SKKN Một vài giải pháp về đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh trong môn Ngữ văn lớp 11 ở trung tâm GDNN - GDTX cấp THPT

SKKN Một vài giải pháp về đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh trong môn Ngữ văn lớp 11 ở trung tâm GDNN - GDTX cấp THPT

Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học, góp phần tạo thành công cho đổi mới giáo dục ở trung học phổ thông. Từ việc coi kiểm tra, đánh giá chỉ với mục tiêu kết luận kết quả học tập của học sinh tại thời điểm cuối của chương trình giáo dục, tới việc định hướng đánh giá nằm trong cả quá trình giúp cho giáo viên điều chỉnh cách dạy để học sinh đạt kết quả học tập ngày càng cao đang là một chuyển đổi tích cực của giáo dục phổ thông.

Đổi mới công tác đánh giá, cần nắm vững mối quan hệ giữa kiểm tra, lượng giá và đánh giá khắc phục thói quen khá phổ biến là trong khi chấm bài kiểm tra giáo viên chỉ chú trọng việc cho điểm, ít cho những lời phê chỉ rõ ưu, khuyết điểm của học sinh khi làm bài, không mấy quan tâm đến việc ra những quyết định sau kiểm tra nhằm điều chỉnh hoạt động dạy và học, bổ sung những lỗ hổng trong kiến thức của học sinh, giúp đỡ riêng đối với học sinh kém, bồi dưỡng học sinh giỏi, chú trọng hướng dẫn học sinh phát triển kỹ năng và thói quen tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau.

Đổi mới kiểm tra, đánh giá trong dạy học môn Ngữ văn không có nghĩa là thay thế những hình thức đánh giá đang dùng bằng các hình thức đánh giá hoàn toàn mới lạ mà là sử dụng linh hoạt nhiều hình thức kiểm tra đánh giá khác nhau. Căn cứ theo thời điểm đánh giá có thể sử dụng các hình thức như: đánh giá đầu vào, đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ, đánh giá tổng kết. Căn cứ theo tính chất đánh giá có các hình thức kiểm tra, đánh giá: viết, nói, làm (thực hành). Nhưng cần lưu ý rằng: đổi mới kiểm tra, đánh giá theo mục tiêu môn học phải gắn liền với hàng loạt vấn đề của chương trình, sách giáo khoa, với chuẩn kiến thức, với đối tượng học sinh vùng miền.

Chính vì vậy, sau khi được tham gia lớp tập huấn do Sở GD&ĐT tổ chức, kết hợp với quá trình giảng dạy môn ngữ văn, tôi nhận thấy sự cần thiết của việc đổi mới kiểm tra, đánh giá trong hoạt động dạy và học giúp các em học sinh cấp THPT nói chung và học sinh lớp 11 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên nói riêng chủ động tiếp cận, tổng hợp kiến thức đáp ứng được kì thi THPT Quốc gia qua đề tài thực nghiệm: “Một vài giải pháp về đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh trong môn ngữ văn lớp 11 ở trung tâm GDNN-GDTX cấp THPT”.

 

doc 19 trang thuychi01 7354
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một vài giải pháp về đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh trong môn Ngữ văn lớp 11 ở trung tâm GDNN - GDTX cấp THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học, góp phần tạo thành công cho đổi mới giáo dục ở trung học phổ thông. Từ việc coi kiểm tra, đánh giá chỉ với mục tiêu kết luận kết quả học tập của học sinh tại thời điểm cuối của chương trình giáo dục, tới việc định hướng đánh giá nằm trong cả quá trình giúp cho giáo viên điều chỉnh cách dạy để học sinh đạt kết quả học tập ngày càng cao đang là một chuyển đổi tích cực của giáo dục phổ thông.
Đổi mới công tác đánh giá, cần nắm vững mối quan hệ giữa kiểm tra, lượng giá và đánh giá khắc phục thói quen khá phổ biến là trong khi chấm bài kiểm tra giáo viên chỉ chú trọng việc cho điểm, ít cho những lời phê chỉ rõ ưu, khuyết điểm của học sinh khi làm bài, không mấy quan tâm đến việc ra những quyết định sau kiểm tra nhằm điều chỉnh hoạt động dạy và học, bổ sung những lỗ hổng trong kiến thức của học sinh, giúp đỡ riêng đối với học sinh kém, bồi dưỡng học sinh giỏi, chú trọng hướng dẫn học sinh phát triển kỹ năng và thói quen tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau.
