SKKN Hiệu quả việc sử dụng bản đồ tư duy và câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo bài để ôn thi THPT Quốc gia môn GDCD ở trường THPT Cẩm Thủy 1

SKKN Hiệu quả việc sử dụng bản đồ tư duy và câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo bài để ôn thi THPT Quốc gia môn GDCD ở trường THPT Cẩm Thủy 1

Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề nguồn lực con người là vấn đề cần được quan tâm. Đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, là sự sống còn và cũng là con đường duy nhất để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của toàn xã hội.

Phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục. Một phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giáo viên và người học phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy. Một phương pháp giảng dạy khoa học sẽ làm thay đổi vai trò của người thầy đồng thời tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của người học.

Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ cung cấp những cơ hội đặc biệt để nhận thức rõ những giá trị quan trọng, thực chất trong cuộc sống. Điều đó làm tăng khả năng mà thực ra là yêu cầu giáo viên không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết. Vì vậy, vai trò mới của người giáo viên trở thành nhân tố kích thích trí tò mò của học sinh, mài sắc thêm năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến thức và khả năng sáng tạo. giúp cho học sinh nhớ kiến thức hiểu vấn đề và đặc biệt là các kỹ năng thực hành và sáng tạo của học sinh.

Từ năm học 2016-2017 đến nay, bộ môn GDCD là một trong 3 môn thi tổ hợp xã hội được sử dụng trong kì thi THPT Quốc gia của bộ giáo dục. Bởi vậy, để ôn thi đạt hiệu quả, giúp học sinh có kiến thức vững vàng đáp ứng yêu cầu thi mới buộc giáo viên phải không ngừng đổi mới cách dạy, đổi mới cách tiếp cận của học sinh.Với bộ môn GDCD luôn bị đánh giá là môn phụ, không quan trọng, dễ học dễ lấy điểm, dễ có điểm cao không chỉ dừng lại ý nghĩ của một người mà là suy nghĩ của đại đa số nhân dân trong đó có học sinh. Chính vì lối nghĩ như vậy là một trở ngại của giáo viên trong việc dạy ôn thi THPT Quốc gia. Nếu giáo viên dạy không hay, không tạo được sự hứng thú học sinh dễ chán và lơ là trong quá trình ôn tập hoặc giáo viên chỉ dạy lại mà không có cách đổi mới hình thức và phương pháp thì càng làm cho học sinh mệt mỏi, thiếu hứng thú và không ghi nhớ nội dung kiến thức đáp ứng kì thi. Trong 2 năm học trước, bản thân tôi cũng luôn tìm tòi cách dạy sao cho hợp lí nhất với việc ôn tập thi THPT Quốc gia giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, hăng hái hơn trong học tập và cũng không quá nặng nề trong việc học ôn tập, tôi đã lựa chọn “Hiệu quả việc sử dụng bản đồ tư duy và câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo bài để ôn thi THPT Quốc gia môn GDCD ở trường THPT Cẩm Thủy 1” .

 

doc 20 trang thuychi01 7761
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Hiệu quả việc sử dụng bản đồ tư duy và câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo bài để ôn thi THPT Quốc gia môn GDCD ở trường THPT Cẩm Thủy 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
1.Mở đầu.
Trang
1.1.Lí do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
1.5. Điểm mới của sáng kiến.
3
2.Nội dung.
3
2.1.Cơ sở lí luận.
3
2.2. Thực trạng
7
2.3. Giải pháp thực hiện
7
2.4. Hiệu quả
17
3.Kết luận, kiến nghị.
18
3.1. Kết luận.
18
3.2. Kiến nghị.
18
HIỆU QUẢ VIỆC SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY VÀ CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN THEO BÀI ĐỂ ÔN THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT CẨM THỦY 1.
1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài.
	Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề nguồn lực con người là vấn đề cần được quan tâm. Đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, là sự sống còn và cũng là con đường duy nhất để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của toàn xã hội.
Phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục. Một phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giáo viên và người học phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy. Một phương pháp giảng dạy khoa học sẽ làm thay đổi vai trò của người thầy đồng thời tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của người học.
Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ cung cấp những cơ hội đặc biệt để nhận thức rõ những giá trị quan trọng, thực chất trong cuộc sống. Điều đó làm tăng khả năng mà thực ra là yêu cầu giáo viên không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết. Vì vậy, vai trò mới của người giáo viên trở thành nhân tố kích thích trí tò mò của học sinh, mài sắc thêm năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến thức và khả năng sáng tạo. giúp cho học sinh nhớ kiến thức hiểu vấn đề và đặc biệt là các kỹ năng thực hành và sáng tạo của học sinh.
Từ năm học 2016-2017 đến nay, bộ môn GDCD là một trong 3 môn thi tổ hợp xã hội được sử dụng trong kì thi THPT Quốc gia của bộ giáo dục. Bởi vậy, để ôn thi đạt hiệu quả, giúp học sinh có kiến thức vững vàng đáp ứng yêu cầu thi mới buộc giáo viên phải không ngừng đổi mới cách dạy, đổi mới cách tiếp cận của học sinh.Với bộ môn GDCD luôn bị đánh giá là môn phụ, không quan trọng, dễ học dễ lấy điểm, dễ có điểm cao không chỉ dừng lại ý nghĩ của một người mà là suy nghĩ của đại đa số nhân dân trong đó có học sinh. Chính vì lối nghĩ như vậy là một trở ngại của giáo viên trong việc dạy ôn thi THPT Quốc gia. Nếu giáo viên dạy không hay, không tạo được sự hứng thú học sinh dễ chán và lơ là trong quá trình ôn tập hoặc giáo viên chỉ dạy lại mà không có cách đổi mới hình thức và phương pháp thì càng làm cho học sinh mệt mỏi, thiếu hứng thú và không ghi nhớ nội dung kiến thức đáp ứng kì thi. Trong 2 năm học trước, bản thân tôi cũng luôn tìm tòi cách dạy sao cho hợp lí nhất với việc ôn tập thi THPT Quốc gia giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, hăng hái hơn trong học tập và cũng không quá nặng nề trong việc học ôn tập, tôi đã lựa chọn “Hiệu quả việc sử dụng bản đồ tư duy và câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo bài để ôn thi THPT Quốc gia môn GDCD ở trường THPT Cẩm Thủy 1” .
1.2. Mục đích nghiên cứu.
-Nhằm nâng cao hiệu quả và tạo hứng thú ôn tập cho học sinh thi THPT Quốc gia.
-Giúp học sinh khái quát kiến thức toàn bài trong một thời gian ngắn và vận dụng câu hởi trắc nghiệm thực hành hoàn chỉnh bài học trên lớp.
-Giúp học sinh nắm vững kiến thức từng bài, từng phần, hình dung một cách tổng thể bài học trong chương trình.
-Học sinh vững kiến thức, tự tin trong kì thi và đạt điểm cao cho môn học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Thực tế việc học ôn thi THPT Quốc gia môn GDCD ở nhà trường hiện nay.
Học sinh khối 12 ban KHXH trong việc ôn thi tổ hợp xã hội.
Giáo viên giảng dạy khối 12 và thực hiện ôn thi THPT Quốc gia môn GDCD.
Bộ đề minh họa và chương trình thi THPT Quốc gia môn GDCD của Bộ GD&ĐT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: 
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết về sơ đồ tư duy và xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
Phương pháp khái quát, tổng hợp.
Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập thông tin.
Phương pháp nêu vấn đề thực tiễn nảy sinh.
Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
v.v...
1.5. Những điểm mới của SKKN.
Dựa vào thực tế việc ôn thi THPT Quốc gia nói chung và đặc thù môn GDCD trong chương trình ôn thi THPT Quốc gia.
Nhằm đạt được kết quả tốt cho việc thi THPT Quốc gia giáo viên sử dụng sơ đồ tư duy từng bài, từng chủ đề để kết hợp câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo bài để ôn tập hiệu quả kiến thức đáp ứng kì thi THPT Quốc gia môn GDCD hiện nay.
	2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
	I. KHÁI LƯỢC VỀ BẢN ĐỒ TƯ DUY.
	1.Khái lược về bản đồ tư duy.
	Bản đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy, là con đường dễ nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Đồng thời là một phương tiện ghi chép đầy đủ sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng nghĩa của nó “sắp xếp” ý nghĩ.
Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh, để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay hình ảnh trung tâm. Ý thưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển thành các nhánh tượng trưng cho các ý chính và đều được nối với các ý trung tâm. Các nhánh chính lại được phân chia thành các nhánh cấp 2, cấp 3,Trên các nhánh ta có thể thêm các hình ảnh hay các kí hiệu cần thiết. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, các ý tưởng được liên kết với nhau khiến bản đồ tư duy có thể bao quát được các ý tưởng trên một phạm vi sâu rộng mà các ý tưởng thông thườn không thể làm được.
Tư duy của bản đồ là dùng hình ảnh, đường nét, màu sắc, ngôn ngữ ghi lại nhận thức của mình về các kiến thức bài học cụ thể để định hướng phát triển tư duy và ghi nhớ kiến thức một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất trong não bộ của mỗi học sinh.
2.Tác dụng của “Bản đồ tư duy” trong hoạt động dạy ôn thi THPT quốc gia môn GDCD.
	Bộ môn GDCD trong nhà trường THPT là một trong những bộ môn có số tiết dạy ít, một tuần một tiết trên một lớp, nhưng kiến thức dài, khó, trừu tượng, độ khái quát tổng hợp rất lớn. Chính vì vậy, việc dạy GDCD cũng gặp nhiều khó khăn. Để giờ dạy có hiệu quả thì cả người dạy và người học đều phải tập trung cao độ, chuẩn bị kĩ nếu không sẽ không đủ thời gian. Bản đồ tư duy được xem là một kĩ thuật dạy học tích cực giúp học sinh học được phương pháp học tập chủ động chiếm lĩnh kiến thức môn học. Thực tế ở trường phổ thông cho thấy, học sinh có xu hướng ngại học môn GDCD thậm chí còn coi đây là môn phụ, không quan trọng, đặc trưng môn học phải ghi chép nhiều, trừu tượng, khó nhớ. Các em thường học bài nào biết bài đó, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thống kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước vào bài học sau và thực tiễn đời sống. Do đó việc sử dụng thành thạo bản đồ tư duy trong dạy và học, sẽ giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
	Bản đồ tư duy giúp học sinh học tập tích cực, chủ động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh vẽ bản đồ tư duy có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, tím, vàng), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong,), các em tự vẽ nên trên mỗi bản đồ tư duy thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức môn học của từng học sinh và bản đồ tư duy do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng sản phẩm của mình.
	Bản đồ tư duy giúp học sinh ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm này của bản đồ tư duy nên người thiết kế bản đồ tư duy phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và logic, vì vậy, sử dụng bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả. Điều này sẽ khắc phục hiện trạng thường thấy trong môn GDCD: thầy đọc – trò chép. Đồng thời rèn luyện khả năng khái quát kiến thức bài học bằng những từ khóa quan trọng. Đây vẫn là khâu trọng yếu trong quá trình học tập môn GDCD hiện nay.
	Bản đồ tư duy có thể sử dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các trường THPT hiện nay. Người dạy và người học có thể thiết kế bản đồ tư duy trên giấy, bìa, bảng phụ hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm bản đồ tư duy.
3.Các bước cụ thể để tạo lập một sơ đồ tư duy.
Bước 1: Xác định ý chính, từ khóa chính: Sơ đồ tư duy được tạo lập từ những từ khóa chính. Đối với môn GDCD, từ khoá là những từ, những cụm từ hoặc tình huống đặt ra.
Bước 2: Vẽ “lõi” kiến thức từ trung tâm tờ giấy. Học sinh nên bắt đầu vẽ sơ đồ tư duy từ trung tâm tờ giấy - Đây được coi là phần lõi của sơ đồ, cũng chính là kiến thức cơ bản hoặc tên bài.
Bước 3: Vẽ những nhánh tiêu đề phụ. Từ phần lõi, học sinh sẽ tạo ra những nhánh với nội dung là những phần kiến thức nhỏ hơn cùng các tiêu đề phụ. Các tiêu đề phụ này nên sử dụng chữ in hoa và thể hiện bằng những nhánh lớn, in đậm. Những nhánh lớn cần được tô đậm hơn và bắt đầu nhỏ dần khi toả ra xa. Đặc biệt, tất cả các nhánh đều phải được kết nối với phần “lõi” của sơ đồ.
Bước 4: Vẽ các nhánh cấp nhỏ hơn. Ở bước này, học sinh cần vẽ nối tiếp vào nhánh lớn để tạo ra những nhánh nhỏ hơn. Ở những nhánh nhỏ, chúng ta chỉ nên tận dụng từ khóa và hình ảnh gợi mở. Tất cả các nhánh nhỏ của một nhánh lớn nên tỏa ra từ một điểm và có cùng một màu.
