Sáng kiến kinh nghiệm Kĩ năng nhận dạng và giải quyết vấn đề đối với bài thi học sinh giỏi quốc gia môn Địa lí

Sáng kiến kinh nghiệm Kĩ năng nhận dạng và giải quyết vấn đề đối với bài thi học sinh giỏi quốc gia môn Địa lí

Từ khi môn địa lý được lựa chọn là môn thi học sinh giỏi quốc gia và nhất là những năm gần đây, các nhà trường , các giáo viên địa lý đều xác định đây là một nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vinh dự, việc thành lập, bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi các các cấp là một hoạt động chuyên môn sâu, giành cho những giáo viên có năng lực chuyên môn, tâm huyết với nghề và giành cho những học sinh có khả năng tư duy độc lập, yêu thích môn địa lý.

 Ở giai đoạn nước rút, ngoài việc tiếp tục ôn luyện cần chú ý trang bị cho học sinh kiến thức và kĩ năng làm bài, đặc biệt là kĩ năng phân tích đề và trả lời câu hỏi. Điều đó đã góp phần duy trì và nâng cao kết quả đội tuyển môn địa lí của trường THPT Chuyên những năm học qua. Vì vậy nội dung của đề tài chú ý vào việc nâng cao kĩ năng nhận dạng câu hỏi và giải quyết vấn đề đối với bài thi HSG môn địa lí.

 

doc 21 trang cuonglanz2a 8501
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Kĩ năng nhận dạng và giải quyết vấn đề đối với bài thi học sinh giỏi quốc gia môn Địa lí", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
PHẦN I : MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của việc lựa chọn đề tài 
II. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
III. Mục đích nghiên cứu 
IV. Đối tượng và phạm vi áp dụng
V. Hiệu quả áp dụng của đề tài.
PHẦN II : NỘI DUNG
I. Các dạng câu hỏi lý thuyết. 
 1. Dạng giải thích.
 2. Dạng so sánh
 3. Dạng chứng minh
 4. Dạng trình bày 
II. Các dạng câu hỏi thực hành.
 1. Làm việc với Atlat Địa lí Việt Nam.
 2. Làm việc với bảng số liệu.
 3. Làm việc với sơ đồ, lược đồ, hình vẽ địa lí.
 4. Làm việc với lát cắt địa hình.
 5. Bài tập tính toán 
PHẦN III : KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
2
2
3
3
3
4
4
6
8
10
11
11
13
16
18
19
21
21
KĨ NĂNG NHẬN DẠNG VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI BÀI THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA MÔN ĐỊA LÍ.
PHẦN I : MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của việc lựa chọn đề tài 
Từ năm học 2007- 2008 đến nay, đề thi học sinh giỏi quốc gia môn Địa lý gồm 7 câu hỏi với khoảng 14 ý phải trả lời. Nội dung kiến thức và kỹ năng trong thi quốc gia đòi hỏi học sinh cũng ngày càng cao. Đây thực sự là một thách thức đối với học sinh và giáo viên đứng đội tuyển.
Là giáo viên đã có một số năm tham gia bồi dưỡng đội tuyển, tôi thấy bên cạnh việc cung cấp kiến thức, kỹ năng, việc tổng kết các dạng câu hỏi và cách giải cho học sinh là rất quan trọng. Nó giống như việc chúng ta cung cấp nguyên liệu và cách chế biến nguyên liệu cho từng thực đơn khác nhau vậy. 
Thực tế cho thấy, nhiều học sinh có kiến thức nhưng do khả năng vận dụng kém, không biết cách làm bài nên kết quả thi thấp. Với cách ra đề thi như hiện nay, người giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh vận dụng linh hoạt các kiến thức và kỹ năng đã học để xử lý câu hỏi. Mỗi dạng câu hỏi đòi hỏi phải có cách trả lời một khác.Vì vậy, học sinh cần xác định được câu hỏi trong đề thi thuộc dạng nào để có cách trả lời phù hợp, nhằm đạt kết quả cao. 
II. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Từ khi môn địa lý được lựa chọn là môn thi học sinh giỏi quốc gia và nhất là những năm gần đây, các nhà trường , các giáo viên địa lý đều xác định đây là một nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vinh dự, việc thành lập, bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi các các cấp là một hoạt động chuyên môn sâu, giành cho những giáo viên có năng lực chuyên môn, tâm huyết với nghề và giành cho những học sinh có khả năng tư duy độc lập, yêu thích môn địa lý.
	Ở giai đoạn nước rút, ngoài việc tiếp tục ôn luyện cần chú ý trang bị cho học sinh kiến thức và kĩ năng làm bài, đặc biệt là kĩ năng phân tích đề và trả lời câu hỏi. Điều đó đã góp phần duy trì và nâng cao kết quả đội tuyển môn địa lí của trường THPT Chuyên những năm học qua. Vì vậy nội dung của đề tài chú ý vào việc nâng cao kĩ năng nhận dạng câu hỏi và giải quyết vấn đề đối với bài thi HSG môn địa lí.
III. Mục đích nghiên cứu 
Trao đổi một số kinh nghiệm về phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lý lớp 12 góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục mũi nhọn ở trường THPT chuyên tỉnh Lào Cai nói riêng và các trường THPT trên địa bàn tỉnh Lào Cai nói chung, từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu trong các trường THPT.
IV. Đối tượng và phạm vi áp dụng
Giáo viên và học sinh đội tuyển môn địa lý ở trường THPT chuyên Lào Cai và các trường THPT trên địa bàn tỉnh. 
V. Hiệu quả áp dụng của đề tài.
Việc trang bị cho học sinh đội tuyển kĩ năng nhận dạng câu hỏi khi phân tích đề đã góp phần duy trì và nâng cao kết quả đội tuyển môn địa lí những năm học qua.
Số lượng giải quốc gia môn địa lí trường THPT Chuyên đã đạt trong những năm học vừa qua.
Bảng 2: kết quả bồi dưỡng HSG môn địa lý trường THPT chuyên Lào Cai các năm
Năm học
2003-2004
2004-2005
2005-2006
2006-2007
2007-2008
2008-
2009
2009-2010
2010-2011
2011-2012
2012-2013
Số HSG cấp tỉnh
3
6
6
3
5
6
7
9
11
10
Số HSG Quốc gia
2
2
2
2
1
2
2
4
5
4
	Qua việc nghiên cứu và viết đề tài, bản thân tôi cũng thấy mình được trưởng thành về chuyên môn và sẽ tiếp tục áp dụng một cách hệ thống hơn cho học sinh đội tuyển địa lí các kĩ năng phân tích đề trong các đợt thi tiếp theo.
PHẦN II : NỘI DUNG
	Trong phần nội dung chính đề tài tôi đi vào hệ thống các dạng câu hỏi trong bài thi HSG Quốc Gia môn địa lí và cách giải quyết của từng dạng câu hỏi.
I. Các dạng câu hỏi lý thuyết.
	Các dạng câu hỏi lí thuyết trong thi học sinh giỏi quốc gia bao gồm: giải thích, so sánh, chứng minh, trình bày. 
1. Dạng giải thích.
* Phân loại.
Các câu hỏi giải thích thường bắt đầu với cụm từ “tại sao”, “giải thích”. Dựa theo cách giải, có thể chia dạng câu hỏi giải thích thành hai loại là: loại câu hỏi có cách giải theo mẫu tương đối cố định và loại câu hỏi không theo mẫu cố định. Có thể bắt gặp những câu hỏi dạng này khá nhiều trong các đề thi học sinh giỏi quốc gia, câu hỏi đó có thể ở dạng lí thuyết đơn thuần hoặc ẩn trong các bài tập về sử dụng Atlat, hay sử dụng lược đồ, sơ đồ, bảng số liệu,  
Loại câu hỏi giải thích có cách giải theo mẫu cố định bao gồm mẫu: các nhân tố ảnh hưởng, mẫu khái niệm. 
