SKKN Tiếp cận văn bản “Về luân lí xã hội ở nước ta” (trích “Đạo đức và luân lí Đông Tây” - Phan Châu Trinh - Ngữ văn 11 cơ bản) theo hướng khai thác chất văn trong văn chính luận”

SKKN Tiếp cận văn bản “Về luân lí xã hội ở nước ta” (trích “Đạo đức và luân lí Đông Tây” - Phan Châu Trinh - Ngữ văn 11 cơ bản) theo hướng khai thác chất văn trong văn chính luận”

 Văn chính luận giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong các cuộc đấu tranh xã hội, trong lịch sử văn hóa của nhân loại nói chung, của dân tộc ta nói riêng. Lịch sử văn học Việt Nam đã ghi nhận sự xuất hiện của nhiều nhà văn chính luận xuất sắc như Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Phan Châu Trinh, Nguyễn Trường Tộ, Hồ Chí Minh, Nguyễn An Ninh .Họ đã để lại một khối lượng văn bản chính luận lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Một số tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông.

 Tìm hiểu các văn bản chính luận, học sinh không chỉ được trau dồi về tư duy hình tượng thẩm mĩ mà năng lực tư duy logic khoa học chặt chẽ cũng được nâng cao. Ngoài ra các em còn học được kĩ năng làm văn nghị luận (cách diễn đạt, đưa dẫn chứng, lập luận ) vận dụng viết bài làm văn hiệu quả. Tuy vậy, việc đọc hiểu văn bản chính luận còn gặp rất nhiều khó khăn với cả giáo viên và học sinh. Chỉ có một số ít các văn bản như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi hoặc các tác phẩm chính luận hiện đại của Hồ Chủ Tịch là những tác phẩm quen thuộc, được xem là những áng văn tuyệt tác thì nhiều văn bản như Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm, Về luân lí xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh còn là thử thách lớn. Mặc dù đã được đưa vào chương trình trên mười năm nhưng khi dạy học những văn bản này nhiều đồng nghiệp than rằng giờ dạy buồn tẻ, cứng nhắc, chẳng khác gì giờ dạy làm văn. Học sinh thì kêu ca, học văn chính luận vừa khô khan vừa không hấp dẫn, tài liệu tham khảo vô cùng nghèo nàn. Trước tình hình đó, chúng tôi nhận thấy rằng cần phải tìm một hướng tiếp cận mới để dạy học tốt hơn loại văn bản này. Cần “khắc phục quan niệm phiến diện cho rằng chỉ có văn hình tượng mới có chất văn, các loại văn khác thì không có” [1]. Cần phải biết đọc- hiểu văn chính luận và thưởng thức các bài văn chính luận hay. Cái hay của văn chính luận là ở lập luận sắc bén, luận cứ chân thực, tư tưởng mới mẻ, tiến bộ, song vai trò của chất văn- tình cảm và hình ảnh cũng rất lớn. Phần nhiều các văn bản chính luận được đưa vào chương trình Ngữ văn THPT đều đậm chất văn. “ Về luân lí xã hội ở nước ta” là một văn bản như thế. Tuy nhiên khi nghiên cứu và giảng dạy, chúng ta thường chủ yếu tập trung vào tìm hiểu tính chất lịch sử, chính luận, tính chiến đấu, cách lập luận mà hầu như chưa chú trọng đến vấn đề khai thác chất văn trong văn chính luận.Vì vậy, chúng tôi cho rằng cách dạy học có hiệu quả là hướng dẫn học sinh khai thác chất văn của văn bản chính luận, vừa để các em lĩnh hội sâu sắc giá trị của văn bản, vừa tăng cường hứng thú cho giáo viên và học sinh. Đây cũng là một việc làm cần thiết.

 Từ những căn cứ trên, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài: Tiếp cận văn bản “Về luân lí xã hội ở nước ta” ( trích “ Đạo đức và luân lí Đông Tây”- Phan Châu Trinh- Ngữ văn 11 cơ bản) theo hướng khai thác chất văn trong văn chính luận”.