Đổi mới kiểm tra, đánh giá trong dạy học môn Ngữ văn không có nghĩa là thay thế những hình thức đánh giá đang dùng bằng các hình thức đánh giá hoàn toàn mới lạ mà là sử dụng linh hoạt nhiều hình thức kiểm tra đánh giá khác nhau. Căn cứ theo thời điểm đánh giá có thể sử dụng các hình thức như: đánh giá đầu vào, đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ, đánh giá tổng kết. Căn cứ theo tính chất đánh giá có các hình thức kiểm tra, đánh giá: viết, nói, làm (thực hành). Nhưng cần lưu ý rằng: đổi mới kiểm tra, đánh giá theo mục tiêu môn học phải gắn liền với hàng loạt vấn đề của chương trình, sách giáo khoa, với chuẩn kiến thức, với đối tượng học sinh vùng miền. 
Chính vì vậy, sau khi được tham gia lớp tập huấn do Sở GD&ĐT tổ chức, kết hợp với quá trình giảng dạy môn ngữ văn, tôi nhận thấy sự cần thiết của việc đổi mới kiểm tra, đánh giá trong hoạt động dạy và học giúp các em học sinh cấp THPT nói chung và học sinh lớp 11 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên nói riêng chủ động tiếp cận, tổng hợp kiến thức đáp ứng được kì thi THPT Quốc gia qua đề tài thực nghiệm: “Một vài giải pháp về đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh trong môn ngữ văn lớp 11 ở trung tâm GDNN-GDTX cấp THPT”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài này hướng tới mục đích sau đây:
a.Về kiến thức:
Nắm được những định hướng chung về đổi mới kiểm tra, đánh giá ở môn Ngữ văn 11-trung học phổ thông.
Nội dung và phương pháp đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn 11.
Hiểu được cách thức thiết kế đề kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn 11.
b. Về kỹ năng:
Thiết kế đề kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn theo hướng đổi mới.
Rèn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết cuả học sinh.
c. Về thái độ:
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ văn.
Đổi mới quan niệm đánh giá kết quả học tập của học sinh, tăng cường rèn luyện kỹ năng làm bài viết theo chuẩn kiến thức kĩ năng. 
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Học sinh cấp học GDNN - GDTX nói riêng và học sinh cấp THPT nói chung.
Đặc biệt là đối tượng học sinh lớp 11.
Thời gian nghiên cứu: Hai năm học 2017 - 2018, 2018 - 2019.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp. Dưới đây là những phương pháp chủ yếu:
 * Phương pháp thống kê, nêu ví dụ.
 * Phương pháp thực nghiệm.
 * Phương pháp so sánh.
 * Phương pháp phân loại, phân tích.
 * Phương pháp ra đề theo năm bước. 
1.5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Kinh nghiệm này rút ra từ thực tế giảng dạy, từ những lần ra đề thi kiểm tra để đánh giá chất lượng giáo dục môn học của học sinh lớp 11 cấp Giáo dục thường xuyên.
Qua những tiết chấm trả bài kiểm tra phát hiện những khó khăn, vướng mắc, cần tháo gỡ để đánh giá chất lượng dạy và học thực chất hơn.
Điểm mới cơ bản là ra đề và hướng dẫn chấm qua năm bước:
+ Mục tiêu ra đề kiểm tra
+ Hình thức kiểm tra 
+ Thiết lập ma trận
+ Biên soạn đề kiểm tra
+ Hướng dẫn chấm đề kiểm tra.
