SKKN Hướng dẫn một số bài tập bổ trợ và kĩ thuật nhảy cao nằm nghiêng nhằm nâng cao hiệu quả cho học sinh lớp 10 THPT Lam Kinh

SKKN Hướng dẫn một số bài tập bổ trợ và kĩ thuật nhảy cao nằm nghiêng nhằm nâng cao hiệu quả cho học sinh lớp 10 THPT Lam Kinh

Từ khi loài người xuất hiện cho đến nay và mãi mãi về sau, sức khoẻ con người được coi là vốn quý vô giá. Thiếu sức khoẻ là thiếu hạnh phúc, thiếu sức sống, thiếu tinh thần sáng suốt và thiếu cả của cải vật chất. Bởi vậy quan tâm và chăm sóc sức khoẻ con người chính là quan tâm đến sự phát triển mọi mặt không chỉ ở mỗi người, mỗi gia đình mà cả dân tộc, quốc gia và toàn nhân loại.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay, lợi thế sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực trí tuệ cao, có kỹ năng vững vàng, có sức khoẻ tốt để theo kịp sự phát triển của thế giới. Đặc biệt với sức khỏe là tài sản vô giá của mỗi công dân, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, là nhân tố cơ bản tạo nên động lực phát triển của đất nước.

Sức khoẻ của mỗi con người là một yếu tố tạo nên sức mạnh của chính mình. Sức mạnh của nhân dân là một nhân tố tạo nên sức mạnh của cộng đồng, của đất nước, của dân tộc, là nguồn hạnh phúc của nòi giống Việt Nam. Nghị quyết trung ương 4 (khoá VII) Đảng ta đã khẳng định: " Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. "

 

doc 11 trang thuychi01 30202
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Hướng dẫn một số bài tập bổ trợ và kĩ thuật nhảy cao nằm nghiêng nhằm nâng cao hiệu quả cho học sinh lớp 10 THPT Lam Kinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 I. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Từ khi loài người xuất hiện cho đến nay và mãi mãi về sau, sức khoẻ con người được coi là vốn quý vô giá. Thiếu sức khoẻ là thiếu hạnh phúc, thiếu sức sống, thiếu tinh thần sáng suốt và thiếu cả của cải vật chất. Bởi vậy quan tâm và chăm sóc sức khoẻ con người chính là quan tâm đến sự phát triển mọi mặt không chỉ ở mỗi người, mỗi gia đình mà cả dân tộc, quốc gia và toàn nhân loại.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay, lợi thế sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực trí tuệ cao, có kỹ năng vững vàng, có sức khoẻ tốt để theo kịp sự phát triển của thế giới. Đặc biệt với sức khỏe là tài sản vô giá của mỗi công dân, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, là nhân tố cơ bản tạo nên động lực phát triển của đất nước.
Sức khoẻ của mỗi con người là một yếu tố tạo nên sức mạnh của chính mình. Sức mạnh của nhân dân là một nhân tố tạo nên sức mạnh của cộng đồng, của đất nước, của dân tộc, là nguồn hạnh phúc của nòi giống Việt Nam. Nghị quyết trung ương 4 (khoá VII) Đảng ta đã khẳng định: " Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. "
Lúc sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói về nhân tố sức khỏe của nhân dân rất sâu sắc và nhất quán. Tháng 3 năm 1946 Người đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục:
"Hỡi đồng bào tổ quốc!
Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công.
Mỗi người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi người dân khoẻ mạnh, tức là góp phần làm cho cả nước khoẻ mạnh.
Vậy nên tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước.
Việc đó không tốn kém, khó khăn gì gái, trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai cũng làm được. Mỗi người lúc ngủ dậy, tập ít phút thể dục, ngày nào cũng tập thì khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ. Như vậy thì sức khoẻ. Dân cường thì nước thịnh. Tôi mong đồng bào ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi ngày nào cũng tập".
Bác đã gắn vận mệnh của đất nước vào sức khoẻ của mỗi người dân.