 

doc 23 trang thuychi01 5912
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tiếp cận văn bản “Về luân lí xã hội ở nước ta” (trích “Đạo đức và luân lí Đông Tây” - Phan Châu Trinh - Ngữ văn 11 cơ bản) theo hướng khai thác chất văn trong văn chính luận”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
 TRƯỜNG THPT MAI ANH TUẤN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TIẾP CẬN VĂN BẢN 
“VỀ LUÂN LÍ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA”
(TRÍCH ĐẠO ĐỨC VÀ LUÂN LÍ ĐÔNG TÂY
- PHAN CHÂU TRINH)- NGỮ VĂN 11 CƠ BẢN-
 THEO HƯỚNG KHAI THÁC CHẤT VĂN TRONG VĂN CHÍNH LUẬN
Người thực hiện: Nguyễn Thị Hiên
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn 
THANH HÓA NĂM 2019
THANH HOÁ NĂM 2019
 MỤC LỤC
 1. MỞ ĐẦU  . Trang 1-2
 1.1. Lí do chọn đề tàiTrang 1
 1.2. Mục đích nghiên cứu.  Trang 2
 1.3. Đối tượng nghiên cứu . Trang 2
 1. 4. Phương pháp nghiên cứu  Trang 2
 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN . Trang 2- 17
 2.1. Cơ sở lí luận của SKKN   Trang 2
 2.2. Thực trạng vấn đề .. Trang 4
 2.3. Các giải pháp .. Trang 6- 17
 2.4. Hiệu quả của SKKN   Trang 17
 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ . Trang 18 
 1. Mở đầu
 1.1. Lí do chọn đề tài
 Văn chính luận giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong các cuộc đấu tranh xã hội, trong lịch sử văn hóa của nhân loại nói chung, của dân tộc ta nói riêng. Lịch sử văn học Việt Nam đã ghi nhận sự xuất hiện của nhiều nhà văn chính luận xuất sắc như Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Phan Châu Trinh, Nguyễn Trường Tộ, Hồ Chí Minh, Nguyễn An Ninh.Họ đã để lại một khối lượng văn bản chính luận lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Một số tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông.
 Tìm hiểu các văn bản chính luận, học sinh không chỉ được trau dồi về tư duy hình tượng thẩm mĩ mà năng lực tư duy logic khoa học chặt chẽ cũng được nâng cao. Ngoài ra các em còn học được kĩ năng làm văn nghị luận (cách diễn đạt, đưa dẫn chứng, lập luận) vận dụng viết bài làm văn hiệu quả. Tuy vậy, việc đọc hiểu văn bản chính luận còn gặp rất nhiều khó khăn với cả giáo viên và học sinh. Chỉ có một số ít các văn bản như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi hoặc các tác phẩm chính luận hiện đại của Hồ Chủ Tịch là những tác phẩm quen thuộc, được xem là những áng văn tuyệt tác thì nhiều văn bản như Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm, Về luân lí xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh còn là thử thách lớn. Mặc dù đã được đưa vào chương trình trên mười năm nhưng khi dạy học những văn bản này nhiều đồng nghiệp than rằng giờ dạy buồn tẻ, cứng nhắc, chẳng khác gì giờ dạy làm văn. Học sinh thì kêu ca, học văn chính luận vừa khô khan vừa không hấp dẫn, tài liệu tham khảo vô cùng nghèo nàn. Trước tình hình đó, chúng tôi nhận thấy rằng cần phải tìm một hướng tiếp cận mới để dạy học tốt hơn loại văn bản này. Cần “khắc phục quan niệm phiến diện cho rằng chỉ có văn hình tượng mới có chất văn, các loại văn khác thì không có” [1]. Cần phải biết đọc- hiểu văn chính luận và thưởng thức các bài văn chính luận hay. Cái hay của văn chính luận là ở lập luận sắc bén, luận cứ chân thực, tư tưởng mới mẻ, tiến bộ, song vai trò của chất văn- tình cảm và hình ảnh cũng rất lớn. Phần nhiều các văn bản chính luận được đưa vào chương trình Ngữ văn THPT đều đậm chất văn. “ Về luân lí xã hội ở nước ta” là một văn bản như thế. Tuy nhiên khi nghiên cứu và giảng dạy, chúng ta thường chủ yếu tập trung vào tìm hiểu tính chất lịch sử, chính luận, tính chiến đấu, cách lập luận mà hầu như chưa chú trọng đến vấn đề khai thác chất văn trong văn chính luận.Vì vậy, chúng tôi cho rằng cách dạy học có hiệu quả là hướng dẫn học sinh khai thác chất văn của văn bản chính luận, vừa để các em lĩnh hội sâu sắc giá trị của văn bản, vừa tăng cường hứng thú cho giáo viên và học sinh. Đây cũng là một việc làm cần thiết.