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh không chỉ nhằm cho điểm mà phải được xem là căn cứ xác định mức độ phát triển và tiến bộ hay chưa tiến bộ, đạt được những gì,làm căn cứ điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học thích hợp. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên trong cả quá trình theo dõi kết quả học tập của học sinh. Trong các cuộc họp nhóm chuyên môn, tổ chuyên môn, chúng tôi luôn trao đổi, thảo luận đi đến thống nhất việc thiết kế đề kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn 11 sao cho phù hợp với chương trình, sách giáo khoa và chuẩn kiến thức với đối tượng học sinh từng lớp cấp học giáo dục thường xuyên.
Trên lĩnh vực giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã được đề cập và bàn rất sôi nổi từ nhiều thập kỷ qua. Các nhà nghiên cứu phương pháp dạy học đã không ngừng nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu mới của lý luận dạy học hiện đại để đưa nền giáo dục của nước ta tiếp cận, đáp ứng được nhu cầu tiếp thu kiến thức nhân loại của con người Việt Nam trong xu thế hội nhập toàn cầu. 
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được thống nhất theo tư tưởng tích cực hoá hoạt động của học sinh dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên: học sinh tự giác chủ động tìm tòi, phát hiện kiến thức và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức, kỹ năng đã thu nhận qua đọc hiểu văn bản vào làm các bài kiểm tra. Một trong những biểu hiện quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới kiểm tra, dánh giá bằng nhiều hình thức khác nhau, với độ phân hoá cao và có thể coi kiểm tra, đánh giá như một biện pháp kích thích hứng thú học tập cho tất cả các đối tượng học sinh, giúp các em có thể tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục những sai sót, hạn chế (nếu có) trong quá trình tìm hiểu, lĩnh hội và vận dụng kiến thức, kỹ năng bộ môn.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
* Về phía giáo viên:
Vì tiếp cận với đối tượng học sinh hạn chế về chất lượng đầu vào nên khi ra đề thường là những câu hỏi dễ, chung chung, thiếu điều kiện để đánh giá mức độ tiếp nhận kiến thức ở học sinh.
Ra đề kiểu truyền thống giáo viên cũng khó phân loại học sinh, khó tìm phương pháp dạy cho phù hợp, ra đề kiểm tra theo tùy hứng.
* Về phía học sinh:
Do hạn chế về năng lực đọc hiểu, cách xác định đề, cách viết bài nên càng khó khăn khi tiếp cận với dạng đề truyền thống ( đề có một câu) phạm vi kiến thức lại rộng dẫn tới việc học trò khó xác định trọng tâm bài làm, viết lan man, chất lượng điểm số ở mỗi bài kiểm tra không thay đổi. 
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 
Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy của bản thân ở môn học Ngữ văn lớp 11, tôi đã vận dụng linh hoạt việc đổi mới kiểm tra, đánh giá dưới nhiều hình thức khác nhau: kiểu bài tự luận, kiểu bài trắc nghiệm, kiểu bài kết hợp tự luận và trắc nghiệm, bài vấn đáp, kiểu mẫu đánh giá định kỳ, đánh giá qua quan sát, trao đổi, thảo luận, đánh giá qua tự học (soạn bài, làm bài tập, đọc thêm, kiếm tìm tư liệu, tích luỹ tư liệu, sáng tạo đồ dùng học tập) và còn đánh giá qua hoạt động ngoại khóa: diễn kịch, hội thảo hoặc thi sáng tác
Trong quá trình thực hiện chương trình trung học phổ thông mới tôi đã có những nghiên cứu trong đổi mới kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ văn 11, điều đó được thể hiện qua hệ thống câu hỏi bài tập rất phong phú, đa dạng trong sách giáo khoa và trong những bài kiểm tra kết quả học tập ở từng học kỳ cho học sinh. Các đề kiểm tra luôn có sự cải tiến cả về nội dung và hình thức. 
* Về hình thức: Đề có 2 phần: Phần đọc hiểu và phần tự luận.
* Về nội dung: 
+ Phần 1 - Phần đọc hiểu: 
- Cho một văn bản( Một đoạn thơ, một đoạn văn xuôi), yêu cầu học sinh đọc rồi trả lời các câu hỏi.