Bước 5: Trang trí sơ đồ bằng hình ảnh minh họa. Lúc này, học sinh hãy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình. Tuy nhiên, học sinh hãy vẽ những hình ảnh có sức gợi tả tốt nhất để chỉ cần nhìn vào hình ảnh đó, chúng ta có thể liên tưởng ngay đến kiến thức cần nhớ.
II. KHÁI LƯỢC VỀ TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN.
	1.Khái lược về trắc nghiệm khách quan.
Trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một phép lượng giá cụ thể mức độ khả năng thể hiện hành vi trong lĩnh vực nào đó của một người cụ thể nào đó.
Phương pháp trắc nghiệm khách quan là một trong những dạng trắc nghiệm viết, kỹ thuật trắc nghiệm này được dùng phổ biến để đo lường năng lực của con người trong nhận thức, hoạt động và cảm xúc. Phương pháp trắc nghiệm khách quan đã được sử dụng rộng rãi trong việc kiểm tra kiến thức qua các môn học. 
Trong lĩnh vực giáo dục, trắc nghiệm khách quan đã được sử dụng rất phổ biến trong các kỳ thi để đánh giá năng lực nhận thức của người học, ở nước ta trắc nghiệm khách quan được sử dụng trong các kỳ thi học kì, đặc biệt là kì thi THPT Quốc gia trong hai năm học 2016-2017; 2017-2018 và đang tiếp tục sử dụng trong năm học năm học 2018-2019 trên phạm vi cả nước vừa để xét tốt nghiệp THPT vừa để xét tuyển vào đại học của các trường đại học, cao đẳng, THCN trong cả nước.
2. Sơ đồ quá trình xây dựng câu hỏi trắc nghiệm. 
Để ứng dụng trắc nghiệm khách quan đánh giá năng lực nhận thức của người học một việc vô cùng quan trọng là cần phải xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm có chất lượng, có thể mô tả qua các bước sau:
-Dựa vào cấu trúc, yêu cầu của đề minh họa của Bộ để xây dựng câu hỏi trắc nghiệm ôn tập cho phù hợp.
-Căn cứ vào nội dung bào học, giáo viên xây dựng ngân hàng câu hỏi và bộ đề thi, kiểm tra theo các cấp độ nhận thức.
-Tiến hành kiểm tra, khảo sát theo đơn vị lớp, khối 12.
-Căn cứ vào bài làm của người học, thu thập số liệu cho từng câu hỏi từng đề thi.
-Sử dụng máy tính và các phần mềm: Excel, SPSS, Eview, . Để phân tích đánh giá chất lượng từng câu hỏi, từng đề thi theo các tiêu chuẩn như độ khó, độ phân biệt, độ tin cậy.
-Loại bỏ những câu không đạt yêu cầu.
-Đối với những câu, đề đạt yêu cầu, tiến hành hoàn thiện để trở về bước 3 tiếp tục kiểm tra, đánh giá.
Quan các bước trên ta thấy quá trình xây dựng và triển khai đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan cần có thời gian chuẩn bị và thực hiện, nó chỉ chấm dứt khi người dạy nhận thấy hình thức này không còn phù hợp với bài học hoặc chủ đề phần đang giảng dạy.
3. Một số ưu nhược điểm của trắc nghiệm khách quan. 
3.1.Ưu điểm
-Học sinh dành nhiều thời gian để đọc và suy nghĩ, lựa chọn câu trả lời đúng nhất trong số những câu trả lời gợi ý.
- Số lượng câu hỏi nhiều, bao quát được kiến thức của chương trình. Học sinh trả lời ngắn gọn. 
- Người soạn có điều kiện tự do bộc lộ kiến thức và các giá trị của mình thông qua việc đặt câu hỏi.
- Người chấm ít tốn công và kết quả chấm là khách quan vì không bị ảnh hưởng tâm lý khi chấm. 
3.2. Nhược điểm
- Chất lượng của bài trắc nghiệm được xác định phần lớn dựa vào kỹ năng của người soạn thảo.
- Người ra đề tốn nhiều công sức và thời gian.
- Cho phép và đôi khi khuyến khích sự phỏng đoán của học viên.