Mẫu giải thích dựa vào các nhân tố ảnh hưởng như trong đề thi năm 2010: “Tại sao nhiệt độ trung bình năm trên Trái Đất không giảm liên tục từ Xích đạo về hai cực?”, năm 2011: “Giải thích tại sao các hoạt động dịch vụ ở nước ta phân bố không đều” 
Mẫu giải thích dựa trên khái niệm như đề thi năm 2010: “Theo khái niệm về các hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp, có thể coi tỉnh Quảng Ninh là trung tâm công nghiệp than được không”, năm 2011: “Theo khả năng bị hao kiệt trong quá trình sử dụng của con người, xếp nước vào loại tài nguyên có thể bị hao kiệt được không? Tại sao?”
Loại câu hỏi giải thích có cách giải không theo mẫu cố định khá khó, tùy theo yêu cầu của câu hỏi phải đưa ra cách giải thích phù hợp. Có thể lấy ví dụ như trong đề thi năm 2010: “Tại sao cần phải chú trọng đầu tư hơn nữa đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở các vùng dân tộc ít người?”, năm 2008: “Tại sao trong việc khai thác nông nghiệp theo chiều sâu ở Đông Nam Bộ, vấn đề thuỷ lợi có ý nghĩa hàng đầu?”
* Cách giải.
Loại câu hỏi giải thích có cách giải theo mẫu cố định về các nhân tố ảnh hưởng. Cách giải loại câu hỏi này chỉ cần dựa vào kiến thức đã có về các nhân tố ảnh hưởng. Về lí thuyết đây là kiến thức cơ bản đã được học trong sách giáo khoa. Trên cái nền chung về các nhân tố ảnh hưởng nếu nhân tố nào giữ vai trò quyết định thì trả lời đầu tiên rồi đến các nhân tố khác, nhân tố nào không liên quan thì không trình bày. 
Ví dụ: đề thi năm 2011 “Giải thích tại sao các hoang mạc và bán hoang mạc thường phân bố từ khu vực 200 đến 400 vĩ Bắc và Nam”. Giải thích dựa vào các nhân tố ảnh hưởng đến lượng mưa (nguyên nhân hình thành hoang mạc do ít mưa): có 5 nhân tố ảnh hưởng đến lượng mưa là khí áp, frong, gió, dòng biển, địa hình. Trong trường hợp này chỉ có 2 nhân tố ảnh hưởng là khí áp và gió (khí áp cao, dòng biển lạnh) không trình bày các nhân tố còn lại.
Loại câu hỏi theo mẫu khái niệm: cần dựa vào các khái niệm cụ thể để giải thích. Ví dụ đề thi năm 2010: “Theo khái niệm về các hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp, có thể coi tỉnh Quảng Ninh là trung tâm công nghiệp than được không”. Chúng ta giải dựa trên khái niệm thế nào là trung tâm công nghiệp - là một khu vực tập trung công nghiệp gắn liền với một đô thị vừa hoặc lớn, trong khi đó tỉnh Quảng Ninh là một đơn vị hành chính không phải là đô thị vừa hoặc lớn, hoạt động khai thác than trải rộng trên địa bàn của tỉnh nên không thể gọi là trung tâm công nghiệp than được. 
Loại câu hỏi có cách giải không theo mẫu cố định: Tùy theo yêu cầu của câu hỏi phải đưa ra cách giải thích hợp. Quy trình giải loại câu hỏi này bao gồm 3 bước: 1/ Đọc kĩ câu hỏi để xem câu hỏi yêu cầu phải giải thích cái gì, 2/ Tái hiện kiến thức có liên quan đến câu hỏi, sắp xếp tìm mối liên hệ giữa chúng với nhau, 3/ Đưa ra các lí do để giải thích theo yêu cầu của câu hỏi. Ví dụ đề thi năm 2008: “Tại sao trong việc khai thác nông nghiệp theo chiều sâu ở Đông Nam Bộ, vấn đề thuỷ lợi có ý nghĩa hàng đầu?”. Kiến thức liên quan đến câu hỏi bào gồm khó khăn chính trong phát triển nông nghiệp theo chiều sâu (thiếu nước), ý nghĩa của thuỷ lợi trong vấn đề giải quyết khó khăn đó. Tổng hợp lại chúng ta sẽ đưa ra hai lí do: thứ nhất Đông Nam Bộ có một mùa khô sâu sắc và kéo dài, nhiều vùng sản xuất nông nghiệp thiếu nước nghiêm trọng. Thứ hai, việc giải quyết nước tưới cho vùng khô hạn trong mùa khô và tiêu nước cho các vùng thấp làm cho diện tích đất trồng trọt tăng lên, hệ số sử dụng đất trồng cây hàng năm cũng tăng, làm tăng khả năng bảo đảm lương thực thực phẩm của vùng. 
