SKKN Hướng dẫn học sinh khá giỏi lớp 5 giải một số bài toán bằng phương pháp biểu đồ ven
Theo chiến lược của Đảng và Nhà nước ta là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” đã được cụ thể hoá trong nhiều văn kiện của Đảng và nhà nước. Đặc biệt, khi đất nước ta đang trong quá hiện đại hoá, công nghiệp hoá thì việc bồi dưỡng nhân tài càng được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú trọng hơn. Thực hiện mục tiêu đó, trong những năm qua, song song với việc nâng cao chất lượng đại trà, nhà trường chúng tôi luôn quan tâm, chú trọng đến việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh có năng khiếu ở các môn học. Tuy nhiên từ năm học 2014-2015, thực hiện Thông 30/2014/TT-BGD ngày 28 tháng 8 năm 2014 về việc đánh giá học sinh Tiểu học; Thực hiện Chỉ thị 5105 của BGD về việc chấn chỉnh tình trạng dạy thêm học thêm. Đến năm học 2016-2017, chúng ta lại tiếp tục thực hiện Thông tư 22/2016/TT-BGĐT Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm thông tư số 30/2014/TT-BGD ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo. Trong quá trình thực hiện các thông tư, chỉ chỉ trên, bản thân tôi nhận thấy việc không chấm điểm, không được giao bài tập về nhà (đối với lớp 2b/ngày), không được giao bài ngoài sách giáo khoa,. giúp cho HS không phải chịu nhiều áp lực trong học tập, không còn nặng nề về điểm số, các em được vui chơi, được giáo dục kĩ năng sống nhiều hơn. Tuy nhiên, đối với những học sinh có năng khiếu, những học sinh hoàn thành tốt môn học thì ít có cơ hội để các em phát triển, rèn luyện khả năng tư duy của mình (Đặc biệt là đối với HS lớp 5). Từ năm học 2015-2016, được sự nhất trí của PGD, nhà trường đã tổ chức được các CLB hoc tập. Qua việc sinh hoạt câu lạc bộ các em được học, được vui chơi, được rèn luyện các kĩ năng sống, được củng cố khắc sâu những kiến thức đã học cũng như được nâng cao, mở rộng kiến thức đối với những học sinh có năng khiếu. Đây chính là cơ hội để các em được phát triển, được bộc lộ năng khiếu của mình, đồng thời góp một phần quan trọng trong việc tạo nguồn cho các trường THCS trong huyện.
I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Theo chiến lược của Đảng và Nhà nước ta là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” đã được cụ thể hoá trong nhiều văn kiện của Đảng và nhà nước. Đặc biệt, khi đất nước ta đang trong quá hiện đại hoá, công nghiệp hoá thì việc bồi dưỡng nhân tài càng được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú trọng hơn. Thực hiện mục tiêu đó, trong những năm qua, song song với việc nâng cao chất lượng đại trà, nhà trường chúng tôi luôn quan tâm, chú trọng đến việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh có năng khiếu ở các môn học. Tuy nhiên từ năm học 2014-2015, thực hiện Thông 30/2014/TT-BGD ngày 28 tháng 8 năm 2014 về việc đánh giá học sinh Tiểu học; Thực hiện Chỉ thị 5105 của BGD về việc chấn chỉnh tình trạng dạy thêm học thêm. Đến năm học 2016-2017, chúng ta lại tiếp tục thực hiện Thông tư 22/2016/TT-BGĐT Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm thông tư số 30/2014/TT-BGD ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo. Trong quá trình thực hiện các thông tư, chỉ chỉ trên, bản thân tôi nhận thấy việc không chấm điểm, không được giao bài tập về nhà (đối với lớp 2b/ngày), không được giao bài ngoài sách giáo khoa,.... giúp cho HS không phải chịu nhiều áp lực trong học tập, không còn nặng nề về điểm số, các em được vui chơi, được giáo dục kĩ năng sống nhiều hơn. Tuy nhiên, đối với những học sinh có năng khiếu, những học sinh hoàn thành tốt môn học thì ít có cơ hội để các em phát triển, rèn luyện khả năng tư duy của mình (Đặc biệt là đối với HS lớp 5). Từ năm học 2015-2016, được sự nhất trí của PGD, nhà trường đã tổ chức được các CLB hoc tập. Qua việc sinh hoạt câu lạc bộ các em được học, được vui chơi, được rèn luyện các kĩ năng sống, được củng cố khắc sâu những kiến thức đã học cũng như được nâng cao, mở rộng kiến thức đối với những học sinh có năng khiếu. Đây chính là cơ hội để các em được phát triển, được bộc lộ năng khiếu của mình, đồng thời góp một phần quan trọng trong việc tạo nguồn cho các trường THCS trong huyện. Vậy để nâng cao chất lượng sinh hoạt các CLB học tập, để có nhiều học sinh hoàn thành tốt môn học, học sinh năng khiếu được phát triển năng lực, sở trường đồng thời để các có những kiến thức nền thật vững vàng, chắc chắn thì các giáo viên cần có biện pháp giúp đỡ, động viên, đặc biệt những giáo viên phụ trách các CLB cần phải có phải hình thức sinh hoạt đa dạng, phong phú, cần tích cực hơn trong công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn. Nắm vững chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt cho học sinh đồng thời luôn luôn tìm phương pháp giải các dạng toán nâng cao, mở rộng một cách ngắn gọn, dễ hiểu để giúp các em có cơ phát triển, làm nền móng để các phát triển tốt hơn ở THCS. Đặc biệt đối với một số bài toán toán suy luận lô –gic giải bằng PP biểu đồ ven chính là phần toán cơ bản trong chương trình Toán 6 (Phần tập hợp số) để các em không còn bỡ ngỡ, bắt nhịp tốt với phương pháp, hình thức học mới ở lớp 6, chúng nên cho các em làm quen, va chạm dần với một số bài toán đơn giản ở lớp 5. Chính vì vậy, tôi đã áp dụng sáng kiến “Hướng dẫn học sinh khá giỏi lớp 5 giải một số bài toán bằng phương pháp biểu đồ ven” của bản thân đã được Hội đồng khoa học cấp huyện đánh giá, xếp loại A (Năm 2013-214) để hướng dẫn HS. Các em có hiểu bài, vận dụng làm bài tương đối tốt. Tuy nhiên vì thời gian sinh hoạt CLB em yêu toán chỉ có 1 buổi/tuần và chủ yếu tranh thủ vào thời gian các em hoàn thành bài sớm, vào những tiết tự học. Để trực quan sinh động hơn, học sinh có hứng thú, hấp dẫn với dạng toán này đồng thời cũng là cách hướng dẫn dễ hiểu nhất. Xuất phát từ những lý do cơ bản trên, tôi xin trình bày kinh nghiệm về: Ứng dụng công nghệ thông tin vào hướng dẫn học sinh năng khiếu lớp 5 giải các bài toán bằng sơ đồ biểu đồ ven. để đồng nghiệp tham khảo và góp ý. 2. Mục đích nghiên cứu: Góp phần tìm ra cách Ứng dụng công nghệ thông tin vào hướng dẫn học sinh năng khiếu lớp 5 giải các bài toán bằng sơ đồ biểu đồ ven. 3. Đối tượng nghiên cứu: Ứng dụng công nghệ thông tin vào hướng dẫn học sinh năng khiếu lớp 5 giải các bài toán bằng sơ đồ biểu đồ ven.” 4. Phương pháp nghiên cứu: 4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Qua nghiên cứu các tài liệu giảng dạy, tài liệu về chương trình nâng cao bồi dưỡng học sinh có năng khiếu của nhà xuất bản giáo dục để nắm được các mạch kiến thức cần bồi dưỡng cho học sinh trong đó có Phương pháp giải toán bằng phương pháp biểu đồ ven. 4.