4. Tác dụng của câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
Trắc nghiệm khách quan ngày càng được áp dụng rộng rãi do tính ưu việt của nó và trong thực tiễn đã được hiện thực hóa trong kì thi THPT Quốc gia hiện nay. Nó là sự lựa chọn cần thiết và đang đươc sử dụng trong các kỳ thi, kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên, trong một số môn học thì trắc nghiệm khách quan không phải là sự lựa chọn tốt để đánh giá năng lực nhận thức của người học; có lúc cần phải chọn hình thức tự luận hoặc kết hợp trắc nghiệm khách quan với hình thức khác. Đối với tổ hợp xã hội (Sử, Địa, GDCD) thì trắc nghiệm khách quan có vai trò, tác dụng rất quan trọng để đánh giá năng lực của học sinh.
	2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN.
	Từ năm học 2016-2017 môn GDCD được đưa vào thi tổ hợp xã hội để xét tốt nghiệp, đây cũng là điểm mới và là sự đột phá trong cách thi mới mà Bộ giáo dục thực hiện thí điểm. Với 8 môn học (Toán, Văn, Ngoại ngữ, Lí, Hóa, Sinh, Sử, Địa) đây là những môn thường niên trong thi tốt nghiệp và thi đại học nhiều năm nên vấn đề ôn thi đã được các nhà trường chuẩn bị cho việc học ôn từ năm lớp 10, 11, 12 và tâm lí phụ huynh, học sinh cũng đã quen và có sự chuẩn bị từ khi con thi vào lớp 10 THPT. 
Riêng môn GDCD là môn học mới được Bộ giáo dục đưa vào thi theo bài thi tổ hợp xã hội vì là môn mới, tâm lí lâu nay kể cả học sinh và phụ huynh đều cho rằng đây là môn phụ nên việc chuẩn bị kiến thức ôn, việc sắp xếp thời gian ôn cũng hạn chế và tâm lí coi đây là môn dễ không đầu tư nhiều. Xuất phát về lối nghĩ như vậy nên việc dạy ôn rất khó đặc biệt là dạy như thế nào để gây hứng thú, tránh đơn điệu nhàm chán, học sinh vừa được học ôn thoải mái nhưng vẫn nắm vững kiến thức, tích cực trong ôn tập đạt điểm từ trung bình trở lên và hướng tới điểm 10 tuyệt đối. 
Đối với nhà trường, môn GDCD cũng chưa được đánh giá cao và chưa coi trọng do vậy việc sắp xếp lịch ôn cho bộ môn chỉ được thực hiện bắt đầu học kì 2 lớp 12. Đặc trưng là môn học chủ yếu là lí thuyết, kiến thức nhiều và dài (chương trình pháp luật 12), kiến thức khó và trừu tượng (chương trình kinh tế lớp 11). Trước thực trạng trên để ôn tập có hiệu quả đây chính là bài toán đòi hỏi vấn đề đổi mới cách học, cách ôn như thế nào cho hiệu quả đối với học sinh khối 12 đảm bảo thi THPT quốc gia là vấn đề cần phải giải quyết.
2.3.Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
	Năm học 2016-2017 khi bắt đầu mới ôn nên tôi thường hệ thống lại kiến thức đã học bằng cách dạy lại chương trình (trần lại cho nhuyễn). Trong quá trình dạy tôi thấy học sinh không hào hứng mà có biểu hiện uể oải, không tập trung. Qua 3 tháng ôn tập trên lớp (từ tháng 1/2017 đến tháng 3/2017) tôi tiến hành khảo sát cộng với kì thi khảo sát THPT quốc gia lần 1 của nhà trường thì kết quả cho thấy chất lượng rất thấp. Đa số học sinh đạt điểm dưới trung bình, thậm chí có vài em điểm dưới 1(điểm liệt), điểm từ trung bình trở lên chỉ chiếm 40%. Từ kết quả đó, bản thân tôi rất băn khoăn, trăn trở không biết cần phải có cách ôn như thế nào để giúp học sinh hứng thú học, không đơn điệu và nhàm chán, giúp các em hiểu bài, nhớ lâu và có kĩ năng làm bài để đạt kết quả mong đợi. Tôi đã nghiên cứu lại tổng thể nội dung kiến thức xem cần phải làm gì bằng cách lên khung ôn tập của chương trình 12 và chương trình lớp 11.