Chính vì vậy, ngành thể dục thể thao cần phải quan tâm nhiều và tăng cường giáo dục thể chất trong trường học, phát triển TDTT quần chúng nói chunh và TDTT thành tích cao nói riêng.
Sự nghiệp giữ gìn và tăng cường sức khoẻ nhân dân, cải tạo nòi giống Việt Nam được Hồ Chủ Tịch đặt nhiều vào thế hệ trẻ, Người rất quan tâm đến sự phát triển thể chất, tăng cường sức khoẻ cho thanh, thiếu niên. Trong tư tưởng của Người thì thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, cần phải phát triển cho các em về tài năng đạo đức và sức khoẻ. Điều này còn được thể hiện trong thư gửi cho các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam:
" Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không. Đó chính là nhờ vào công học tập của các cháu. "
Bác đã từng dạy:
" Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người".
Giáo dục thể chất trong nhà trường là một bộ phận không thể thiếu được của nền giáo dục, nó góp phần đào tạo con người mới phát triển toàn diện phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mục đích giáo dục của nước ta là: Bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những con người phát triển toàn diện, có sức khoẻ dồi dào, thể chát cường tráng, có dũng khí kiên cường để kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng một cách đắc lực và có cuộc sống vui tươi lành mạnh. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã nêu: " Công tác thể dục thể thao cần coi trọng và nâng cao chất lượng trong trường học, tổ chức hướng dẫn và vận động đông đảo nhân dân rèn luyện hàng ngày, nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng vận động viên, nâng cao thành tích các môn thể thao".
Từ năm 1960 Đảng ta đã chủ trương đào tạo thế hệ trẻ pháy triển về đức, trí, thể, mỹ. Nhưng công tác đào tạo này cần phải được tiến hành trong nhà trường, bắt đầu từ lứa tuổi thiếu niên đến lứa tuổi thanh niên. Nghị quyết đại hội trung ương Đảng lần thứ VIII (khoá III) chỉ ra nhiệm vụ của công tác giáo dục thế hệ trẻ: " Phải thực hiện tốt việc giáo dục toàn diện ( trí dục, đức dục, mỹ dục, thể dục ) cho thanh niên, thiếu nhi... ". Do đó Nghị quyết đề ra nhiệm vụ: " Bắt đầu đưa việc dạy môn thể dục và một số môn thể thao cần thiết vào chương trình học tập của các trường phổ thông, chuyên nghiệp, đại học ". Về sự phát triển thể chất của thế hệ trẻ. Đại hội lần thứ VI (năm 1986) chủ trương: "Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào thể dục thể thao quần chúng, từng bước đưa việc rèn luyện thân thể thành thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ. Nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong các trường học".
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng xã hội mới đòi hỏi rất lớn về trí tuệ, sức khoẻ và tinh thần của tuổi trẻ, trong đó sức khoẻ là yếu tố tiền đề là yếu tố trước tiên để phát triển sức mạnh về trí tuệ và tinh thần, ý chí của thanh niên, thiếu niên. Cho nên phát triển thể dục thể thao trong lực lượng thanh niên, học sinh, sinh viên phải được tăng cường và mở rộng. Chỉ thị 36 – CT/ TW (1994)
Về công tác thể dục thể thao trong giai đoạn mới chỉ rõ rằng :
 “Thực hiện thể chất trong tất cả các trường học. Xây dựng nếp sống, tập luyện thể dục thể thao trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh,sinh viên, thanh niên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, cán bộ công nhân viên chức và bộ phận nhân dân”.
Bởi vậy giáo dục thể chất trong trường học là một trong những nhiệm vụ của nghành giáo dục và đào tạo. Đó không chỉ là trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, các nghành giáo dục mà còn là trách nhiệm củ toàn xã hội.