2. Dạng so sánh
* Phân loại.
Đây là dạng câu hỏi yêu cầu các em học sinh giỏi phải sử dụng khá nhiều các thao tác tư duy bởi nó đòi hỏi các em phải tự tìm ra sự giống nhau và khác nhau giữa các đối tượng cần phải so sánh, tự xác định các tiêu chí để so sánh sao cho hợp lí. Thường thì những câu hỏi so sánh hay ẩn trong bài tập sử dụng Atlat và kiến thức đã học. Dạng câu hỏi so sánh có thể phân thành hai loại: loại câu hỏi so sánh hai hay nhiều chỉnh thể với nhau và loại câu hỏi so sánh một bộ phận của hai hay nhiều chỉnh thể. 
Thứ nhất, về dạng câu hỏi so sánh hai hay nhiều chỉnh thể với nhau. Chỉnh thể ở đây có thể hiểu là một đối tượng địa lý tự nhiên hoặc kinh tế xã hội tương đối hoàn chỉnh như vùng hay miền địa lý tự nhiên, vùng thuộc lĩnh vực địa lí kinh tế xã hội (vùng chuyên canh, vùng kinh tế) hoặc ngành kinh tế cũng như một nội dung trọn vẹn nào đó về dân cư. Với các chỉnh thể này việc so sánh cần phải đa chiều, toàn diện. 
Ví dụ như đề thi năm 1999: “So sánh hai vùng chuyên canh cây công nghiệp Đông Nam bộ và Trung du miền núi phía Bắc?”, năm 2010: “So sánh việc phát triển tổng hợp kinh tế biển của Đông Nam Bộ với Duyên hải Nam Trung Bộ?”
Thứ hai, về loại câu hỏi so sánh một bộ phận của hai hay nhiều chỉnh thể. Yêu cầu của nó đòi hỏi sự so sánh không phải toàn bộ chỉnh thể mà là một bộ phận nào đó của các chỉnh thể với nhau. Dạng câu hỏi này bao trùm cả phần địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế xã hội. Ví dụ như đối với địa lý tự nhiên Việt Nam thì các bộ phận đó là thành phần tự nhiên, đặc điểm tự nhiên, thế mạnh và hạn chế của thiên nhiên giữa các vùng. Đối với Địa lý kinh tế xã hội, các bộ phận có thể gặp là thế mạnh, nguồn lực, tình hình phát triển, cơ cấu, phân bố...
Ví dụ như đề thi năm 2008: “So sánh đặc điểm sông ngòi miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ với miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ?”, đề thi năm 2011: “So sánh thế mạnh tự nhiên để phát triển nông nghiệp ở Trung du, miền núi Bắc Bộ và Tây Nguyên?”
* Cách giải
Dù so sánh chỉnh thể hay bộ phận thì đều phải qua quy trình gồm 3 bước. Bước 1: Tìm sự giống nhau và khác nhau giữa các đối tượng cần phải so sánh. Bước thứ nhất được coi là quan trọng và không thể thiếu được trong quy trình xử lý câu hỏi. Tuy nhiên ý nghĩa của nó chỉ giới hạn ở việc định hướng cách giải (tìm sự giống nhau và khác biệt, hoặc chỉ 1 trong 2). Tránh trường hợp không hiểu câu hỏi các thí sinh lần lượt trình bày theo kiểu thuộc bài. Bước 2: Xác định các tiêu chí để so sánh. Đây là bước có ý nghĩa quyết định đến chất lượng bài thi vì trình bày sự giống nhau và khác nhau theo các tiêu chí giúp cho bài làm trở nên mạch lạc và giảm thiểu việc bỏ sót ý. Muốn xác định tương đối chính xác các tiêu chí để so sánh cần phải biết hệ thống hóa kiến thức đã học. Mặt khác cũng phải chú ý đến loại câu hỏi (so sánh chỉnh thể hay so sánh bộ phận) để lựa chọn tiêu chí cho phù hợp. Bước 3: Lấp đầy các tiêu chí băng kiến thức đã học.