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. - Qua quá trình giảng dạy trên lớp, qua các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ, cụm chuyên môn, tôi nghĩ rất cần thiết để thực hiện công tác bồi dưỡng học sinh có năng khiếu, trong đó có cần hướng dẫn học sinh có năng khiếu môn toán giải bài toán bằng phương pháp biểu đồ ven. - Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến sáng kiến: 10 chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 4-5 tập 2 của nhà xuất bản giáo dục; Toán tuổi thơ 1 số 149 tháng 3/năm 2013. 4.3. Phương pháp thống kê xử lý số liệu: Qua khảo sát kết quả giảng dạy trước thực nghiệm, kết quả giảng dạy sau thực nghiệm. Từ đó so sánh, đối chiếu hai phương pháp và rút ra kết luận (Trước thực nghiệm- sau thực nghiệm) 5. Những điểm mới của sáng kiến: Ứng dụng công nghệ thông tin vào trình chiếu, hướng dẫn học sinh giải một số bài toán bằng sơ đồ biểu đồ ven. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. Những bài toán suy luận lô-gic ở tiểu học là những bài toán rất thực tế, nội dung bài toán gắn liền với cuộc sống của các em. Nó được chia làm nhiều dạng bài khác nhau, trong đó có dạng bài giải bằng phương pháp biểu đồ ven. Những bài toán giải bằng phương pháp thường gắn liền với cuộc sống hằng ngày, nó diễn ra với các em ngay trong các hoạt động học tập cũng như vui chơi. VD: Đội tuyển thi đá cầu và đấu cờ vua của trường tiểu học Minh Khai có 20 em, trong đó có 12 thi đá cầu và 13 thi đấu cờ vua. Hỏi có bao nhiêu em trong đội tuyển thi đấu cả hai môn?. Đây là những bài toán không đòi hỏi tính toán phức tạp, nhưng các em, lại rất trìu tượng hoặc lúng túng khi giải. Hoặc có những em có thể suy luận ngay ra kết quả nhưng không giải thích được cách làm. Để giải được những bài toán dạng này, các em cần phải biết vận dụng sáng tạo những kiến thức toán học cơ bản, “những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và phong tục tập quán trong sinh hoạt hàng”(1) ngày để từ những điều kiện đã cho trong đề bài các em phân tích, vẽ biểu đồ rồi giải bài toán. Chính vì vậy, trong quá trình phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu môn Toán, chúng ta cần giúp các em làm quen với các bài toán giải bằng phương pháp biểu đồ ven. 2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. a) Thực trạng hiện nay về công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu ở các môn học nói chung và học sinh có năng khiếu môn Toán nói riêng. Như tôi đã nói ở trên, Từ năm học 2014-2015, thực hiện Thông 30/2014/TT-BGD. Đến năm học 2016-2017 này, chúng ta lại tiếp tuc thực hiện Thông tư 22/2016/TT-BGĐT Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm thông tư số 30/2014/TT-BGD ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo. Nên trong những năm qua, các kì thi học sinh giỏi không còn được tổ chức dẫn đến công tác phát hiện, bồi dưỡng học sinh năng khiếu phần nào hạn chế. Các nhà trường chú trọng