Mục đích của giáo dục thể chất là bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người có thể chất cường tráng, có sức khỏe dồi dào, có dũng khí kiên cường, có tâm hồn trong sáng để học tập, lao động, công tác tốt. Đó cũng chính là góp phần tích cực để hoàn thành mục tiêu đào tạo lớp người phát triển toàn diện, đáp ứng kịp sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam của chúng ta ngày nay.
Với mục tiêu cao cả đó, nhiệm vụ của các giờ dạy thể dục ở các trường phổ thông là trang bị cho các em những những kiến thức và kĩ năng vận động cơ bản về kỹ thuật và trên cơ sở đó đảm bảo phát triển thể lực toàn diện, rèn luyện và nâng cao sức khỏe,thể lực cho các em. Trong các bài tập phát triển thể lực toàn diện, các bài tập điền kinh giữ vai trò chủ yếu.Với các môn: chạy, nhảy, ném... đã là nội dung cụ thể của giảng dạy thể dục trong các trường phổ thông.
Học tập tốt môn điền kinh sẽ giúp cho học sinh phát triển đều đặn các nhóm cơ chủ yếu, tạo điều kiện hình thành tư thế đúng, điều chỉnh trọng lượng cơ thể, kích thích việc tăng độ dài xương giúp các em phát triển chiều cao nhanh hơn... đồng thời góp phần giáo dục đạo đức , rèn luyện ý chí và xây dựng lối sống lành mạnh ,giúp các em giải tỏa những căng thẳng do thiếu vận động tạo nên đồng thời giáo dục ý thức kỷ luật, lòng quả cảm, tinh thần quyết tâm khắc phục khó khăn vươn lên trong học tập cho các em. 
Dạy nhảy cao cho học sinh ở trường phổ thông là nhằm thực hiện nhiệm vụ đã nêu trên. Ở đây, tôi muốn nói đến một vấn đề cụ thể là dạy một số bài tập bổ trợ và kỹ thuật một kiểu nhảy cụ thể là nhảy cao nằm nghiêng.Chúng ta đều hiểu nhảy cao nằm nghiêng tuy chưa là kiêủ nhảy ưu việt nhất nhưng tôi khẳng định: Nó đã là cầu nối giữa kiểu nhảy cơ bản với kiểu nhảy tiên tiến. Thực tế việc giảng dạy nhiều khi còn thiếu bài bản,không đưa các bài tập bồ trợ vào để làm quen dần mà dạy ngay phần kỹ thuật động tác hoặc dạy qua loa, học sinh chưa thực hiện đúng kỹ thuật động tác... nên ảnh hưởng không nhỏ đến thành tích của các em - cũng là chất lượng bộ môn.
Với những vấn đề nêu trên, đó là lý do chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu nội dung:
"Hướng dẫn một số bài tập bổ trợ và kĩ thuật nhảy cao nằm nghiêng nhằm nâng cao hiệu quả cho học sinh lớp 10 THPT Lam Kinh”
Ở sáng kiến này, tôi đã lựa chọn các bài tập hợp lý, khoa học,vừa sức và sát với yêu cầu có tác dụng thiết thực cho các em ở lớp 10 Trung học phổ thông hiện nay
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Bằng thực nghiệm các bài tập bổ trợ và bài tập kĩ thuật được ứng dụng để tìm ra nội dung và biện pháp giảng dạy hiệu quả môn nhảy cao nằm nghiêng chuẩn kỹ thuật.
- Khi đã ứng dụng thành công đề tài sẽ được đông đảo đồng nghiệp ứng dụng trong giảng day bộ môn.
- Sau khi giúp học sinh tập thành thục các bài tập bổ trợ sẽ tạo cho các em nắm bắt một cách nhanh chóng kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng và sẽ tiêp tục giúp các em áp dụng kỹ thuật nâng cao thành tich nhảy cao cho các em. 
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phân tích và tổng hợp các tài liệu có liên quan.
2.Phương pháp phỏng vấn tọa đàm.
3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
4. Phương pháp toán học thống kê.
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu :
Học sinh lớp 10C8 của Trường THPT Lam Kinh.
II. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
- Nghiên cứu cơ sở lựa chọn các bài tập bổ trợ và hướng dẫn kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng cho học sinh lớp 10 THPT:
Đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi học sinh phổ thông:
Chúng ta cũng cần hiểu những đặc điểm tâm, sinh lý cơ bản của lứa tuổi 16 này là căn cứ quan trọng để tiến hành thực hiện các bài tập có hiệu quả nhất.ở lứa tuổi này, cơ thể các em đã bắt đầu phát triển tương đối hoàn chỉnh, chức năng sinh lý dần đi vào ổn định.
Về mặt tâm lý: các em muốn tỏ ra mình là người lớn, muốn mọi người tôn trọng, đã có những hiểu biết nhất định,có khả năng phân tích tổng hợp, lại muốn biết rộng hơn,muốn khám phá, thích hoạt động, nhiều hoài bão, cũng mơ màng, nông nổi, thiếu kinh nghiệm sống. 
Bộ não của các em đã gần hoàn chỉnh. Quá trình hưng phấn và ức chế ngang nhau. Sức tập trung chú ý bền hơn, lâu mệt mỏi hơn.
Tim của các em cũng đã phát triển gần hoàn thiện. Cơ tim khỏe hơn,tính đàn hồi cao hơn, lưu lượng máu mỗi lần tim co lớn.
Phổi của các em đã phát triển đầy đủ.Tần số hô hấp tăng hơn, hiện tượng mệt mỏi lâu xảy ra.
Ở lứa tuổi này, xương bắt đầu giảm tốc độ phát triển ( ở tuổi 16 các em nam dừng phát triển là 25%, với nữ thì ở tuổi 16 là 67%). Tuy chiều dài cơ thể không tăng nhiều nhưng độ dầy lại tăng đáng kể. Quá trình cốt hóa ở hệ thống xương vẫn tiếp tục, xương sống vững chắc hơn, lồng ngực phát triển, cơ thể bắt đầu chịu được lượng vận động lớn hơn.
Hệ thống cơ bắp của các em đàn hồi tốt, khả năng co giãn và điều khiển của hệ thống thần kinh đã đạt gần bằng người lớn.
Như vậy với đặc điểm cơ thể đã phát triển gần toàn diện sẽ thuận lới cho việcnhận thức và tiếp thu động tác kỹ thuật dễ dàng hơn.
Cùng với những vấn đề trên, chúng ta cũng cần quan tâm nữa là đặc điểm phát triển tố chất cơ thể của các em học sinh lớp10 THPT.Tố chất này là năng lực hoạt động cơ bản của cơ thể con người: sức nhanh, sức mạnh, sức bền và sự linh hoạt khéo léo...Sự phát triển tố chất cơ thể này là tùy theo lứa tuổi.
Với sức nhanh: phát triển tương đối sớm, chủ yếu ở lứa tuổi trung học cơ sở. Nếu không luyện tập tốt thì đến giai đoạn tuổi 16 sẽ khó nâng cao thêm.Vì thế ở tuổi THPT cần tăng cường luyện tập sức nhanh để bổ sung và duy trì sự phát triển đó.
Với sức mạnh: cùng với sự phát triển cơ thể, thần kinh chi phối các cơ quan cũng tập trung hơn. Các động tác chạy, nhảy, ném đẩy... có tác dụng lớn tới phát triển sức mạnh cơ thể.
Với sức bền: ở lứa tuổi naỳ cơ thể các em đã phát triển tương đối hoàn chinh nên sử dụng các bài tập chạy cự ly 800-15000 m hoặc dài hơn để luyện tập sức bền nhưng phải tiến hành từng bước theo từng đối tượng và phải theo dõi thường xuyên nhất là với học sinh nữ.
Còn với linh hoạt khéo léo là khả năng thực hiện và hoàn thành các động tác nhanh chóng, chính xác. Sự linh hoạt khéo léo của con người không phải sinh ra đã có ngay mà phải trải qua một quá trình rèn luyện nhất định mới có được.