Đối với câu hỏi so sánh nên đưa ra khoảng 3 tiêu chí. Nếu có quá ít tiêu chí thì dễ bị sót ý, nhưng nhiều tiêu chí quá dẫn tới phức tạp không cần thiết hay không đủ kiến thức để lấp đầy hết các tiêu chí. 
Để làm bài mạch lạc đối với mỗi phần (giống nhau và khác nhau) cần phải so sánh theo từng tiêu chí. Khi trình bày sự giống nhau, cần làm rõ các đối tượng phải so sánh có sự tương đồng như thế nào theo từng tiêu chí. Sau đó tiếp tục làm tương tự như vậy đối với phần khác nhau.
Khi làm bài có 2 cách thể hiện. Cách thứ nhất là chia đôi tờ giấy thi theo chiều dọc, một bên trình bày sự giống nhau và bên kia là sự khác nhau. Cách này không nên sử dụng vì hạn hẹp về diện tích. Cách 2 lần lượt phân tích sự giống nhau rồi đến khác nhau theo từng tiêu chí. Nên chọn cách này vì có thể trình bày được chi tiết, đầy đủ nội dung cần phải so sánh mà không bị giới hạn bởi tờ giấy thi.
Hướng dẫn cách giải cụ thể đối với loại câu hỏi so sánh chỉnh thể: Yêu cầu của loại câu hỏi này là phải so sánh toàn bộ hai hay nhiều chỉnh thể với nhau. Chỉnh thể có thể là vùng, miền hoặc ngành kinh tế. Quy trình xử lý loại câu hỏi này thực hiện qua 3 bước như đã nói phần trên. Khi so sánh hai hay nhiều ngành với nhau, có thể gợi ý một số tiêu chí dưới đây: vai trò của ngành trong nền kinh tế (của cả nước hoặc của vùng), nguồn lực phát triển (hay còn gọi là điều kiện hoặc nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển và phân bố của ngành), tình hình phát triển, cơ cấu (ngành, lãnh thổ); hướng phát triển. Khi so sánh hai hay nhiều vùng lãnh thổ có thể tham khảo các gợi ý dưới đây: vai trò, quy mô hay vị trí địa lý của vùng; nguồn lực hay điều kiện phát triển; hướng chuyên môn hóa; tình hình phát triển các ngành trong vùng; phân bố; hướng phát triển ... Khi so sánh hai miền tự nhiên thì so sánh về vị trí của miền, địa hình, khí hậu, đất, sinh vật, sông ngòi, 
Đối với loại câu hỏi so sánh bộ phận, về nguyên tắc, câu hỏi yêu cầu so sánh bộ phận nào thì phải tìm tiêu chí so sánh cho bộ phận ấy. Đối với câu hỏi so sánh nguồn lực, trước hết phải nắm chắc khái niệm. Thế mạnh, nguồn lực bao gồm thế mạnh nguồn lực về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội. Tuy nhiên cần lưu ý, đối với các câu hỏi yêu cầu so sánh thế mạnh để phát triển một ngành nào đó giữa hai hay nhiều vùng, bên cạnh tiêu chí vị trí địa lý, có thể bổ sung thêm tiêu chí quy mô hay vai trò của vùng. Nếu câu hỏi yêu cầu so sánh thế mạnh thì chỉ tập trung phân tích lợi thế mà không cần đề cập đến hạn chế. Ngược lại, khi so sánh nguồn lực thì nêu cả thế mạnh lẫn hạn chế. Khi so sánh về yếu tố tự nhiên như địa hình cần nêu về độ cao, hướng sườn, độ dốc, hướng nghiêng, ; đối với khí hậu thì nêu chế độ nhiệt, chế độ mưa, 
3. Dạng chứng minh
* Phân loại
So với các câu hỏi giải thích và so sánh thì dạng câu hỏi chứng minh học sinh thường dễ làm hơn vì nó chủ yếu yêu cầu các em hệ thống hóa lại kiến thức và số liệu liên quan đến câu hỏi. Dạng câu hỏi chứng minh bao gồm: chứng minh hiện trạng và chứng minh tiềm năng. 