 Từ những căn cứ trên, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài: Tiếp cận văn bản “Về luân lí xã hội ở nước ta” ( trích “ Đạo đức và luân lí Đông Tây”- Phan Châu Trinh- Ngữ văn 11 cơ bản) theo hướng khai thác chất văn trong văn chính luận”.
 1.2. Mục đích nghiên cứu
 Xuất phát từ những mâu thuẫn trong thực tế dạy học, chúng tôi nghiên cứu đề tài này để bản thân và đồng nghiệp tìm ra hướng dạy hiệu quả nhất các văn bản chính luận nói chung và văn bản “ Về luân lí xã hội ở nước ta” nói riêng; góp phần tạo hứng thú cho giáo viên và học sinh, bồi dưỡng tình yêu với các văn bản chính luận cũng như môn Ngữ văn.
 1.3. Đối tượng nghiên cứu
 Đề tài này nghiên cứu, tổng kết về vấn đề: : Tiếp cận văn bản “Về luân lí xã hội ở nước ta” ( trích “ Đạo đức và luân lí Đông Tây”- Phan Châu Trinh- Ngữ văn 11 cơ bản) theo hướng khai thác chất văn trong văn chính luận”.
 1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
 - Phương pháp quan sát: hình thức chủ yếu của phương pháp này là tích cực dự giờ đồng nghiệp, từ đó tôi có thể rút ra những ưu – nhược điểm trong bài dạy của đồng nghiệp làm bài học cho mình.
 - Phương pháp thực nghiệm, thống kê, so sánh: với phương pháp này, tôi có thẻ phân loại, so sánh, đối chiếu kết quả nghiên cứu.
 - Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp khác như: thăm dò ý kiến học sinh, đọc tài liêụ, phân tích, trao đổi cùng đồng nghiệp.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
 2.1. Cơ sở lí luận
 Văn chính luận là một bộ phận của văn nghị luận. Phạm vi của văn nghị luận rất rộng. Xét về nội dung “người ta phân văn nghị luận làm hai thể: văn chính luận (luận bàn về các vấn đề chính trị, xã hội, triết học, đạo đức) và văn phê bình văn học (luận bàn về các vấn đề văn học nghệ thuật)” [1]. 
 Văn chính luận (tiếng Nga: publicistika, tiếng Pháp: articles sur la vie politique et sociale) là thể loại văn học khá đặc biệt, có ý nghia không chỉ đối với đời sống văn học mà còn có tác động rất lớn trong đời sống chính trị- xã hội. Về khái niệm văn chính luận, hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau. 
 Theo Từ điển văn học: “ Văn chính luận là một thể loại văn học, một thể tài báo chí; thường nêu các vấn đề có tính thời sự về chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, văn học, tư tưởngMục tiêu của văn chính luận là tác động đến dư luận xã hội đương thời, đến lối sống, đến các quyền lợi chính trị hiện hành; đề xuất việc củng cố hoặc thay đổi chúng cho phù hợp với quyền lợi giai cấp hoặc với lí tưởng xã hội, đạo đức. Đối tượng của văn chính luận là toàn bộ cuộc sống quá khứ và hiện tại; cuộc sống cá nhân và xã hội, đời sống thực và đờ sống được phản ánh trong báo chí, nghệ thuật. Các bức tranh thực tại, các tính cách và số phận con người hiện diện ở tác phẩm chính luận như những chứng cớ lấy từ chính đời sống, như một hệ thống luận cứ, như đối tượng của sự phân tích, hoặc được dùng làm cơ sổ của xúc cảm, làm “ tác nhân’ kích thích, làm nguyên cớ để lên án, tố cáo hoặc chất vấn các giới hữu quan, để khẳng định lí tưởng. Chính luận luôn là hành vi tranh đấu ( ngấm ngầm hoặc công khai) về chính trị, xã hội, tôn giáo, triết học, tư tưởng. Nó luôn mang định hướng phe nhóm, đảng phái và ý thức hệ. Phong cách văn chính luận nổi bật ở tính luận chiến, tính cảm xúc. Nó gần gũi với giọng điệu, kết cấu và chức năng của lời diễn thuyết. Chính luận có vai trò rất đáng kể trong lịch sử văn hóa, trong các phong trào xã hội” [ 2] 
 Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: Văn chính luận là “ Thể văn nghị luận viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, kinh tế, triết học, văn hóaMục đích của văn chính luận là bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định. Chính vì thế, tác phẩm chính luận bao giờ cũng thể hiện khuynh hướng tư tưởng, lập trường công dân rõ ràng. Tình cảm sục sôi, luận chiến quyết liệt và tính khuynh hướng công khai là những dấu hiệu quan trọng của văn chính luận. Tất cả những cái đó làm cho giọng điệu, cấu trúc và chức năng của lời văn chính luận gần gũi với giọng điệu, và chức năng của lời văn tuyên truyền hùng biện [3]. Xét về hình thức: bao gồm các loại tạp văn, tiểu phẩm, chuyên luận, bản thu hoạch, bài phát biểu ý kiến, lời khai mạc, bản tổng kết, lời diễn thuyết, chào mừngXét từ hình thức công bố: có các loại xã luận, lời tuyên bố, lời phát ngôn, bài cáo, chiếu, biểu, điều trần cũng có tính chất chính luận rõ rệt.
 Sách giáo khoa Ngữ văn 11 ( nâng cao) định nghĩa: “ Phong cách ngôn ngữ chính luận là loại phong cách ngôn ngữ dùng trong những văn bản trực tiếp bày tỏ tư tưởng, lập trường, thái độ đối với những vấn đề thiết thực, nóng bỏng của đời sống, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, xã hội. Những văn bản này được gọi chung là văn bản chính luận. [4]
 Nhìn chung các định nghĩa trên đều gặp nhau ở một điểm: Văn chính luận là một thể loại của văn nghị luận. Văn chính luận phân tích, bình luận hoặc nêu những vấn đề có tính thời sự về các lĩnh vực như chính trị, xã hội, tư tưởngĐó là những văn bản mà qua đó người viết công khai bày tỏ thái độ, quan điểm, tư cách chính trị của mình. Người viết văn chính luận luôn bày tỏ tư tưởng chính trị của mình, bình giá công khai những vấn đề xã hội, thời sự nóng bỏng của đất nước. “ Bài văn chính luận hay là bài nêu được vấn đề mới, sâu sắc có ý nghĩa, có tư tưởng, quan điểm nhân văn, tiến bộ, có lập luận chặt chẽ, sắc bén, khéo léo. Văn chính luận không phải là văn trữ tình, nhưng ở một số thể loại nhất định, các văn bản hay đều thấm đượm chất văn [1]
 Chất văn được xem như phần hồn của văn bản chính luận. Nó tác động đến trái tim người đọc, mang đến những xúc cảm sâu lắng, khiến ta yêu mến, thấm thía, sau mê. Chất văn không thể thiếu trong bài văn chính luận, không chỉ làm tăng tính thuyết phục mà còn tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
 Văn là tiếng nói của tâm hồn, cảm xúc, của thế giới bên trong con người. “ Chất văn trong văn chính luận là những cảm xúc, suy tư chân thành nhất của chủ thể được bộc lộ khi bàn về một vấn đề nào đó. Chất văn được thể hiện ở sự thấu hiểu vấn đề không chỉ bằng lí trí mà còn bằng trái tim, bàn về vấn đề bằng chính những trải nghiệm chân thành, đặt mình là người trong cuộc để hiểu sâu sắc và thấu đáo, diễn đạt suy nghĩ bằng lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, cảm xúc” [1]
 Văn chính luận giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong các cuộc đấu tranh xã hội, trong lịch sử văn hóa của nhân loại nói chung, của dân tộc ta nói riêng. Văn bản “ Về luân lí xã hội ở nước ta” là một đoạn trích trong phần III của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19- 11- 1925 tại nhà Hội thanh niên Sài Gòn. Bài diễn thuyết đề cao tác dụng của đạo đức, luân lí, khẳng định nguyên nhân mất nước là do dân ta để mất đạo đức, luân lí truyền thống. Tác giả bày tỏ tấm lòng yêu nước thiết tha, sự căm ghét tột độ bọn vua quan đương thời. Bằng lối diễn đạt độc đáo, đậm chất văn, tác giả đã thu hút được sự chú ý của người nghe, người đọc, thay đổi nhận thức của họ trước tình cảnh đất nước.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 2. 2.1.Thực trạng và nguyên nhân:
 Từ những đặc trưng trên ta nhận thấy văn chính luận thường thiên về lập luận hơn là khả năng khơi gợi, lôi cuốn, rung động người đọc như các văn bản văn học. Dạy học văn bản chính luận không hề giản đơn. Bởi vậy dễ xuất hiện tư tưởng e ngại khi tiếp xúc với loại văn bản này.