Bước 1:
Tổng thể chương trình lớp 12 gồm 9 bài với tổng số tiết 27/9 bài, cụ thể:
TT
Bài, tên bài
Tiết theo
PPCT
Ghi chú
1
Bài 1: Pháp luật và đời sống.
2
2
Bài 2: Thực hiện pháp luật.
3
3
Bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật.
2
4
Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội.
3
5
Bài 5: Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo.
2
6
Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản.
4
7
Bài 7: Công dân với các quyền dân chủ.
4
8
Bài 8: Pháp luật với sự phát triển của công dân.
3
9
Bài 9: Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước.
4
10
Bài 10: Pháp luật với hòa bình và sự phát triển tiến bộ của nhân loại.
(Giảm tải)
	Chương trình lớp 11:
TT
Bài, tên bài
Tiết theo
PPCT
Ghi chú
1
Bài 1: Công dân với sự phát triển kinh tế.
2
2
Bài 2: Hàng hóa, tiền tệ, thị trường.
2
3
Bài 3: Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hang hóa.
2
4
Bài 4: Cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông hang hóa.
1
5
Bài 5: Cung cầu trong sản xuất và lưu thông hang hóa.
1
6
Bài 6: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2
7
Bài 7: Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần và tăng cường vai trò quản lí kinh tế của nhà nước.
2
Căn cứ vào chương trình tổng thể và nội dung từng bài, với bộ môn GDCD kiến thức chủ yếu là lí thuyết, lượng kiến thức vừa dài, lại khá trừu tượng bởi vậy tôi đã chọn cách dạy ôn bằng việc sử dụng “Sơ đồ hóa kiến thức trọng tâm” qua các bài cụ thể để dẫn dắt học sinh kết hợp việc sử dụng phương pháp đàm thoại, nêu vấn đề để gợi mở triển khai nội dung, gợi lại kiến thức đã học giúp các em nhớ, hệ thống kiến thức một cách tuần tự. 
GV sử dụng sơ đồ hóa cụ thể như sau:
BÀI 2: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT.
I. SƠ ĐỒ HÓA KIẾN THỨC TRỌNG TÂM.
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
Các giai đoạn. (Giảm tải)
Khái niệm, các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp luật.
Khái niệm: Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức.
Sử dụng pháp luật : Các cá nhân, tổ chức sử dụng đúng đắn các quyền của mình, làm những gì mà pháp luật cho phép làm.
Các hình thức thực hiện pháp luật
Thi hành pháp luật : Các cá nhân , tổ chức thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ, chủ động làm những gì mà pháp luật quy định phải làm.
Tuân thủ pháp luật : Các cá nhân , tổ chức kiềm chế để không làm những điều mà pháp luật cấm làm.
Áp dụng pháp luật : Các cơ quan, công chức nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, chấm dứt hoặc thay đổi việc thực hiện các quyền , nghĩa vụ cụ thể của cá nhân, tổ chức.
Thứ nhất, là hành vi trái pháp luật.
Vi phạm pháp luật: là hành vi trái pháp luật, có lỗi do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện.
Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp 
lí.
Thứ ba, người vi phạm pháp luật phải có lỗi.
Mục đích TNPL: Buộc cá chủ thể vi phạm pháp luật chấm dứt hành vi trái pháp luật, giáo dục, răn đe những người khác để họ tránh, hoặc kiếm chế những việc làm trái pháp luật.
Trách nhiệm pháp lí: Trách nhiệm pháp lí là nghĩa vụ của các chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế do Nhà nước áp dụng.
Vi phạm hình sự: Là những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm quy định tại Bộ luật Hình sự. Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.
Các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí.
Vi phạm hành chính: Là hành vi vi phạm pháp luật có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước. Người vi phạm phải chịu trách nhiệm hành chính.
Vi phạm dân sự: Là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm tới các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Người vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự.
Vi phạm kỉ luật: Là vi phạm pháp luật xâm phạm các quan hệ lao động, công vụ nhà nước  do pháp luật lao động, pháp luật hành chính bảo vệ. Người vi phạm phải chịu trách nhiệm kỉ luật.
Từ sơ đồ trên, giáo viên có thể tiến hành theo 2 cách sau:
Cách 1: Giáo viên vẽ sơ đồ đã thiết kế ở hình trên vào tờ giấy A4 bằng cách chuẩn xác hóa kiế

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_hieu_qua_viec_su_dung_ban_do_tu_duy_va_cau_hoi_trac_ngh.doc