nâng cao chất lượng đại trà, mục tiêu giúp học sinh đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng, chú trọng giáo dục kĩ năng sống. Tuy nhiên đối với một số học sinh hoàn thành tốt môn học ít có cơ hội được phát triển, được bộc lộ năng khiếu của mình, được rèn luyện khả năng tư duy, lô –gic. Khi bước sang THCS, khả năng tư duy sẽ không thích ứng kịp với phương pháp ở THCS và nếu như không được chú ý kèm cặp, quan tâm, các em sẽ gặp khó khăn trong học tập các môn học nói chung, môn toán nói riêng. b) Thực trạng của giáo viên khi hướng dẫn học sinh lớp 5 giải một số bài toán bằng phương pháp biểu đồ ven. Nội dung các bài toán suy luận lô-gic giải bằng phương pháp biểu đồ ven không có trong yêu cầu của chuẩn kiến thức kĩ năng nên nhiều giáo viên coi nhẹ, không tự học, tự nghiên cứu, khi gặp phải sẽ lúng túng, không nắm được phương pháp giải thế nào? Hướng dẫn học sinh ra sao? Một số giáo viên do nhiều năm chuyên dạy các lớp 1-2-3, không va chạm đến các dạng cơ bản ở khối 4-5, đồng thời lại không tự học tự bồi dưỡng nên phần nào đó cũng gặp hạn chế khi hướng dẫn học sinh giải các bài toán nâng cao nói chung, các bài toán giải bằng phương pháp biểu đồ ven nói riêng. Một số giáo viên luôn có tinh thần tự học, tự nâng cao trình độ của mình qua việc nghiên cứu tài liệu tham khảo về giải các dạng toán nâng cao, mở rộng, có khả năng bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh có năng khiếu nhưng vẫn còn lúng túng, hạn chế trong phương pháp hướng dẫn học sinh giải các bài toán bằng phương pháp biểu đồ ven này. Mặt khác một số giáo viên vẫn còn hạn chế việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. c) Đối với học sinh trong việc giải các bài toán bằng biểu đồ ven. Vào các tiết tự học ở buổi 2, các buổi sinh hoạt câu lạc bộ, mục đích để các em được làm quen với kiến thức trên chuẩn, tư duy được phát triển, tạo nguồn cho TH cở sở. Thông qua quá trình phát hiện và bồi dưỡng tôi nhận thấy tồn tại một số thực trạng đối với các em về việc giải toán bằng biểu đồ ven như sau: - Khi gặp các bài toán giải bằng phương pháp biểu đồ ven, các em cảm đề bài lạ, trìu tượng, khó hiểu, không biết giải thế nào? Có nhiều em thông minh suy luận ra kết qủa bài toán nhưng lại không biết diễn đạt như thế nào cho người khác hiểu. Có những em cũng biết vẽ sơ đồ, trình bày bài giải đối với những bài chỉ có hai đối tượng đơn giản nhưng đối với những bài có nhiều đối tượng cùng làm hay cùng biết một vấn đề nào đó thì các sẽ rối kể cả trong vẽ biểu đồ hoặc dựa vào biểu đồ để giải bài toán. - Khi hướng dẫn học sinh giải những bài toán suy luận lô-gic bằng phương pháp biểu đồ ven thì vấn đề khó khăn nhất là hướng dẫn học sinh vẽ biểu đồ, hiểu được biểu đồ, dựa vào biểu đồ để giải bài toán. Bởi khi vẽ biểu đồ để giải các bài toán suy luận nay các em rất lúng túng vì không biết khi nào thì vẽ hai hình tròn giao nhau? Khi nào thì vẽ ba hình tròn giao nhau, phần giao nhau ấy biểu thị gì? Để tìm được giá trị của các phần ấy thì làm thế nào? các em thấy rất rối khi quan sát biểu đồ đề tìm ra kết quả bài toán. 2. Kết quả của thực trạng trên Trong năm học 2015 – 2016. Tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 5A với tổng số học sinh là 33 em, chủ nhiệm CLB em yêu Toán của lớp 5A (trong đó có: 15 học sinh hoàn thành xuất sắc các môn học). Trong quá trình giảng dạy, sinh hoạt CLB, tôi luôn chú trọng đến tất cả các đối tượng học sinh. Song song với việc nâng cao chất lượng đài trà, bản thân chú ý phát hiện ra những học sinh có năng khiếu môn Toán rồi lên kế hoạch, xây dựng nội dung bồi dưỡng. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng sáng kiến “Hướng dẫn học sinh khá giỏi lớp 5 giải một số bài toán bằng phương pháp biểu đồ ven” của bản thân đã được Hội đồng khoa học cấp huyện đánh giá, xếp loại A (Năm 2013-214), các em có hiểu bài, vận dụng làm bài tương đối tốt. Tuy nhiên vì thời gian sinh hoạt CLB em yêu toán chỉ có 1 buổi/tuần và chủ yếu tranh thủ vào thời gian các em hoàn thành bài sớm, vào những tiết tự học. Sau một thời gian bồi dưỡng, tôi đã tiến hành tổ chức cho các em làm bài kiểm tra sau: ĐỀ KIỂM TRA MÔN: TOÁN (Thời gian: 40 phút) Bài 1: “Đội tuyển thi đá cầu và đấu cờ vua của trường tiểu học Minh Khai có 20 em, trong đó có 12 thi đá cầu và 13 thi đấu cờ vua. Hỏi có bao nhiêu em trong đội tuyển thi đấu cả hai môn?” Bài 2: “Đội tuyển tham gia thi chạy và bơi của trường có 21 bạn và trong đó có 13 bạn thi chạy và 14 bạn thi bơi. Hỏi có mấy bạn thi đấu cả 2 môn?” Bài 3: “Trong hội nghị có 100 đại biểu tham dự, mỗi đại biểu nói được một hoặc hai trong ba thứ tiếng: Anh, Nga hoặc Pháp. Biết rằng có 39 đại biểu chỉ nói được tiếng Anh, 35 đại biểu nói được tiếng Pháp, 8 đại biểu nói được cả tiếng Anh và tiếng Nga. Hỏi có bao nhiêu đại biểu chỉ nói được tiếng Nga?” KẾT QỦA KIỂM TRA Kết quả cụ thể Bài 1 Bài 2 Bài 3 SL TL SL TL SL TL Vẽ được biểu đồ 15 100% 15 100% 7 46.7% Giải được bài toán theo yêu cầu 15 100% 10 66.7% 5 33.3 Qua quan sát đánh giá của bản thân và kết quả kiểm tra trên, tôi nhận thấy kết quả chưa chưa cao. Điều đó cho thấy bản thân tôi cần rút kinh nghiệm để điều cả về thời gian cũng như phương pháp, hình thức dạy học để thu hút, hấp dẫn được học sinh, học dễ hiểu và đạt kết quả cao hơn. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 1/Giải pháp thực hiện: 1.1. GV cần tích cực tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn. những vẫn đề khó, vướng mắc chúng ta đề xuất đưa vào các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ, nhà trường để cùng nhau trao đổi, thảo luận, học hỏi, rút ra kinh nghiệm cho bản thân nói chung, cách giải, cách hướng dẫn các bài toán bằng phương pháp biều đồ ven nói riêng. Bên cạnh đó, BGH nhà trường thường xuyên luân phiên cách bố trí cách các khối lớp, để giáo có thể dạy được bất kì khối lớp nào, qua đó các giáo viên được va chạm, củng cố lại kiến thức cho bản thân. Tăng cường đưa các dạng toán nâng cao, mở rộng vào phần kiểm tra năng lực trong các kì thi giáo viên giỏi cấp trường. 