 Về phía giáo viên còn gặp nhiều khó khăn khi dạy đọc- hiểu văn bản chính luận. Đây là một thể loại khó, số lượng văn bản được đưa vào chương trình còn rất khiêm tốn. Giáo viên chưa thực sự thấm nhuần văn bản, chưa tìm ra phương pháp thiết kế hoạt động học tập phù hợp. Khi dạy ta chủ yếu hướng dẫn học sinh tìm ra mạch lập luận, bám sát các luận điểm, luận cứ ít chú ý khai thác tình cảm, cảm xúc, hình ảnh, ngôn từ, giọng điệu.để tạo hứng thú cho cả giáo viên và học sinh. Qua khảo sát thực tế chúng tôi thấy rằng các kì thi, từ thi học kì, thi học sinh giỏi cấp trường đến các kì thi ở cấp cao hơn như thi học sinh giỏi cấp tỉnh, thi THPT quốc gia.rất ít – nếu không muốn nói là không có- ra đề vào văn bản chính luận. Vì vậy, nhiều thầy cô ít chú trọng đến loại văn bản này, điều dó dẫn đến tình trạng chưa đầu tư thỏa đáng cho bài dạy, soạn bài còn sơ sài, nặng về đối phó
 Về phía học sinh, theo xu hướng xã hội, theo trào lưu hiện nay, chủ yếu chạy theo các môn học tự nhiên, rất ít em quan tâm đến các môn xã hội. Điều đó xuất phát từ thực tế học các môn xã hội khó được điểm cao, khối thi vào các trường đại học, cao đẳng không nhiều, gần đây các trường gần như không tuyển khối C; ra trường cơ hội tìm việc làm không hề dễ dàng. Xu thế chung ấy đã tác động tiêu cực đến niềm yêu thích các môn xã hội, trong đó có môn Ngữ văn. Vì vậy số lượng học sinh thực sự đam mê môn Ngữ văn ngày càng ít và càng hiếm những học sinh có hứng thú học những bài đọc văn thiên về lập luận, lí lẽ, dẫn chứng như văn chính luận. Các em ít tham gia vào hoạt động học, giáo viên phát vấn thì miễn cưỡng trả lời.
 Về phía chương trình sách giáo khoa: Trong một thời gian dài, do chưa đánh giá đúng vai trò của văn chính luận nên loại văn bản này ít được dạy học trong chương trình Ngữ văn. Vấn đề dạy học văn bản chính luận còn gặp rất nhiều khó khăn do chưa được chú ý nhiều, tài liệu tham khảo ít ỏi. Trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 cả bộ cơ bản và nâng cao chỉ hai có bài học liên quan đến văn chính luận có thể tham khảo là: “ Một số thể loại văn học: Kịch, nghị luận” và bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận”. 
 Từ thực trạng trên, có thể thấy, các giờ đọc- hiểu văn bản thuộc thể loại chính luận còn gò bó, bài giảng chưa lôi cuốn được học sinh; giáo viên cảm thấy khó dạy, mệt mỏi; học sinh chán nản, không chú ýkhông khí lớp học nặng nề. Bài giảng chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Dạy học văn bản “ Về luân lí xã hội của nước ta” cũng chung thực trạng như thế. 
2.2.2. Kết quả khảo sát tình hình thực tế
 * Đối tượng khảo sát
 - Hai lớp thuộc khối 11 . Đó là các lớp: 11K, 11D.
 Sĩ số lớp 11K: 42 học sinh, 11D : 38 học sinh
 - Đặc điểm: Học chương trình chuẩn.
 - Điều kiện học tập như nhau.