Mục đích, yêu cầu: Những câu hỏi này được dùng để kiểm tra, luyện tập kỹ năng nghe, đọc, nói, viết và năng lực đọc hiểu văn bản và sử dụng các kiến thức, kỹ năng sử dụng từ ngữ, ngữ pháp cho học sinh trên phạm vi bao quát những kiến thức các em đã được học trong chương trình, mỗi câu hỏi có độ khó dần, nhằm vào những mạch kiến thức khác nhau nên có thể hạn chế được thói học tủ, học lệch ở học sinh.
+ Phần 2 - Phần tự luận:
Dựa và phần văn bản ở phần đọc - hiểu để tìm chủ đề hoặc thông điệp cuộc sống rồi dựa vào thông tin đó để viết phần văn bản tự luận cho câu 2,0 điểm dưới hình thức một đoạn văn khoảng 100 đến 200 chữ.
Dựa vào kiến thức đọc văn trong tiết học chính khóa giáo viên ra đề nghị luận văn học.
Mục đích, yêu cầu: Ra đề để học sinh thu thập thông tin kiến thức trong các tác phẩm để tạo lập văn bản ở bốn mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng cấp độ thấp, vận dụng cấp độ cao
* Quy trình của kiểm tra, đánh giá: Gồm 3 bài:
Bài kiểm tra thường xuyên bằng đề và hướng dẫn chấm bài làm thời gian 15 phút.
Bài kiểm tra định kỳ bằng đề và hướng dẫn chấm bài làm thời gian 90 phút.
Bài kiểm tra định kỳ bằng đề và hướng dẫn chấm bài làm thời gian 90 phút.
Cụ thể việc kiểm tra đánh giá như sau:
KIỂM TRA 15 PHÚT (Bài số 2)
MÔN: NGỮ VĂN - LỚP 11 - NĂM HỌC: 2017-2018
Thời gian: 15 phút (Không kể thời gian giao đề)
A. MỤC TIÊU ĐỀ KIỂM TRA:
Thu thập thông tin để đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng theo tiến độ chương trình lớp 11 học kì I.
Đánh giá việc học sinh vận dụng kiến thức kĩ năng đã học; biết cách làm phần đọc hiểu văn bản 
B. HÌNH THỨC KIỂM TRA: 
Hình thức: tự luận.
Cách tổ chức kiểm tra: Học sinh làm bài kiểm tra tự luận trong thời gian 15 phút.
C. THIẾT LẬP MA TRẬN: 
 Mức độ
Chủ đề
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng cấp độ thấp
Vận dụng cấp độ cao
Cộng
Đọc hiểu:
Nhận biết được các yêu cầu của đề bài.
Hiểu được nội dung của văn bản.
Trả lời đúng, đầy đủ các yêu cầu của đề.
Biết cách viết một đoạn văn theo chủ đề.
Số câu: 1
Tỉ lệ: 100%
1.0 điểm = 10 %
2.0 điểm = 20%
2.0 điểm = 20%
5.0 điểm = 50%
(100%
= 10 điểm)
D. BIÊN SOẠN ĐỀ KIỂM TRA:
Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu sau:
Ông Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh về trại nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây ta cho chữ. Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. xem phụ lục (1)
	 (Trích “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân)
Câu 1: (2,0 điểm)
	Là người có tài viết chữ đẹp nhưng Huấn Cao mới chỉ cho chữ những ai? Vì sao lại như vậy?
Câu 2: (2,0 điểm)
Tại sao Huấn Cao lại vui vẻ nhận lời cho chữ quản ngục? Điều đó nói lên vẻ đẹp nào trong tâm hồn của Huấn Cao?
Câu 3: (6,0 điểm)
	“Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” là câu nói của nhân vật nào nói đến nhân vật nào trong truyện? Anh/chị cảm nhận gì về lối sống của nhân vật đã nói câu ấy? Hãy viết một đoạn văn ngắn trình bày những suy nghĩ của mình.
E. ĐÁP ÁN:
Câu
Yêu cầu nội dung
Điểm
1
2
3
Huấn Cao mới chỉ cho chữ “ba người bạn thân” à Huấn Cao là người có tâm hồn trong sáng, cao đẹp; trọng nghĩa: “không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối”.