1.2. GV cần xây dựng hệ thống bài tập theo mức độ từ dế đến khó, từ đơn giản đến phức tạp 1.3. GV có thể đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào hướng dẫn cách giải các bài toán bằng sơ đồ biểu đồ ven: vẽ biểu đồ, tô màu xanh, đỏ,. các phần rồi dựa vào các phần để giải bài toán. Đối với những bài “mẫu”, giáo viên phải gợi mở bằng những câu hỏi dễ hiểu, đặc biệt là hướng dẫn học sinh thật kĩ cách vẽ biểu đồ và xác định các phần trong biểu đồ, rồi tìm cách giải. 1.4. Xây dựng thời gian bồi dưỡng hợp lý. Kiểm tra, đánh giá kết quả bồi dưỡng sau mỗi dạng bài để điểu chỉnh nội dung cũng như phương pháp dạy học. 2/Tổ chức thực hiện a/Xây dựng hệ thống bài tập giải bằng phương pháp biểu đồ ven. Những bài toán về suy luận lô-gic có nhiều phương pháp giải và các em chỉ được làm quen trong các chuyên đề bồi dưỡng học sinh có năng khiếu. Mỗi chuyên đề, mỗi loại sách chỉ có điển hình một số bài. Do vậy, tôi đã chủ động sưu tầm các bài toán giải bằng phương pháp biểu đồ ven ở các loại sách khác nhau rồi tổng hợp thành xây dựng thành một hệ thống bài tập theo mức độ từ dễ đên khó, từ đơn giản đến phức tạp. b/Xây dựng thời gian dạy các bài toán bằng phương pháp biểu đồ ven. Đối với các bài toán suy luận lô-gic mà có thể giải bằng phương pháp biểu đồ ven thì giáo viên có thể xây dựng thành một chuyên đề để tổ chức hướng dẫn cho học sinh. Có thể tổ chức vào thời gian ngay đầu năm học bởi nó không liên quan đến kiến thức trong chương trình sách giáo khoa lớp 5, sau đó sẽ lồng ghép ôn tập trong các dạng toán khác để củng cố lại kiến thức cho học sinh. Sau đó áp dụng kiến thức đã học vào giải đề và vào thời điểm giải đề thì số liệu cần phù hợp với kiến thức chương trình SGK. VD như có bài liên quan đến số liệu là tỉ số phần trăm. c/ Ứng dụng trình chiếu để hướng dẫn học sinh cách giải một số bài toán bằng phương pháp biểu đồ ven Bài toán 1: “Đội tuyển thi đá cầu và thi đấu cờ vua của trường tiểu học Minh Khai có 20 em trong đó có 12 thi đá cầu và 13 em thi đấu cờ vua. Hỏi có bao nhiêu bạn trong đội thi đấu cả hai môn?” a) Phân tích đề : - Bài toán cho ta biết gì? (Trường Tiểu học Minh Khai có 20 học sinh, trong đó 12 em thi đá cầu, 13 em thi đấu cờ vua) - Bài toán yêu cầu chúng ta làm gì? (có bao nhiêu bạn trong đội thi đấu cả hai môn?) b) Hướng dẫn cách vẽ biểu đồ: Cờ vua: 13 HS HS HS ? banban Đá cầu: 12 HS + GV: Ta biểu thị số học sinh thi đá cầu là một hình tròn, số học sinh thi đấu cờ vua là một hình tròn. Vì có một số học sinh vừa thi đá cầu vừa thi đấu cờ vua nên ta vẽ hai đường tròn đó giao nhau. Phần giao nhau biểu thị số HS vừa thi đá cầu vừa thi đấu cờ vua. (GV trình chiếu hình minh họa dưới) Chỉ chơi cờ vua chỉ chơi đá cầu HS ? banban Cờ vua: 13 HS HS Đá cầu: 12 HS + GV: Sau đó ta ký hiệu các phần trên biểu đồ bằng các màu xanh, đỏ, vàng. (GV trình chiếu) Chỉ chơi cờ vua chỉ chơi đá cầu c) Hướng dẫn cách giải: + Yêu cầu HS quan sát biểu đồ và cho biết: ? Phần màu đỏ biểu thị gì? (số học sinh chỉ thi đá cầu) ? Phần màu vàng biểu thị gì? (số học sinh chỉ thi đấu cờ vua) ? Phần màu xanh biểu thị gì? (số học sinh vừa thi đá cầu vừa thi đấu cờ vua) ? Tổng của 3 phần đỏ, xanh, vàng biểu thị bao nhiêu học sinh? (20 học sinh) ? Tổng của hai phần màu đỏ và màu xanh biểu thị bao nhiêu học sinh? (12 học sinh) ? Muốn tìm phần màu vàng tức là số học sinh chỉ thi đấu cờ vua ta làm thế nào (Lấy 20 - 12 =8 em) ?Tổng của hai phần màu xanh và màu vàng biểu thị bao nhiêu học sinh? (13 học sinh) ? Muốn tìm phần màu đỏ, tức là số học sinh chỉ thi đá cầu ta làm thế nào? (lấy 20 - 13 = 7 em) ?Biết phần màu đỏ chỉ 7 học sinh, phần màu vàng chỉ 8 em, muốn tìm phần màu ta làm thế nào?