 * Hình thức khảo sát
 - Kiểm tra vở soạn văn.
 - Khảo sát học sinh trong giờ học bài “ Tiếng mẹ đẻ- nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” ( Nguyễn An Ninh) 
* Kết quả thống kê 
 - Soạn bài:
 + Có 25/80 em chưa soạn bài.
 + Có 55/ 80 em đã soạn bài bằng cách trả lời câu hỏi ở phần Hướng dẫn học bài trong SGK nhưng nội dung rất sơ sài, chiếu lệ, đối phó với giáo viên.
 - Trong giờ học: 
 + Giáo viên yêu cầu học sinh : nêu những nét chính về tác giả và tác phẩm, không em nào giơ tay xin trả lời, khi giáo viên chỉ định, học sinh đọc lại nguyên văn phần Tiểu dẫn trong SGK.
 + Giáo viên yêu cầu học sinh đọc diễn cảm, 3/4 em đọc không đạt yêu cầu.
 + Học sinh thụ động nghe giảng, ghi chép, rất ít tham gia xây dựng bài. Có em còn làm việc riêng, gục mặt xuống bàn.
 + Nhìn chung giờ học khô khan, nặng nề, không đạt mục tiêu bài học.
 Làm thế nào để cải thiện tình trạng đáng buồn trên? Làm thế nào để tạo hứng thú cho học sinh và cả giáo viên khi dạy học văn bản chính luận? Những câu hỏi trên làm chúng tôi trăn trở rất nhiều. Từ đó chúng tôi đề xuất đề tài: : Tiếp cận văn bản “Về luân lí xã hội ở nước ta” ( trích “ Đạo đức và luân lí Đông Tây”- Phan Châu Trinh- Ngữ văn 11 cơ bản) theo hướng khai thác chất văn trong văn chính luận”, để dạy học có hiệu quả hơn loại văn bản này.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2. 3.1.Phạm vi nghiên cứu
 * Tìm hiểu kĩ về đối tượng học sinh, xác định đúng mục đích, yêu cầu của bài dạy, dặn học sinh chuẩn bị bài ở nhàlà những điều kiện quan trọng đầu tiên cho bài dạy đạt kết quả cao.
 * Thâm nhập sâu vào tác phẩm
 - Đọc kĩ phần Tiểu dẫn để nắm vững những thông tin cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả; hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, vị trí của văn bản.
 - Đọc kĩ văn bản, song song với việc tìm hiểu mạch lập luận của tác giả cần chú ý khai thác chất văn trong văn bản.
 - Vận dụng vào thực tiễn.
2. 3.2.Nắm vững đặc trưng thể loại
 Văn bản thuộc thể loại chính luận với những đặc trưng đã trình bày ở trên, giáo viên cần xác định cụ thể phương pháp giảng dạy để hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản một cách hiệu quả. Bên cạnh nắm vững nội dung tư tưởng lõi của văn bản bằng việc tìm các luận điểm, luận cứ, nghệ thuật lập luận còn cần chú ý khai thác chất văn. Từ đó khám phá vẻ đẹp, sức hấp dẫn của văn bản qua hệ thống lập luận, ngôn từ giàu hình ảnh và dạt dào cảm xúc.
 Một điểm cần chú ý khi dạy văn bản này là nó được trình bày dưới dạng diễn thuyết. Muốn bài diễn thuyết có sức thuyết phục, diễn giả phải nắm chắc đối tượng người nghe, xác định chủ đề bài nói rõ ràng, lập luận khúc triết, ngôn ngữ dễ hiểu. Đặc biệt tâm huyết của người diễn thuyết phải được thể hiện rõ trong giọng điệu, tài hùng biện phải đi đôi với sự sâu sắc của tư tưởng và sự nồng nhiệt của cảm xúc. Phan Châu Trinh là nhà cách mạng đã sử dụng hình thức diễn thuyết rất có hiệu quả trong cuộc đời hoạt động của mình.
 Nắm vững những đặc điểm trên của văn bản, giáo viên sẽ thiết kế được bài học có chất lượng.
