SKKN Một số giải pháp nâng cao năng lực phản biện cho học sinh qua dạy học văn bản Chí Phèo – Ngữ văn 11

SKKN Một số giải pháp nâng cao năng lực phản biện cho học sinh qua dạy học văn bản Chí Phèo – Ngữ văn 11

Hiện nay, các nước tiến bộ trên thế giới đều chú trọng xây dựng một nền giáo dục thực sự dân chủ, đào tạo những con người toàn diện, năng động, sáng tạo, chủ động, tự tin, có khả năng nhạy bén, linh hoạt ứng biến và thuyết phục người khác bằng khả năng tư duy và lập luận của mình. Vậy nên việc rèn luyện và phát huy khả năng tư duy phản biện của học sinh cần thiết hơn bao giờ hết. Trang bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có nghĩa là trang bị cho các em khát vọng đổi mới và khát vọng thành công hơn trong cuộc sống . [4]

Để đáp ứng xu thế hội nhập quốc tế, nền giáo dục Việt Nam những năm gần đây cũng đã chú trọng tới vấn đề này. Tại Thông tư số 13/2012/TT- BGDĐT, ngày 06/4/2012, chương II, điều 7, mục 2c có viết: “Hướng dẫn học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo và biết phản biện”. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá theo dạng đề mở cũng đã minh chứng rằng, giáo dục của chúng ta đang hướng tới phát triển kĩ năng phản biện cho học sinh.

Môn Văn là môn học đặc thù, vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Việc cảm nhận và đánh giá một vấn đề văn học cũng thay đổi theo thời gian và thị hiếu của mỗi người, mỗi thời đại. Có những vấn đề hôm nay là đúng nhưng ngày sau chưa hẳn thế. Có những vấn đề ngày trước bị phê phán kịch liệt nhưng ngày nay người ta lại đồng tình, đồng cảm. Một vấn đề có thể có nhiều cách hiểu, gây tranh cãi nhiều thập kỉ mà không tìm ra chân lí [4]. Hơn thế, văn học cũng tuân thủ theo quy tắc riêng của nó. Không phải những tác phẩm ra đời sau có thể phủ nhận hoặc đem lại nhiều giá trị mới mẻ hơn những tác phẩm ra đời trước. Thực tế, người đọc sẽ luôn tìm thấy những giá trị mới mẻ của một tác phẩm văn học (dù là cũ hay mới) nếu họ có một cách nhìn mới, một điểm nhìn mới. Đó cũng là nguyên tắc giúp một tác phẩm văn học hấp dẫn và bất tử trong lòng bạn đọc muôn đời. Vì vậy, trong học văn, rất cần có cái nhìn mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. HS như những bạn đọc sáng tạo, bằng tư duy và khả năng lập luận của mình, sẽ đưa ra được chân lí mới mẻ cho vấn đề. Đây chính là lợi thế để rèn luyện năng lực phản biện của học sinh trong các giờ đọc hiểu văn bản văn học ở trường THPT.

 

doc 23 trang thuychi01 26843
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp nâng cao năng lực phản biện cho học sinh qua dạy học văn bản Chí Phèo – Ngữ văn 11", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài  
Hiện nay, các nước tiến bộ trên thế giới đều chú trọng xây dựng một nền giáo dục thực sự dân chủ, đào tạo những con người toàn diện, năng động, sáng tạo, chủ động, tự tin, có khả năng nhạy bén, linh hoạt ứng biến và thuyết phục người khác bằng khả năng tư duy và lập luận của mình. Vậy nên việc rèn luyện và phát huy khả năng tư duy phản biện của học sinh cần thiết hơn bao giờ hết. Trang bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có nghĩa là trang bị cho các em khát vọng đổi mới và khát vọng thành công hơn trong cuộc sống . [4]
Để đáp ứng xu thế hội nhập quốc tế, nền giáo dục Việt Nam những năm gần đây cũng đã chú trọng tới vấn đề này. Tại Thông tư số 13/2012/TT- BGDĐT, ngày 06/4/2012, chương II, điều 7, mục 2c có viết: “Hướng dẫn học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo và biết phản biện”. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá theo dạng đề mở cũng đã minh chứng rằng, giáo dục của chúng ta đang hướng tới phát triển kĩ năng phản biện cho học sinh. 