Đối với dạng câu hỏi chứng minh tiềm năng. Ví dụ về dạng câu hỏi chứng minh tiềm năng như trong đề thi năm 2009: “Chứng minh Trung du và miền núi Bắc Bộ có nhiều khả năng để phát triển công nghiệp”
Trong dạng câu hỏi chứng minh hiện trạng, hiện trạng ở đây bao gồm tất cả các hiện tượng tự nhiên, dân cư, kinh tế xã hội. Loại câu hỏi này yêu cầu cao hơn so với dạng chứng minh tiềm năng vì thường cách giải loại câu hỏi này nhìn chung không theo một mẫu nhất định. Câu hỏi yêu cầu như thế nào thì phải đưa ra bằng chứng chứng minh như thế đó. Ví dụ như trong đề thi năm 2008: “Chứng minh Đông Nam Bộ là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất cả nước?”, năm 2002: “Chứng minh rằng ngay trong vùng kinh tế Nam Trung Bộ khí hậu cũng có sự phân hoá đa dạng?”
* Cách giải
Đối với loại câu hỏi chứng minh hiện trạng. Cách giải loại câu hỏi này nhìn chung không theo một mẫu nhất định. Câu hỏi yêu cầu như thế nào thì phải đưa ra bằng chứng chứng minh như thế đó. Cách giải bao gồm 3 bước:
Bước 1: Đọc kĩ và nhận dạng câu hỏi. Vấn đề cần chú ý là câu hỏi yêu cầu chứng minh cái gì về tự nhiên hay về kinh tế xã hội. Việc nhận dạng chính xác câu hỏi là tiền đề quan trọng để định hướng và lựa chọn cách giải phù hợp.
Bước 2: Hệ thống hóa kiến thức và số liệu liên quan đến câu hỏi, cần chú ý gắn với số liệu và kiến thức. Về kiến thức cần phải dựa vào yêu cầu câu hỏi để lựa chọn kiến thức thích hợp. Về số liệu cần quan tâm số liệu gốc và số liệu bản lề.
Bước 3: Sử dụng kiến thực cơ bản và số liệu đã chọn để chứng minh theo yêu cầu của câu hỏi. Vấn đề then chốt là cần tìm được các bằng chứng có tính thuyết phục cao.
Đối với câu hỏi chứng minh hiện trạng nên thường xuyên sử dụng phương pháp so sánh.
Trong câu hỏi chứng minh tiềm năng: cách giải loại câu hỏi này có thể theo một mẫu nhất định. Các bước tiến hành tương tự như câu hỏi chứng minh hiện trạng. Các bằng chứng để chứng minh tiềm năng của một ngành được thể hiện thông qua: Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, điều kiện kinh tế xã hội.
4. Dạng trình bày
Câu hỏi dạng trình bày rất đa dạng về nội dung, bao gồm câu hỏi về địa lý tự nhiên, địa lý dân cư Việt Nam, địa lý kinh tế xã hội. Ví dụ như đề thi năm 2005: “Nêu ý nghĩa của góc tới”, năm 2006: “Kinh độ địa lí và vĩ độ địa lí là gì?”, năm 2009: “Phân biệt lớp vỏ địa lí và lớp vỏ Trái Đất?”, năm 2011: “Phân biệt tỉ số giới tính với tỉ lệ giới tính?”