 2.3.3. Khai thác chất văn trong văn bản
 Bên cạnh việc bám sát đặc trưng thể loại khi dạy học cần khai thác sâu chất văn của văn bản, thể hiện ở:
 a. Giọng điệu
 Văn bản có sự đa dạng về giọng điệu. Phần mở đầu là giọng phủ định, công kích quyết liệt, không khoan nhượng cách hiểu sai, nêu lên cái thiếu của dân ta, nước ta trên phương diện luân lí xã hội. Phần thứ hai là giọng chất vấn, giải thích “vì sao người ta làm được như thế?”; giọng xót xa trước tình trạng dân ta thờ ơ chế độ vua quan đương thời. Phần cuối cùng là giọng kêu gọi, thiết tha, dứt khoát. 
 Chúng tôi hướng dẫn học sinh tìm ra giọng điệu văn bản theo cách: Trong phần Đọc hiểu văn bản, sau khi gọi một em đọc diễn cảm đoạn trích, Gv nhận xét cách đọc và đặt câu hỏi cho cả lớp:
 - Văn bản được chia thành mấy phần? Em có nhận xét gì về giọng điệu được thể hiện trong mỗi phần?
 Việc hướng dẫn học sinh phân tích giọng điệu là rất cần thiết. Từ đó, các em nắm được tinh thần của văn bản, hiểu được phong cách tác giả. 
 b. Tính hình tượng trong văn bản 
 Người viết văn chính luận chủ yếu sử dụng tư duy lo gích chứ không phải tư duy hình tượng. Tuy nhiên hai loại tư duy này luôn hỗ trợ cho nhau và trong văn bản tác giả cũng ít nhiều vận dụng tư duy hình tượng tạo nên các hình tượng ở cấp độ bộ phận của văn bản. Đó là hình tượng được tạo nên bởi hàng loạt các chi tiết, hình ảnh độc đáo, giàu tính thẩm mĩ như: hình tượng người dân nước mình thờ ơ, vô trách nhiệm với nhau “phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua”. Hình tượng vua quan ăn trên ngồi trốc, hưởng phú quý vinh hoa. Hình tượng bọn học trò trong nước ham quyền tước, vinh hoa sinh ra giả dối, nịnh hót, muốn giữ túi tham đầy mãi, địa vị của mình được vững mãi.
 Chúng tôi đã hướng dẫn học sinh phân tích các hình tượng trên để các em thấy được sự đặc sắc của văn bản. Bên cạnh đó cũng lưu ý học sinh rằng các hình tượng trên chính là những luận cứ sinh động làm nổi bật cho luận điểm. Phân tích hình tượng chính là nắm bắt tinh thần của văn bản. Ngoài ra những hình tượng trên còn có chức năng thể hiện rõ thái độ, tư tưởng của Phan Châu Trinh, giúp ông có cách diễn đạt mói mẻ, phát huy trí tưởng tượng và sáng tạo, làm cho văn bản trở nên độc đáo, tác động sâu sắc đến độc giả.
c. Ngôn từ giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm 
 Đây cũng là nhân tố quan trọng tạo nên chất văn của văn bản “Về luân lí xã hội ở nước ta”. Những cụm từ như: người nước ta, người trong nước, người mình, ông cha mình, anh em, người trong làng thể hiện tình cảm dân tộc, đồng bào sâu nặng, thắm thiết. Việc sử dụng các thành ngữ, tục ngữ như: bẻ đũa cả nắm, nhiều tay làm nên bộp, góp gió làm bão, giụm cây làm rừng, một người làm quan một nhà có phước giàu sức tạo hình. Chỉ trong một đoạn văn ngắn: “Dẫu trôi nổi, dẫu cực khổ thế nào mặc lòngở nước ta là thế đấy.” tác giả đã sử dụng dày đặc các từ ngữ có sắc thái biểu cảm kết hợp với các động từ như trôi nổi, cực khổ, ngất ngưởng, lúc nhúc, vơ vét, rút tỉa, mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa, đua chenkhiến đoạn văn chất chứa cảm xúc căm giận.
 Câu cảm thán, phủ định xuất hiện với tần số cao. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy trong văn bản có tới 14 câu cảm, tập trung biểu hiện thái độ, tình cảm của tác giả. Điều đó chứng tỏ Phan Châu Trinh không chỉ trình bày quan điểm với lí lẽ và lập luận vô cùng chặt chẽ mà cò

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tiep_can_van_ban_ve_luan_li_xa_hoi_o_nuoc_ta_trich_dao.doc