Môn Văn là môn học đặc thù, vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Việc cảm nhận và đánh giá một vấn đề văn học cũng thay đổi theo thời gian và thị hiếu của mỗi người, mỗi thời đại. Có những vấn đề hôm nay là đúng nhưng ngày sau chưa hẳn thế. Có những vấn đề ngày trước bị phê phán kịch liệt nhưng ngày nay người ta lại đồng tình, đồng cảm. Một vấn đề có thể có nhiều cách hiểu, gây tranh cãi nhiều thập kỉ mà không tìm ra chân lí [4]. Hơn thế, văn học cũng tuân thủ theo quy tắc riêng của nó. Không phải những tác phẩm ra đời sau có thể phủ nhận hoặc đem lại nhiều giá trị mới mẻ hơn những tác phẩm ra đời trước. Thực tế, người đọc sẽ luôn tìm thấy những giá trị mới mẻ của một tác phẩm văn học (dù là cũ hay mới) nếu họ có một cách nhìn mới, một điểm nhìn mới. Đó cũng là nguyên tắc giúp một tác phẩm văn học hấp dẫn và bất tử trong lòng bạn đọc muôn đời. Vì vậy, trong học văn, rất cần có cái nhìn mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. HS như những bạn đọc sáng tạo, bằng tư duy và khả năng lập luận của mình, sẽ đưa ra được chân lí mới mẻ cho vấn đề. Đây chính là lợi thế để rèn luyện năng lực phản biện của học sinh trong các giờ đọc hiểu văn bản văn học ở trường THPT. 
Nhưng lâu nay, chúng ta vẫn đang dạy học Văn một chiều. Nghĩa là vẫn  “bắt” học sinh cảm nhận theo cách chúng ta đã hiểu. Trước những lí lẽ mới lạ, chúng ta vội vàng
phủ nhận hoặc nặng nề hơn là “kết tội” học sinh. Chính điều đó khiến cho môn Ngữ Văn ngày càng trở nên nhạt nhẽo trong tâm hồn các em. Và quan trọng hơn là chúng ta không kích thích được nhu cầu tự bộc lộ mình, không phát triển được năng lực tư duy phản biện cần có của học sinh hiện nay. 
Vì những lí do trên nên chúng tôi lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao năng lực phản biện cho học sinh qua dạy học văn bản Chí Phèo – Ngữ văn 11”. Phát huy năng lực phản biện cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản văn học không phải là vấn đề bây giờ mới được bàn đến song hi vọng với cái nhìn và phạm vi ứng dụng cụ thể cho bài học về văn bản “Chí Phèo”, chúng tôi sẽ giúp giáo viên và học sinh đáp ứng những đòi hỏi thiết thực của giáo dục hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
 Đề tài nhằm tìm cách phát huy tối đa năng lực phản biện  của người dạy và người học trong các giờ đọc hiểu văn bản văn học. Đồng thời tạo ra được một không khí dạy học dân chủ, thoải mái, góp phần làm nên sức hấp dẫn cho việc chiếm lĩnh tri thức văn học trong trường phổ thông.
3. Đối tượng nghiên cứu
Để nâng cao năng lực cho học sinh qua dạy học văn, chúng tôi chỉ tập trung vào các tiết dạy học văn bản “Chí Phèo” - của Nam Cao trong chương trình Ngữ văn 11.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu chính
- Phương pháp thể nghiệm.
- Phương pháp  khảo sát, thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau:
Bước 1: Tiến hành khảo sát  năng lực phản biện và hứng thú học tập môn Ngữ Văn của học sinh THPT ở một số trường.
Bước 2: Dạy thể nghiệm theo hướng phát triển tư duy phản biện ở một số lớp.
Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết học.
Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận 
1.1. Phản biện và năng lực phản biện
1.1.1. Phản biện
Phản biện (Opponency) là dùng lí lẽ và dẫn chứng để lập luận chống lại một ý kiến, quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá, hành động, việc làm nhằm thuyết phục người nghe nhìn nhận, đánh giá vấn đề theo cách khác có sức thuyết phục hơn, đúng hơn. [5]
Phản biện được xây dựng trên tinh thần đối thoại, do đó, có tính tích cực và xây dựng. Mục tiêu đầu tiên của phản biện không phải là bác bỏ (như biện bác) hay đả kích (như chỉ trích) hay tìm khuyết điểm (như trong phê phán) hoặc cả khuyết điểm lẫn ưu điểm (như trong phê bình). Mục tiêu chính của phản biện là đề xuất một cách nhìn hay một góc nhìn khác để người bị phản biện phải cố gắng chứng minh quan điểm của mình là đúng đắn nhất và để mọi người có thể cân nhắc lựa chọn cái tối ưu. Đồng thời buộc đối tượng bị phản biện phải tăng cường sự thuyết phục cho các quan điểm của họ. Họ phải chứng minh là họ đúng hơn.[2]
1.1.2. Tư duy phản biện 
Tư duy phản biện hay là tư duy phân tích là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. 
Muốn có phản biện trước hết phải có tư duy phản biện. Tư duy phản biện thể hiện tính tích cực của chủ thể.
Tư duy phản biện không đơn thuần chỉ là những ý kiến “phản biện” như tên gọi. Những hoạt động trong quá trình tư duy phản biện thường bao gồm: nêu quan điểm và bảo vệ quan điểm, sử dụng những bằng chứng phù hợp, tạo mối liên hệ giữa các ý, đánh giá, phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh, chỉ ra khó khăn và cách khắc phục. Một quá trình tư duy phản biện được coi là tốt khi đạt được những tiêu chí: rõ ràng, mạch lạc, chính xác, thống nhất, ngắn gọn, phù hợp, có những giải thích và lý do phù hợp, khách quan, toàn diện và có chiều sâu. [5]
1.1.3. Năng lực phản biện 
Năng lực phản biện là năng lực nắm bắt, khai minh chân lý; chỉ ra các ngụy biện/ ngụy tạo, cảnh báo các ngộ nhận, các nguy cơ (nếu có). Nó làm xuất hiện nhu 
cầu phản tỉnh, thôi thúc nhận thức lại các đối tượng/ vấn đề trong chuyên môn hoặc trong sách lược, chiến lược liên quan đến quốc kế, dân sinh, liên quan đến toàn xã hội. Suy cho cùng, năng lực phản biện, chủ yếu là năng lực phát hiện những điểm bất cập/ bất hợp lý, bất khả thi, bất khả dụng và cất lên tiếng nói cảnh báo có ý nghĩa trên cơ sở lật trở vấn đề, quan sát đối tượng từ nhiều phía (nhất là phía nghịch, mặt trái) để có thể nhận thức lại một cách đúng đắn hơn. Phản biện là hành động thúc đẩy tái nhận thức, điều chỉnh thái độ, tái kiến tạo giải pháp cho thích đáng, hiệu quả. [1]
Từ năng lực phản biện sẽ giúp  học sinh hình thành tư duy phản biện. Tư duy phản biện có tính chủ động, do đó khi  một người có tư duy phản biện họ sẽ tự nảy ra câu hỏi, tự tìm các thông tin liên quan, quan sát nhìn nhận, đánh giá vấn đề hơn là học hỏi thụ động từ người khác. Như vậy việc rèn luyện tư duy phản biện sẽ kích thích tính chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo hứng thú mới cho họ trong quá trình tìm kiếm, chiếm lĩnh tri thức.
1.2. Ý nghĩa của rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh
Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh là giúp học sinh vượt ra khỏi cách suy nghĩ theo khuôn mẫu, thói quen, truyền thống có sẵn đã định hình từ bậc THCS, cố gắng tìm tòi những cái mới trong khoa học, thoát ra  những rào cản của lối mòn tư duy, kích thích hứng thú học tập của học sinh các em. 
Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh cũng chính là rèn luyện cho các em khả năng tư duy độc lập, tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tìm hiểu kiến thức. Nó giúp các em tránh được tình trạng đồng thuận dễ dãi, hời hợt xuôi chiều trong khoa học, ngăn chặn tình trạng học vẹt, đọc vẹt.
Rèn luyện năng lực phản biện giúp học sinh có ý thức rõ ràng hơn trong việc lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác trong lúc tranh luận. Đồng thời đây cũng là cơ hội học sinh cập nhật, chắt lọc được thông tin cần thiết, có giá trị, bổ ích để bù đắp những lỗ hổng kiến thức cho bản thân hoặc xác lập mục tiêu học tập mới.
Rèn luyện năng lực phản biện còn giúp học sinh hoàn thiện thêm kĩ năng nói trước đám đông, kĩ năng thu hút người nghe, kĩ năng trình bày vấn đề khoa học... Đồng thời góp phần đào tạo những con người năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống hiện đại.
Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh còn giúp các giáo viên thu được những thông tin phản hồi hữu ích để điều chỉnh phương pháp dạy học của mình. Thông qua việc phản biện của trò, người dạy sẽ phân loại được đối tượng. Qua đó có sự điều chỉnh dạy học phù hợp cho mỗi đối tượng khác nhau.
Phản biện trong dạy học giúp cho cả thầy và trò có cái nhìn khách quan, công tâm về chân lí của mọi vấn đề. Phản biện trong dạy học khẳng định tính dân chủ, tích cực, tiến bộ của một nền giáo dục. Đặt trong bối cảnh hiện nay, phản biện trong dạy học còn góp phần quan trọng vào phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thuận lợi
2.1.1 Về phía học sinh
Học sinh THPT ngày nay đã có sự phát triển khá toàn diện về trí tuệ. Các em có cách nhìn nhận vấn đề khá mới mẻ, dù nhiều khi “hồn nhiên”, nhưng rất thú vị. Trong quá trình giảng dạy Ngữ văn tại trường THPT Đặng Thai Mai, tôi phát hiện học sinh của mình cũng có khả năng tư duy độc lập, có nhu cầu bộc lộ mình và có ý thức bảo vệ quan điểm của mình.
 Chẳng hạn, trong giờ đọc – hiểu truyện cổ tích “Tấm Cám”, khi được hỏi về cái kết của truyện, chúng tôi đã nhận được nhiều ý kiến khác nhau:
Có học sinh khẳng định: “Hành động trả thù của Tấm là độc ác, dã man, không phù hợp với truyền thống đạo lí của dân tộc. Cần lên án và phê phán”. Em HS còn mạnh dạn đề xuất “Không nên đưa tác phẩm vào chương trình. Vì như vậy, vô tình đã cổ súy cho những hành động độc ác và hướng dẫn các em thực hiện hành vi tội ác”. 
Nhưng có học sinh lại phản biện lại: “Hành động của Tấm là thỏa đáng, đúng quy luật cuộc sống “có áp bức có đấu tranh” và nó thể hiện được tinh thần đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta trước thế lực tàn bạo. Nếu như hành vi tội ác của mẹ con nhà Cám chỉ dừng lại ở chặng thứ nhất thì có thể xem cách trả thù của Tấm là độc ác. Nhưng rõ ràng, mẹ con Cám đã tìm mọi cách hòng tiêu diệt Tấm đến cùng, ngay cả khi Tấm không trong hình hài của con người. Không đấu tranh loại trừ cái Ác, Tấm sẽ tiếp tục bị cái Ác tiêu diệt”.
Thậm chí có HS còn có những liên hệ với thực tế khá rành rọt, rõ ràng: Hành động trả thù của Tấm là hợp lí. Bởi nếu không trả thù, không chống trả lại hành vi tội ác của kẻ thù, Tấm tiếp tục mẹ con nhà Cám hãm hại. Cũng như dân tộc ta, không thể nhân nhượng hết lần này đến lần khác trước tội ác của bọn bán nước và cướp nước được. Vì càng nhân nhượng chúng càng lấn tới. Càng nhân nhượng nguy cơ mất nước càng cao.