Do cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài và hiểu ra cái sở thích cao quý của quản ngục, Huấn Cao đã nhận lời cho chữ à Huấn Cao chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và yêu quý cái đẹp. Đó là lời của Huấn Cao nói đến quản ngục à Câu nói bộc lộ lối sống của Huấn Cao: sống là phải xứng đáng với những tấm lòng. Phụ tấm lòng cao đẹp của người khác là không thể tha thứ.
Viết đoạn văn khoảng 5-7 dòng nêu cảm nhận của bản thân về lối sống trên của Huấn Cao.
2.0
2.0
6.0
BÀI KIỂM TRA ĐỊNH KỲ
Ngày soạn: 5.9.2017
BÀI VIẾT SỐ 1 (Tiết 4,5-PPCT-Nghị luận xã hội)
Thời gian làm bài: 90 phút
I. MỤC TIÊU ĐỀ KIỂM TRA:
Thu thập thông tin để đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng trong đầu chương trình Ngữ văn lớp 11.
Thực hành viết bài văn nghị luận một vấn đề có nội dung sát thực tế
Viết được bài văn bộc lộ những cảm nghĩ chân thực của bản thân về một đề tài gần gũi quen thuộc trong đời sống hoặc về một tác phẩm văn học.
II. HÌNH THỨC KIỂM TRA:
- Hình thức : Tự luận
- Cách tổ chức kiểm tra: Cho học sinh làm bài kiểm tra tự luận trong 90 phút.
III. THIẾT LẬP MA TRẬN:
KHUNG MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA.
 Mức độ
Chủ đề
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng thấp
Vận dụng cao
Cộng
Làm văn.
Nghị luận xã hội
Xác định được đề, định hướng cho bài viết, giới hạn vấn đề cần nghị luận
Vận dụng kiến thức từ cuộc sống để lí giải vấn đề nghị luận chính
Kết cấu, bố cục của bài viết phải rõ ràng
Vận dụng các thao tác lập luận tốt, biết mở rộng vấn đề, liên hệ, rút ra bài học
Số câu: 1
Tỉ lệ: 100%
20%x10 điểm=2,0 điểm
30%x10 điểm=3,0 điểm
40%x10 điểm =4,0 điểm
10%x10 điểm=1,0 điểm
100% =10.0
điểm
Tổng cộng
2.0 điểm
3.0 điểm
4.0 điểm
1.0 điểm
10 điểm
IV. BIÊN SOẠN ĐỀ KIỂM TRA:
Phần đọc - hiểu: (2.0 điểm)
 Trong bài hát “Một đời người một rừng cây” của nhạc sĩ Trần Long Ẩn có đoạn:
“ Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai?
Ai cũng một thời trẻ trai, cũng từng nghĩ về đời mình
 Phải đâu may nhờ rủi chịu, phải đâu trong đục cũng đành.
Phải không anh?
Phải không em?" xem phụ lục (2)
1. Đoạn thơ đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào? (0.5 điểm)
2. Nội dung của những lời hát trên là gì? (1,5 điểm)
Phần tự luận: ( 8,0 điểm)
Hãy viết 1 bài nghị luận khoảng 600 chữ trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý nghĩa được gợi ra từ những lời hát trên. (8.0đ)
V. HƯỚNG DẪN CHẤM:
1. Yêu cầu về kĩ năng:
HS biết cách làm một bài văn nghị luận xã hội về một vấn đề trong đời sống, kết cấu chặt chẽ, bố cục ba phần, không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, diễn đạt.
2. Yêu cầu về kiến thức.
HS có thể trình bày theo nhiều cách nhưng ở mỗi câu phải đảm bảo các nội dung sau:
Câu
Yêu cầu về nội dung
Điểm
1
Nghệ thuật: Lặp cấu trúc câu: “Ai cũng”, “phải đâu”, “phải không”;
Điệp ngữ: “Ai cũng”;
Câu hỏi tu từ
 Phải không anh?
 Phải không em?
Nội dung: Là lời khẳng định, lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết về ý thức trách nhiệm của mỗi người trong cuộc sống.
0,5
1.5
2
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo các nội dung sau:
 Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận.