(20-15 = 5 em) Bài giải Số học sinh chỉ thi đấu cờ vua là: 20-12= 8 (học sinh) Số học sinh chỉ thi đấu đá cầu là: 20-13=7 (học sinh) Số học sinh vừa thi đá cầu vừa thi nhảy dây là: 20-8-7= 5 (học sinh) Đáp số: 5 học sinh KL: Bài toán cho biết tổng số học sinh; các phần riêng. Dựa vào tổng và các phần riêng để tìm phần chung - tức là số học sinh vừa thi đá cầu vừa thi nhảy dây. Bài toán 2: “Cô giáo chấm điểm hai bài kiểm tra Toán và Tiếng việt. Tất cả các bạn trong lớp đều đạt điểm khá giỏi. Có 20 bạn đạt điểm khá giỏi môn Toán, 17 bạn đạt điểm khá giỏi môn Tiếng việt, trong đó có 12 bạn đạt điểm khá giỏi cả hai môn. Hỏi lớp học đó có bao nhiêu bạn?” a) Phân tích đề + Bài toán cho ta biết gì? (có 20 bạn đạt điểm khá giỏi môn Toán, 17 bạn đạt điểm khá giỏi môn Tiếng Việt, trong đó có 12 bạn đạt điểm khá giỏi cả hai môn) + Bài toán yêu cầu chúng ta làm gì? (Hỏi lớp có bao nhiêu bạn?) b) Hướng dẫn cách vẽ biểu đồ: + GV: Ta biểu thị số học sinh đạt điểm khá giỏi môn Tiếng Việt là một hình tròn, số học khá giỏi môn Toán là một hình tròn. ? Trong đó có 12 bạn đạt điểm khá giỏi cả hai môn nên ta vẽ biểu đồ này thế nào? (vẽ hai hình tròn giao nhau) ? Phần giao nhau đó biểu thị gì? (biểu thị 12 bạn đạt điểm khá giỏi cả hai môn) -GV trình chiếu hình vẽ minh họa dưới : TV: 17 HS Toán: 12 HS 12 HS Chỉ mônToán (3): Chỉ môn TV + GV: Sau đó ta ký hiệu các phần trên biểu đồ bằng các màu xanh, đỏ, vàng. (GV trình chiếu) 12 HS Toán: 20 HS TV: 17 HS (3): Chỉ môn TV Chỉ mônToán c) Hướng dẫn cách giải: + Yêu cầu HS quan sát biểu đồ và cho biết: ? Phần màu đỏ biểu thì gì? (HS đạt khá giỏi mình môn Toán) ? Phần màu xanh biểu thị gì? (HS đạt khá giỏi cả môn Toán và môn Tiếng việt) ? Phần màu vàng biểu thì gì? (số HS đạt khá giỏi mình môn Tiếng việt) ? Dựa vào biểu đồ, muốn tìm tổng số HS cả lớp ta làm thế nào? (tổng của màu đỏ, xanh, vàng) ? Phần màu đỏ, phần màu vàng biết chưa? Phần màu xanh biểu thị gì? (12 học sinh) ? Tổng của hai phần màu đỏ và màu xanh là bao nhiêu học sinh? (12 HS). Muốn tìm phần màu đỏ có bao nhiêu HS ta làm thế nào? (Lấy tổng của màu đỏ và màu xanh trừ đi phần màu xanh, tức là lấy 20-12=8) ? Tổng của màu xanh và màu vàng có bao nhiêu học sinh? (17 học sinh). Muốn tìm phần màu vàng biểu thị bao nhiêu học sinh ta làm thế nào? (Lấy tổng của màu xanh và màu vàng trù đi phần màu xanh, tức là lấy 17-12=9 học sinh) Bài giải: Số bạn chỉ đạt điểm giỏi môn toán là: 20-12 = 8 (bạn) Số bạn chỉ đạt điểm giỏi môn Tiếng Việt là: 17-12= 5 (bạn) Lớp học có số bạn là: 12+8+5=25 (bạn) Đáp số: 25 bạn KL: Bài toán cho biết các phần riêng và 1 phần chung là 12 học sinh. Dựa phần chung và các phần riêng để tìm tổng số học sinh. Bài toán 3: “Trong một hội nghị có 100 người tham dự, trong đó có 10 người không biết tiếng Nga và tiếng Anh, có 75 người biết tiếng Nga và 83 người biết Tiếng Anh. Hỏi trong hội nghị có bao nhiêu người biết cả 2 thứ tiếng Nga và Anh?” a) Phân tích đề + Bài toán cho ta biết gì? (trong hội nghị có 100 người tham dự, trong đó
Tài liệu đính kèm:
- skkn_huong_dan_hoc_sinh_kha_gioi_lop_5_giai_mot_so_bai_toan.doc