Một kiểu nâng cao hơn của dạng trình bày là phân tích, yêu cầu học sinh không chỉ sử dụng kiến thức cơ bản thuần tuý dưới dạng học thuộc bài mà còn phải biết tách riêng từng phần của sự vật hiện tượng địa lí hoặc các thành phần của mối liên hệ sau đó tổng hợp, lựa chọn nhiều kiến thức. Ví dụ như đề thi năm 2010: “Phân tích vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu trong sự phân công lao động theo lãnh thổ?”, năm 2010: “Phân tích mối quan hệ về phân bố của các vòng đai nhiệt và các đai khí áp trên Trái Đất”
Cách giải
Các bước làm như sau: thứ nhất là nhận dạng câu hỏi, thứ hai là tái hiện kiến thức đã học và trả lời theo yêu cầu câu hỏi. Bước này nảy sinh hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất câu hỏi yêu cầu sử dụng kiến thức cơ bản thuần túy dưới góc độ thuộc bài. Trường hợp thứ hai, ngoài yêu cầu về kiến thức cơ bản còn yêu cầu phải tổng hợp, lựa chọn nhiều kiến thức. 
Ví dụ trong đề thi năm 2010: “Phân tích mối quan hệ về phân bố của các vòng đai nhiệt và các đai khí áp trên Trái Đất”, trong câu hỏi này trước hết các em cần trình bày kiến thức cơ bản thuần tuý về sự phân bố của các vòng đai nhiệt và các đai khí áp trên Trái Đất, sau đó các em phải biết tổng hợp kiến thức để xác lập mối liên hệ giữa 2 đối tượng này xem đối tượng nào có tính chất quyết định đến đối tượng nào (sự phân bố các đai khí áp gắn liền, phụ thuộc với sự phân bố các vòng đai nhiệt).
Vì câu hỏi trình bày chủ yếu yêu cầu học sinh tái hiện lại kiến thức nên trong các đề thi học sinh giỏi quốc gia dạng câu hỏi trình bày thường gắn liền với câu hỏi giải thích để trên cơ sở học sinh tái hiện lại kiến thức, sau đó các em phải tư duy để lí giải sự vật hiện tượng địa lí, hiểu rõ bản chất của vấn đề. Hầu như năm nào trong đề thi học sinh giỏi quốc gia cũng có những câu trình bày gắn liền với giải thích trên cơ sở sử dụng Atlat và kiến thức đã học. Ví dụ như đề thi năm 2002: “Trình bày và giải thích về tình hình phát triển cây công nghiệp lâu năm ở nước ta?”, năm 2003: “Trình bày đặc điểm địa hình của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ? Hãy giải thích vì sao có những đặc điểm đó?” 
II. Các dạng câu hỏi thực hành.
	Các dạng câu hỏi bài tập chủ yếu liên quan đến kĩ năng sử dụng kênh hình (Atlat Địa lí Việt Nam, bảng số liệu, lược đồ, sơ đồ, hình vẽ, lát cắt) và kĩ năng tính toán trong địa lí.
1. Làm việc với Atlat Địa lí Việt Nam.
Kĩ năng làm việc với bản đồ là kĩ năng cơ bản của môn địa lí. Nếu không nắm vững kĩ năng này thì khó có thể hiểu và giải thích được các sự vật hiện tượng địa lí, đồng thời cũng rất khó tự mình tìm tòi các kiến thức địa lí khác. Do tính chất cơ bản của kĩ năng nên trong các đề thi học sinh giỏi quốc gia môn địa lí, việc kiểm tra kĩ năng này được thực hiện chủ yếu thông qua yêu cầu làm việc với Atlat Địa lí Việt Nam 
Thông thường câu hỏi gắn với Atlat có dạng “Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy  ”. Cũng có một số câu hỏi yêu cầu học sinh chỉ dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam mà không kết hợp sử dụng kiến thức bên ngoài, kiến thức không có trên Atlat, nhưng số n

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ki_nang_nhan_dang_va_giai_quyet_van_de.doc
  • docBáo cáo tóm tắt hiệu quả sáng kiến.doc
  • docĐơn đăng kí SKKN.doc