 Hay trong giờ đọc hiểu văn bản truyền thuyết “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”, khi cho học sinh cảm nhận đánh giá về các nhân vật, tôi nhận được những luồng thông tin khác nhau. 
Với nhân vật An Dương Vương, có học sinh thì cho rằng “An Dương Vương là một vị vua có công lớn đối với đất nước, đáng ngợi ca”; có học sinh lại khẳng định: “Vua An Dương Vương có công lớn đối với đất nước nhưng ông cũng đáng lên án phê phán vì chính ông là người đã gây ra cảnh ngộ lầm than, loạn li của đất nước, của nhân dân. Ông là vua nhưng không bảo vệ được đất nước, không bảo vệ được nhân dân. Cũng như làm cha mà không bảo vệ được gia đình và vợ con của mình vậy.”. 
Với nhân vật Mị Châu, có học sinh nói “Mị Châu đáng thương vì nàng quá ngây thơ, trong sáng, nàng chỉ là nạn nhân trong âm mưu thâm sâu của cha con Triệu Đà”; học sinh khác lại cho rằng: “Mị Châu đáng trách vì nàng là công chúa – con vua – nhưng lại không có tinh thần cảnh giác trước kẻ thù dẫn đến bi kịch nước mất nhà tan”, v,v
Rõ ràng những ý kiến đó của học sinh cho thấy, các em luôn có nhu cầu và khả năng thể hiện quan điểm, cách nhìn nhận của mình về một vấn đề.
2.1.2. Về chương trình 
Chương trình môn Ngữ văn THPT được xây dựng trên tinh thần mở: phong phú về nội dung, thể loại và kiểu bài học. Đặc biệt là sự bổ sung của kiểu bài Nghị luận xã hội, kiểu bài không chỉ yêu cầu học sinh có kiến thức về xã hội mà còn phải có quan điểm, cách nhìn nhận đánh giá về vấn đề xã hội.
Tinh thần mở của chương trình còn thể hiện ở việc đổi mới kiểm tra, đánh giá của môn Ngữ văn. Học sinh được thoải mái bộc lộ quan điểm riêng của mình mà không sợ “lệch” ý thầy cô. Tiêu chí đúng, sai được thay thế bằng lập luận có thuyết phục hay không. Đây chính là cơ hội để học sinh được phát huy khả năng học tập, năng lực hiểu biết và lập luận của chính mình.
Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào tạo con người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc thì việc phát huy khả năng phản biện của HS cần thiết hơn bao giờ hết. Trang bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có nghĩa là trang bị cho các em khát vọng đổi mới và khát vọng thành công trong cuộc sống.
2.2 Khó khăn
2.2.1. Về phía học sinh
Tuy nhiên, thực tế, việc học sinh chủ động và thường xuyên trình bày quan điểm, suy nghĩ và nhận thức của mình cũng như bảo vệ quan điểm ý kiến của mình là rất hạn chế và không phổ biến.
Qua quan sát trong các tiết dạy của bản thân và trao đổi với các đồng nghiệp, chúng tôi nhận thấy các em học sinh luôn luôn học tập theo cách chỉ tiếp thu những gì mà giáo viên truyền thụ theo kiểu một chiều. Học sinh ít khi thắc mắc hoặc trình bày chính kiến của mình trước những vấn đề mà giáo viên truyền thụ hay đặt ra.
Những nguyên nhân của tình trạng này có thể là do giáo viên ít có những câu hỏi kích thích tư duy của học sinh, học sinh lười suy nghĩ, không động não vì không có động cơ học tập rõ ràng, học sinh có thắc mắc, nêu ý kiến nhưng giáo viên không giải đáp hoặc giải đáp không thỏa đáng, bài giảng của giáo viên chưa phong phú hấp dẫn khiến cho học sinh không có hứng thú học tập...