Các tố chất này có quan hệ rất mật thiết với hoạt động của khớp xương, sự đàn hồi của các dây chằng, với sức mạnh của cơ bắp,dưới sự chi phối của hệ thống thần kinh. Vì thế, ở lứa tuổi các em chỉ có luyện tập chăm chỉ mới mang lại cho các em những tố chất đã nêu ở trên
2. THỰC TRẠNG DẠY MÔN NHẢY CAO Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
Qua nghiên cứu thực tế giảng dạy ở các trường: giảng dạy còn chung chung, chưa chú ý đến các bài tập bổ trợ và chi tiết kỹ thuật các môn nói chung và nhảy cao nói riêng. 
Các bài tập bổ trợ không chú ý đến, các bài tập kỹ thuật mới thực hiện qua loa rồi tiến hành kiểm tra thành tích.
Học sinh thực hiện kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng không chuẩn.
Chính những thực trạng này cũng là những điểm xuất phát để tôi mạnh dạn nghiên cứu nhữn vấn đề mà tôi đã trình bày ở trên.
3. BIỆN PHÁP THAY THẾ
a. Để thực hiện được nội dung của đề tài, trong thời gian qua tôi đã tiến hành áp dụng một số bài tập cụ thể theo thứ tự sau đây:
Bài tập 1: Hướng dẫn học sinh cách xác định chân giậm nhảy.
Chạy đà chính diện – giậm nhảy co chân qua xà sau đó cho các em chạy đà chính diện - giậm nhảy chân lăng duỗi thẳng qua xà
Bài tập 2 : Lò cò tiếp sức : kẻ hai vạch cách nhau 10m , chia lớp thành 4 tổ mổi tổ chia làm hai hàng đứng đối diện nhau sau vạch. Khi có lệnh học sinh đứng đầu hàng ở mổi tổ chân lăng co, tay cầm cờ chân giậm nhảy lặc lò cò sang hàng đối diện trao cờ cho đồng đội của mình và di chuyển ra ngoài (khi lò cò không được đổi chân , không được để chân co trạm đất) và học sinh đối diện tiếp tục như học sinh xuất phát . Cứa lần lượt như vậy cho đến hết. Tổ nào xong trước ít phạm quy thì tổ đó sẽ thắng 
Các trường hợp phạm quy : 
 + Xuất phát trước lệnh hoặc trước khi nhận được cờ của người trước
 + Để cờ rơi lúc nhặt lên lấn đường
 + Trao cờ xong đi ra không đúng quy định làm cản trở đối phương
Bài tập 3 : Nhảy dây : hai tay quay dây, chân lăng co chân giậm nhảy bật lên để dây qua 
Cho đừng đôi học sinh tự thi đấu với nhau xem ai có số vòng quay nhiều hơn
Bài tập 4 : Đứng tại chổ đá lăng 
+ Chuẩn bị : Đứng một chân trước, một chân sau ,tay cùng phía với chân trước vịn vào vai bạn 
+ Động tác : dùng sức của đùi và hông chủ động đá lăng chân về trước –lên cao, sau đó thả lỏng, hạ thấp chân xuống dưới-ra sau như quả lắc đồng hồ và lặp lại bài tập. Khi đá chân lên cao, thân người thẳng, chân giậm theo đà dướn lên cao, không được co gối và hạ thấp trọng tâm
Bài tập 5 : Di chuyển đá lăng :
Hai học sinh tập với nhau, học sinh số một đứng tại chổ rơ tay cao, học sinh số hai đi ba bước giậm nhảy đá lăng vào tay bạn ,tập 5-10 lần sau đó đổi ngược lại . Học sinh chú ý giữ thân người thẳng không để ngửa ra sau dễ bị ngã 
Bài tập 6 : Đứng tại chỗ đá lăng ,xoay mũi (gót) bàn chân :
+ Chuẩn bị : Đứng chân giậm nhảy phía trước, chân lăng ở phía sau hơi co mũi bàn chân chạm đất, tay cùng chiều với chân giậm nhảy vịn vào vai bạn 
+ Động tác : Dùng sức của đùi, hông chủ động đá chân lăng về trước lên cao, sau đó xoay mũi bàn chân vào phía trong, gót bàn chân ra ngoài, đồng thời xoay thân người và xoay chân trụ thành tư thế mông quay về trước (so với hướng ban đầu, xoay 180 độ), tay bên chân lăng lăng lên ép xuống, chân lăng lúc này trở thành ở trên cao phía sau, thân người ngã về trước .
