồ dùng trực quan, dụng cụ nghe nhìn, tài liệu tham khảo cho giáo viên cũng như học sinh khiến cho việc áp dụng dạy học theo phương pháp mới gặp nhiều khó khăn. Một trong những nguyên nhân cơ bản nữa là việc vận dụng đổi mới phương pháp vào giảng dạy ở môn Ngữ văn chưa đáp ứng yêu cầu. Chính vì thế, dẫn đến việc dạy – học chay tràn lan, đơn điệu, nặng về thuyết giảng một chiều, để trò ghi chép rồi học thuộc ý của thầy. Cách học theo lối thụ động đó sẽ không gây được sự hào hứng tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ trong mỗi giờ học. Do đó, những kiến thức học sinh thu nhận được thiếu sâu sắc, không để lại những ấn tượng lâu dài. 2.2.3. Về phía người học: Phải thừa nhận một thực tế là đa số học sinh hiện nay không thích học môn Ngữ văn, không có hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức văn chương. Do tính đặc thù môn học, là một môn học mang tính cảm xúc, tư duy trừu tượng, chịu chi phối rất nhiều bởi yếu tố văn hóa, tâm lí, cảm xúc, đòi hỏi người học phải có trí tưởng tượng phong phú. Đây cũng là môn học mà nội dung không chỉ hiện ra trên dạng câu từ mà nó còn bao hàm, ẩn chứa nhiều tầng nghĩa sâu xa (đặc biệt phần văn học), vì thế việc tiếp nhận môn học này đối với học sinh là rất khó khăn. Mà học sinh nhiều em rất thiếu lòng quyết tâm học tập, cứ khó khăn là bỏkhông học, dẫn đến yếu kém rồi chán môn học đó. Như vậy, dạy học theo hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học tác phẩm Chí Phèo có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học môn Ngữ văn ở bậc THPT. Điều quan trọng là dạy học nhằm tạo hứng thú cho học sinh đòi hỏi phải tổ chức hoạt động học tích cực,và sáng tạo làm cho học sinh say mê học tập. Dạy học theo hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Tăng cường khả năng vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức bài học một cách máy móc. Qua nghiên cứu cơ sở thực tiễn, nghiên cứu đội ngũ GV, HS và cơ sở thiết bị dạy học Ngữ văn, cùng với yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học Ngữ văn tôi nhận thấy đề tài hoàn toàn có khả năng thực thi ở trường THPT. 2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Trước đây, phương pháp dạy học thường thiên về truyền thụ, học ghi nhớ nhiều, gây áp lực đối với người học. Từ đó tạo ra tâm lí sợ học, sợ học thuộc. Với phương pháp dạy học thường áp dụng trước đây, học sinh luôn thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ rồi sẽ tái hiện một cách máy móc những gì giáo viên truyền đạt. Điều này phần nào đã thủ tiêu khả năng sáng tạo, tư duy của người học, biến người học thành những người quen suy nghĩ và diễn đạt bằng những ý thuộc lòng, bằng những lời có sẵn của thầy cô, sách vở. Do đó, học sinh luôn lệ thuộc vào sách vở, học sinh không hào hứng chủ động, thiếu sáng tạo và thiếu tự tin. Những trăn trở làm sao học sinh của mình luôn yêu thích môn Ngữ văn; làm thế nào để chất lượng học tập môn Ngữ văn được nâng cao và điều quan trọng là làm sao để người học luôn chủ động tích cực, say mê, tự tin trong học tập; biết vận dụng kiến thức vào thực tế; chủ động khám phá, phát hiện những cái hay, cái đẹp, các giá trị tác phẩm văn chương; bồi dưỡng tình yêu đối với văn học, bồi dưỡng tâm hồn, giá trị nhân văn luôn là điều trăn trở mà tôi tin rằng không chỉ bản thân tôi mà có lẽ là của tất cả những thầy cô, đồng nghiệp của tôi luôn đau đáu. Xuất phát từ thực trạng ấy, từ thực tế giảng dạy của bản thân, qua trao đổi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, mong góp phần nào sẽ cải thiện được