1.0
Thân bài:
1. Giải thích ý nghĩa lời bài hát: 
- Có ý nghĩa như 1 lời nhắn nhủ tha thiết về lối sống trách nhiệm của con người trong cuộc sống
- Bàn luận về quan niệm sống tích cực, đầy sức thuyết phục được gợi lên từ bài bài hát: biết gánh vác, biết chia sẻ, không lẩn tránh, không cam chịu nhẫn nhục, không an phận thủ thường; thậm chí biết chấp nhận và từ đó biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống của con người
2. Phân tích - chứng minh:
- Trong cuộc sống, có những con người luôn biết sống vì người khác, không ngại khó, ngại khổ, biết vì lợi ích của cộng đồng, biết vì mọi người, sống có trách nhiệm Đó là những con người có nhân cách cao quý, có cuộc sống đáng trân trọng; (dẫn chứng: Hồ Chí Minh, anh Nguyễn Văn Trỗi sẵn sàng hi sinh hạnh phúc cá nhân vì lợi ích cách mạng, Đặng Thùy Trâm tự nguyện xa Hà Nội vào nơi ác liệt của chiến trường; thời bình : những chiến sĩ Trường Sa, nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa).
- Bên cạnh đó cũng có những con người luôn sống vị kỉ, cá nhân, nhỏ nhen, luôn tránh né, đùn đẩy khó khăn cho người khác, sống vụ lợi, lợi dụng sự giúp đỡ của người khác để thu vén cho bản thân Lối sống đó rồi sẽ bị xã hội đào thải. ( dẫn chứng: loại người Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau; những kẻ cơ hội, đục nước béo cò; đó là một số thanh niên chỉ biết ăn chơi, hưởng thụ, thõa mãn những thú vui tầm thường trụy lạc như đua xe bất chấp gieo tai họa cho người khác, đốt thời gian, sức khỏe, tiền bạc nơi vũ trường, , luôn đòi hỏi ở người khác vì mình, vô trách nhiệm với gia đình, xã hội và cả với bản thân).
- Và cũng có những con người sống yếu đuối, thụ động, cam chịu, luôn đổ lỗi cho số phận, đầu hàng những thử thách khó khăn, không đủ ý chí và nghị lực, chỉ biết bi lụy, cúi đầu trước nghịch cảnh( dẫn chứng: những kẻ sa ngã, trượt dài trong tha hóa và phạm tội lại đổ lỗi cho hoàn cảnh, số phận)
 →Lời bài hát là những lời nhắn nhủ thiết tha gởi đến mọi người, nhất là đối với lớp trẻ, một thông điệp về sống đẹp đầy sức thuyết phục. Nó chứa đựng một quan niệm nhân sinh tích cực, đáng để cho mỗi chúng ta xem như kim chỉ nam trong rèn luyện và tu dưỡng bản thân để có một cuộc sống chân chính
- Từ quan niệm sống đẹp đó phê phán lối sống ích kỉ, nhỏ nhen, vô trách nhiệm, thụ động, yếu hèn của 1 bộ phận cá nhân trong xã hội
- Liên hệ: Trong cuộc sống ngày nay, thanh nhiên càng cần chăm chỉ, năng động, sáng tạo biết gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của nhân dân, Tổ quốc, biết chọn cho mình lối sống đẹp và cao quý, tránh xa lối sống tầm thường, thấp hèn.
3. Bài học:
* Nhận thức:
- Hiểu rằng cuộc sống chỉ thật sự có ý nghĩa, nhân cách con người sẽ thật sự cao quý khi biết chọn cho mình lối sống đẹp và cao quý, cự tuyệt lối sống tầm thường, thấp hèn.
- Liên hệ : Nếu là con chim, chiếc lá
 Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
 Lẽ nào vay mà không có trả
 Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình. 
 ( Tố Hữu) Xem phụ lục (3)
* Hành động:
Để có thể sống đẹp như lời bài hát gợi ý, thanh niên cần sống có lí tưởng cao đẹp, có ý thức bồi dưỡng lòng nhân ái, vị tha, phải học tập, rèn luyện bản thân ý chí, nghị lực, những năng lực và kĩ năng sống, phải năng động, sáng tạo, sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội.