2.2.2. Về phía giáo viên
Một bộ phận giáo viên Ngữ văn trường chúng tôi hiện nay chưa sẵn sàng chấp nhận học sinh phản biện. Một phần vì uy tín, danh dự, một phần vì năng lực chuyên môn hạn chế,Thậm chí đã có giáo viên coi việc phản biện của học sinh là hành vi vô lễ (cãi lại). 
Hơn thế, lối dạy truyền thụ vẫn đang ăn sâu trong tâm lí của một bộ phận không nhỏ giáo viên Ngữ văn trường tôi. Phần lớn thời gian của tiết học, giáo viên thao thao thuyết giảng. Rất hay. Nghe rất hấp dẫn. Nhưng kết quả học sinh thu lại chẳng đáng là bao so với những gì giáo viên nói.
3. Các giải pháp thực hiện
3.1. Tạo tâm thế nhập cuộc bằng tình huống phản biện
Tạo được tâm thế nhập cuộc là tạo được những tình huống sư phạm đặc thù mà giáo viên thiết kế để khơi dậy trong học sinh hứng thú tiềm tàng và động cơ học tập tích cực, khơi dậy khát khao  giao cảm với thế giới nghệ thuật, khơi dậy nhu cầu giao tiếp và  đối thoại với nhà văn một cách tự nhiên, nhu cầu tự bộc lộ của bản thân, và  năng lực sáng tạo trong quá  trình tiếp nhận. 
Thông thường các giáo viên sẽ dùng lời dẫn để kéo học sinh nhập cuộc. Lời dẫn của giáo viên càng hấp dẫn, mới mẻ, sáng tạo càng có khả năng nhanh chóng xác định tâm thế sư phạm cho học sinh tập trung chú ý và có ý thức huy động hứng thú cá nhân vào các bài học. Nếu trong lời dẫn tạo nên tình huống phản biện cho học sinh  thì nó sẽ vừa kích thích được sự tò mò vừa khơi dậy tính hiếu thắng trong  tâm lí học sinh. Vì vậy các em sẽ thoát nhanh ra khỏi ức chế ban đầu và tiếp nhận yêu cầu mới. 
Với tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao), chúng tôi đã đặt ra tình huống: 
Cùng phải đối diện với những đau khổ bất hạnh của cuộc đời nhưng mỗi nhân vật lại có cách ứng xử khác nhau: Thúy Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) quyết định hi sinh chữ tình bảo vệ chữ hiếu, nàng bán mình để chuộc cha và em. Chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố) phải bán con để có tiền nộp sưu cho chồng và em chồng (đã chết). Lão Hạc (Lão Hạc – Nam Cao) phải bán cậu Vàng – đứa con tinh thần của lão – để có tiền dành dụm cho con. Făng – tin (Những người khốn khổ - V.Huy gô) phải bán cả răng và tóc để nuôi con. Và giờ đây, Chí Phèo (Nam Cao) để tồn tại được trong xã hội thực dân nửa phong kiến tàn bạo phải bán cả nhân hình lẫn nhân tính. Theo em nhân vật nào khổ nhất?
 Trước tình huống đặt ra, chúng tôi luôn khuyến khích HS thể hiện quan điểm suy nghĩ của mình. Từ đó để đi đến kết luận: Để có được những kết luận đầy đủ và chính xác, chúng ta đi vào khám phá tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao.
Với cách mở bài này, mặc dù mỗi em một ý kiến, một quan điểm, dù cách giải thích chưa thực sự thấu đáo, song điều quan trọng là chúng tôi đã tạo được cho các em một không khí thoải mái để bắt đầu vào tiết học.