thực trạng dạy và học Ngữ văn hiện nay, cải thiện được quan điểm tình cảm, ý thức học tâp của học sinh đối với môn Ngữ văn, đặc biệt đối với học sinh ở bậc THP Giải pháp thứ nhất tạo tâm thế học tập cho học sinh bằng tác động vào tình cảm. Đồng chí Lê Duẩn từng nói: “Thầy giáo không chỉ dạy cho học trò bằng những công thức, bằng những câu, những từ có sẵn mà phải dạy bằng tất cả tâm hồn mình”. Để học sinh luôn chủ động, tích cực, tự giác đặc biệt có hứng thú với môn học, trước hết, giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất cả trái tim và lòng tâm huyết của mình, phải để người học cảm nhận được tâm hồn mình trong mỗi bài giảng. Thực sự quan tâm đến học trò, biết lắng nghe, chia sẻ với những suy nghĩ, tâm tư của học trò. Sẵn sàng là người bạn chia sẻ. Từ đó tạo được niềm tin, xóa bớt được khoảng cách giữa giáo viên với học sinh (tâm lí, tuổi tác), tạo ra không khí học tập thân thiết, gần gũi Theo quy luật lây lan tình cảm, từ chỗ yêu quí, trân trọng thầy cô đến thích học môn học đó là một khoảng cách rất ngắn. Từ đó học sinh yêu thích, say mê học môn học mà mình dạy. Học tập căng thẳng thường làm chúng ta mệt mỏi về tinh thần. Chỉ có sự tận tình, tổ chức giờ học một cách khoa học, sinh động mới kích thích sự hứng thú học tập trong học sinh. Tạo ra bầu không khí học thoải mái, tích cực, có tính thi đua giữa các học sinh là rất cần thiết. Như vậy, không khí lớp học có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất lượng dạy học, cảm xúc tích cực sẽ làm tăng hiệu suất của hoạt động nhận thức trong học sinh. Có nhà giáo dục đã từng nói “Một ông thầy mà không dạy được cho học trò ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi.” Cho nên, giáo viên phải biết cách tạo không khí thoải mái khi vào lớp học. Giáo viên có thể tạo không khí lớp học bằng dẫn các chuyện vui, các câu thơ, câu văn hay, bằng cách đặt vấn đề bất ngờ, gợi được sự chú ý, bằng các tranh ảnh, sơ đồ để gợi hứng thú, kích thích trí tò mò muốn khám phá bài học cho học sinh. Trong tiết dạy, chỉ cần một ví dụ thực tế gắn với bài giảng, một mẩu truyện về nhà văn sẽ làm cho bầu không khí học tập thay đổi tích cực; học sinh sẽ bị cuốn hút vào những giai thoại, hay những liên hệ mà giáo viên kể. Từ đó học sinh sẽ hứng thú và tiếp thu bài tốt hơn. Chính sự chú ý, hứng thú do không khí lớp mang lại sẽ kích thích các học sinh tích cực làm việc hơn, tư duy sẽ được thúc đẩy. Học sinh sẽ chủ động đi sâu tìm hiểu bản chất, ý nghĩa của vự việc, hiện tượng; kết quả là học sinh nhanh hiểu bài và nhớ bài lâu hơn. Giải pháp thứ hai giáo viên phải linh hoạt, đa dạng trong phương pháp Giáo viên luôn vận dụng nhiều phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học, tạo nên sự phong phú đa dạng trong các hoạt động của quá trình dạy học sẽ làm cho học sinh cảm thấy thoải mái, không bị ức chế về mặt tâm lí bởi sự nhàm chán, mệt mỏi vì sự đơn điệu tẻ nhạt. Ví dụ: Khi dạy phần Tiểu dẫn giáo viên cho học sinh điền thông tin vào phiếu, hoặc ghi sẵn trên bảng và để trống phần thông tin cần điền: 1. Tác giả: a. Cuộc đời: – Năm sinh: ., năm mất.. – Tên khai sinh:. – Quê quán:. – Xuất thân trong gia đình:. – Sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời: b. Sự nghiệp sáng tác: – Các tác phẩm chính:. – Phong cách nghệ thuật: 2. Tác phẩm: – Xuất xứ: – Thể loại : . Giáo viên yêu cầu học sinh điền vào chỗ còn trống. Học sinh thay nhau làm, có thể phân theo nhóm t
Tài liệu đính kèm:
- skkn_huong_tiep_can_bai_hoc_nham_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_k.doc