Động tác này lúc đầu phân thành hai nhịp để tập :
 Nhịp 1 : Đá lăng về trước- lên cao
 Nhịp 2 : Xoay mũi (gót) chân lăng kết hợp với xoay thân và chân trụ để thay đổi hướng 
(khi học sinh thực hiện thuần thục,tập phối hợp liên tục hai nhịp trên với nhau)
Bài tập 7 : Đi một bước đá lăng, xoay mũi(gót) bàn chân
+ Chuẩn bị : như bài tập trên nhưng chân giậm nhảy ở phía sau.
+ Động tác : Bước chân giậm nhảy về trước một bước vừa phải, sau đó chuyển trọng tâm vào chân giậm nhảy, chân lăng trở thành chân phía sau, hơi co.
Đá chân lăng về trước –lên cao
Xoay mũi (gót) bàn chân lăng kết hợp với xoay chân trụ và thân trên để thay đổi hướng thân người.
Động tác này lúc đầu tập chậm và phân thành 3 nhịp sau đó phối hợp liên tục lại với nhau.
Khi học sinh đã thực hiện được tương đối động tác thì cho học sinh đi 3-5 bước đá lăng, xoay mũi (gót) bàn chân
Bài tập 8 : Đà một bước- giâm nhảy đá lăng
+ Chuẩn bị : Đứng chân lăng phía trước, chân giâm nhảy phía sau hơi co, mũi bàn chân chạm đất, hai tay buông tự nhiên.
+ Động tác : Hơi ngã thân trên ra sau lấy đà, sau đó lại chuyển về trước kết hợp với chân giậm nhảy về trước một bước vừa phải. Tiếp theo chuyển trọng tâm vào chân giậm nhảy, đồng thời chân giậm nhảy hơi khuỵu ngối và hạ thấp trọng tâ, sau đó kết hợp giậm nhảy với đá chân lăng về trước-lên cao.
Tiếp theo xoay mũi (gót) chân kết hợp với chân giậm nhảy rời khỏi mặt đất và co nhanh lại, khi thân người xoay 180 độ thì lại duỗi chân giậm nhảy ra để chủ động tiếp đất
Chú ý : Sau khi giậm nhảy, lúc cơ thể đang bật bổng lên cao, không được ngã thân trên ra sau, mà thân trên phải dướn thẳng lên cao. Khi xoay mũi (gót) chân mới được ngã thân trên và xoay người, nếu không dễ bị ngã
Bài tập 9 : Mô phỏng động tác qua xà:
+ Chuẩn bị : Đứng bên cạnh xà chếch một khoãng phù hợp với mình, chân giậm phía trước, chân lăng phía sau hơi co, mũi chân chạm đất, hai tay tự nhiên.
+ Động tác : Đá chân lăng về trước – lên cao (trên đỉnh xà ) xoay mũi ( gót) chân lăng đồng thời xoay thân người, bàn chân lăng sau khi xoay ở phía trên cao bên kia xà.
Bài tập 10: Chạy đà chính diện – giậm nhảy co chân qua xà 
+ Chuẩn bị : Đứng cách xà 5-7 bước đà mặt hướng vuông góc vào xà . Tư thế trước chạy đà đứng chân trước chân sau hoặc hai chân song song trước vạch xuất phát hoặc đi tự do vài bước đến vạch xuất phát rồi mới tiến hành chạy đà.