3.2. Sử dụng câu hỏi kích thích tư duy phản biện để tiếp cận văn bản
Tư duy phản biện có tính chủ động, do đó khi một người có tư duy phản biện họ sẽ tự nảy ra câu hỏi, tự đi tìm các thông tin liên quan, quan sát, nhìn nhận, đánh giá vấn đề hơn là học hỏi thụ động từ người khác. Cách đặt câu hỏi để kích hoạt tư duy phản biện cũng chính là khả năng kích hoạt, mở rộng tư duy, từ đó có thể vận dụng các kiến thức vào việc giải thích, phân tích, đánh giá, tổng hợp và cuối cùng là áp dụng. [5]
Đối với học sinh phổ thông, việc chủ động đặt ra câu hỏi phản biện là rất hạn chế, vì vậy, trong quá trình thiết kế bài dạy của giáo viên phải thiết kế được những câu hỏi tình huống, những câu hỏi có vấn đề để thúc đẩy học sinh suy nghĩ theo lối phản biện, khêu gợi trong học sinh sự mong muốn tìm hiểu sự thật và trình bày quan điểm của mình.
Để có thể sử dụng câu hỏi kích hoạt tư duy phản biện, chúng tôi đã tiến hành qua các bước sau:
3.2.1. Bước 1. Xác định vấn đề phản biện
Để phát huy được năng lực phản biện của học sinh thì vấn đề đưa ra phản biện phải thực sự hấp dẫn, mới mẻ, có tính phát hiện. Cụ thể:
- Những vấn đề đưa ra phản biện phải là những vấn đề gây tranh cãi, có những ý kiến trái chiều, hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau.
- Những vấn đề đưa ra phản biện phải phát huy được khả năng huy động kiến thức cũng như khả năng lập luận, lí giải, biện minh của học sinh.
Chẳng hạn, hình ảnh Lá trúc che ngang mặt chữ điền trong thi phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử đã có rất nhiều tranh luận, là hình ảnh khuôn mặt của người con trai hay người con gái. Hay hình ảnh Anh bạn dãi dầu không bước nữa (Tây Tiến – Quang Dũng) gợi sự hi sinh hay miêu tả giấc ngủ của người lính trên con đường hành quân gian nan, vất vả,
Đối với văn bản “Chí Phèo” của Nam Cao, có rất nhiều vấn đề có thể sử dụng kĩ năng phản biện, song chúng tôi chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau: Nhan đề của truyện ngắn; Tiếng chửi của Chí Phèo (Chí Phèo say hay tỉnh); Bát cháo hành của thị Nở; Cái chết của Chí Phèo,
3.2.2. Bước 2. Thiết kế câu hỏi kích hoạt phản biện
Trong quá trình tư duy, câu hỏi kích hoạt phản biện rất quan trọng, có vai trò thúc đẩy, kích thích suy nghĩ, khám phá theo những hướng rất riêng và cũng nhờ đó thôi thúc chúng ta tìm câu trả lời bằng cách nghiên cứu, khám phá và mở rộng tri thức. Vì vậy câu hỏi kích hoạt phản biện phải là những câu hỏi có vấn đề, kích thích được khả năng tư duy, khơi gợi được hứng thú, sự mong muốn được tìm hiểu của học sinh. Trong quá trình thiết kế câu hỏi phản biện cho bài dạy “Chí Phèo” (Nam Cao), chúng tôi đã chú ý sử dụng những dạng câu hỏi sau:
3.2.2.1. Câu hỏi phản biện mang tính phân tích
Những câu hỏi dạng này yêu cầu học sinh phải đọc kĩ văn bản, tìm tòi các thông tin có liên quan đến vấn đề và tiến hành phân tích từng khía cạnh của vấn đề. Khi đó, học sinh sẽ có thể nhìn nhận một cách khách quan về bản chất và hiện trạng của thông tin có được. 
Trong dạng câu hỏi này chúng tôi đã đưa vào các từ khóa như: phân tích, so sánh, kiểm tra, phân loại, nguyên nhân chính, mối quan hệ, phân biệt, đặc trưng, 
Dạng câu hỏi này tôi đã áp dụng khi phân tích ý nghĩa nhan đề và ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo.
* Nhan đề là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, là yếu tố đầu tiên của tác phẩm mà người đọc được tiếp xúc, là một trong n

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_nang_cao_nang_luc_phan_bien_cho_hoc_si.doc