1.0
2,5
2,5
3
 Kết bài: Khái quát, đánh giá vấn đề.
1.0
Lưu ý: Giáo viên có thể linh hoạt khi chấm bài, ưu tiên những bài viết có sự sáng tạo.
ĐỀ THI KIỂM TRA HỌC KÌ I 
NĂM HỌC 2017 - 2018
MÔN NGỮ VĂN - LỚP 11
Thời gian: 90 phút
I. MỤC TIÊU ĐỀ KIỂM TRA 
Thu thập thông tin để đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng trong chương trình học kì 1, môn Ngữ văn lớp 11.
Đề kiểm tra bao quát một số nội dung kiến thức, kĩ năng trọng tâm của chương trình Ngữ văn 11 học kì 1 theo các nội dung Làm văn, với mục đích đánh giá năng lực đọc - hiểu và tạo lập văn bản của HS thông qua hình thức kiểm tra tự luận.
Cụ thể, đề kiểm tra nhằm đánh giá trình độ học sinh theo các chuẩn sau:
Đọc văn: Nhớ và hiểu được những kiến thức cơ bản về tác phẩm
Làm văn:
+ Nắm vững thao tác lập luận.
+ Phân tích được một khía cạnh nội dung của tác phẩm.
+ Phát biểu được cảm nghĩ, cảm nhận về giá trị của một tác phẩm
văn học hiện đại.
II. HÌNH THỨC ĐỀ KIỂM TRA
 Hình thức : tự luận.
 Cách tổ chức kiểm tra: học sinh làm bài trong 90 phút 
III. MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA HỌC KỲ I – MÔN NGỮ VĂN 11
 Mức độ
Chủ đề
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng cấp độ thấp
Vận dụng cấp độ cao
Cộng
Chủ đề 1: Đọc hiểu văn bản.
Nhận biết tên tác giả và tác phẩm.
Hiểu được ý nghĩa nội dung của văn bản, từ đó cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của tác giả
Phân tích được tác dụng của cách gieo vần của tác giả
Số câu: 3
Tỉ lệ: 30%
(5% = 0.5 điểm)
(15% = 1.5 điểm)
(10% = 1.0 điểm)
30%= 3.0 điểm
Làm văn:Viết bài văn nghị luận.
a. NLXH,về TTĐL
Xác định đúng kiểu bài, đảm bảo bố cục của một đoạn văn nghị luận
Biết cách làm dạng bài NLXH
Biết phân tích vấn đề nghị luận
Liên hệ, rút ra bài học trong thực tiễn
Số câu: 1
Tỉ lệ: 20%
(5% = 0.5 điểm)
(5% = 0.5 điểm)
(5% = 0.5 điểm)
(5% = 0.5 điểm)
20% = 2.0 điểm
b. NLVH
Nghị luận văn học - một phần trong đoạn trích (Hạnh phúc một tang gia – Số đỏ: VTP)
- Xác định đúng yêu cầu của đề, đảm bảo bố cục.
- Nắm được những yêu cầu của bài nghị luận văn học, hiểu khái quát nội dung đoạn trích.
- Cảm nhận được những nét cơ bản về nội dung và nghệ thuật đoạn trích.
- Kết hợp một cách tổng hợp những kiến thức về Tiếng Việt( các biện pháp tu từ, từ loại),
- Thể hiện năng lực cảm thụ, lí giải các vấn đề trong trích đoạn văn học, đưa ra những ý kiến đánh giá của bản thân
Số câu: 1
Tỉ lệ: 50%
(10% = 1.0 điểm)
15%
(1.5 điểm)
20%
(2.0 điểm)
(5% = 0.5 điểm)
50% (5.0 điểm)
Tổng cộng
20%
(2.0điểm)
 35% 
(3.5 điểm)
35% 
 (3.5 điểm)
10%
(1.0 điểm)
100% = 
10 điểm
IV. BIÊN SOẠN ĐỀ TH

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_vai_giai_phap_ve_doi_moi_kiem_tra_danh_gia_hoc_sinh.doc