+ Động tác : chạy đà chính diện với xà, sau đó đá lăng chân về trước rồi co chân giậm nhảy qua xà theo tư thế ngồi xổm nhưng chân lăng duỗi thẳng, chân giậm nhảy co.
Bài tập 11 : Giới thiệu toàn bộ kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng
 Thực hiện bài tập này bằng cách làm mẫu chính xác kỹ thuật động tác. Cho học sinh xem tranh vẽ, xem băng hình kỹ thuật động tác. Đồng thời giáo viên cũng giới thiệu rõ tính ưu việt của nhảy cao nằm nghiêng, so sánh với kiểu nhảy bước qua mà các em đã học. Mục đích của bài tập này nhằm giúp các em những nhận thức ban đầu của kỹ thuật, thấy được cái hay cái đẹp cuả kiểu nhảy gợi niềm say mê, yêu thích cho các em
Bài tập 12 : Thực hiện chạy đà –giậm nhảy trên vòng quy định
Bài tập này nhằm mục đích giúp học sinh nắm được động tác đá lăng dọc và thu gối chân giậm lên cao theo hướng chạy đà. Cụ thể là thực hiện chạy đà bằng những bước đà ngắn và nhanh rồi thức hiện giậm nhảy trên vòng tròn quy định( vòng tròn cách xà 1- 1.5 bàn chân ).Khi bay lên cần thu nhanh chân giậm lại(co gối) rồi sau đó duỗi chân chạm đất. Ở bài tập này chưa thực hiện xoay thân và mũi chân lăng. Khi lên lớp hướng dẫn bài tập này cần chia tổ luyện tập: một tổ tập với đệm, còn tổ kia tập bổ trợ ngoài đệm.
Bài tập 13: Thực hiện chạy đà – giậm nhảy –xoay thân, mũi (gót) bàn chân lăng 
Sau khi tập lặp lại bài tập trên, hướng dẫn các em hạ chân giậm xuống và đồng thời xoay mũi chân lăng ngoài để tạo động tác xoay thân.Đây chính là động tác quan trọng nhât của kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng. Vì vậy khi hướng dẫn động tác phải kết hợp làm mẫu động tác nhiều lần và hướng dẫn các em xem lại tranh vẽ để học sinh kịp xây dựng khái niệm đúng.
Khi thực hiện bài tập này cần tập chia nhỏ động tác: đá lăng và xoay mũi chân. 
Có thể kết hợp với bạn tập để hỗ trợ xoay-giữ chân lăng trên cao để có cảm giác đúng.
Bài tập 14: Mô phỏng động tác tiếp đất:
Hướng dẫn học sinh động tác mô phỏng tư thế tiếp đất: Hai tay chống đất trước chân giậm, chân lăng co cao ở phía sau, thân người cúi gập. Bài tập này cần tiến hành tập đồng loạt đệm theo nhịp hô quy định của giáo viên. 
Sau đó cho học sinh thực hiện chạy đà giậm nhảy qua xà chếch rơi xuống đất trên chân giậm và hai tay vào vị trí đã đánh dấu ở trên đệm ( chú ý vị trí này phải ở gần xà và tư thế thân người phải song song với xà). 
Bài tập 15: Tập hoàn thiện kĩ thuật với mức xà thấp đến mức xà cao dần
Thực hiện động tác nhảy qua xà thấp với đà 3-5 bước theo các vạch đã đánh dấu. Bài tập này giúp các em ổn định kỹ thuật với bước đà chuẩn.
Hoàn thiện kĩ thuật với mức xà có độ cao vừa phải. Học sinh thực hiện thành thục cả bốn giai đoạn với mức xà vừa phải để giúp các em nắm chắc kỹ thuật.
Hướng dẫn các em nâng dần mức xà với bước đà kéo dài. Qua bài tập này giúp 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_huong_dan_mot_so_bai_tap_bo_tro_va_ki_thuat_nhay_cao_na.doc
  • docBia.doc
  • docMuc luc.doc
  • docPhieu danh gia SKKN.doc
  • docTai lieu tham khao.doc