SKKN Góp phần nâng cao chất lượng dạy học "Giải toán có lời văn " cho học sinh Lớp 1
“ Lời thương ta ngỏ cùng nhau”- Thiện Tâm
Tôi mượn một câu thật văn hoa và đằm thắm để nói về một môn học có tiếng là khô khan- Môn Toán.
Môn Toán lớp 1 mở đường cho trẻ đi vào thế giới kỳ diệu của toán học, rồi mai đây các em lớn lên, nhiều em trở thành vĩ nhân, trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ, trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống. Dù trên tay có máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi, Nhưng không bao giờ quên được những ngày đầu tiên đến trường: Học đếm và tập viết 1,2,3, học các phép tính cộng, trừ. Các em không thể quên được vì đó là kỉ niệm đẹp đẽ nhất của đời người và hơn thế nữa những con số, những phép tính đơn giản ấy cần thiết cho suốt cuộc đời của các em. Đó cũng là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên nói chung và giáo viên lớp 1 nói riêng. Người giáo viờn từ khi chuẩn bị cho tiết dạy đầu tiên đến khi gác mái buông chèo, không lúc nào dứt được nổi niềm trăn trở về những điều mình dạy và nhất là ở môn Toán lớp 1- là một bộ phận của chương trình môn Toán ở tiểu học.
MỤC LỤC A. Phần mở đầu: Trang 2 1. Lí do chọn đề tài Trang 2 2. Mục đích nghiên cứu Trang 3 3. Đối tượng nghiên cứu Trang 3 4. Phương pháp nghiên cứu Trang 3 B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm Trang 4 1. Cơ sở lí luận Trang 4 2. Thực trạng của vấn đề. Trang 5 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Trang 6 - Làm quen với cỏc bài toỏn cú lời văn. Trang 6 - Luyện nờu đề qua cỏc túm tắt của bài toỏn. Trang 8 - Hỡnh thành cỏch giải bài toỏn cú lời văn. Trang 8 - Tỡm ra những yếu điểm của học sinh. Trang 10 - Quỏ trỡnh giảng dạy và thực nghiệm. Trang 10 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Trang 15 C. Kết luận, kiến nghị Trang 15 1. Kết luận Trang 15 2. Kiến nghị Trang 16 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài: “ Lời thương ta ngỏ cùng nhau”- Thiện Tâm Tôi mượn một câu thật văn hoa và đằm thắm để nói về một môn học có tiếng là khô khan- Môn Toán. Môn Toán lớp 1 mở đường cho trẻ đi vào thế giới kỳ diệu của toán học, rồi mai đây các em lớn lên, nhiều em trở thành vĩ nhân, trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ, trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống. Dù trên tay có máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi, Nhưng không bao giờ quên được những ngày đầu tiên đến trường: Học đếm và tập viết 1,2,3, học các phép tính cộng, trừ. Các em không thể quên được vì đó là kỉ niệm đẹp đẽ nhất của đời người và hơn thế nữa những con số, những phép tính đơn giản ấy cần thiết cho suốt cuộc đời của các em. Đó cũng là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên nói chung và giáo viên lớp 1 nói riêng. Người giáo viờn từ khi chuẩn bị cho tiết dạy đầu tiên đến khi gác mái buông chèo, không lúc nào dứt được nổi niềm trăn trở về những điều mình dạy và nhất là ở môn Toán lớp 1- là một bộ phận của chương trình môn Toán ở tiểu học. Nội dung môn toán ở tiểu học bao gồm nhiều mạch kiến thức lớn như: - Số học. - Đo đại lượng thông dụng. - Một số yếu tố ban đầu về đại số. - Một số yếu tố hình học. - Giải toán có lời văn. Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán tiểu học thì mạch kiến thức “ Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp 1. Bởi vì đối với lớp 1: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế, Là một người giáo viên trực tiếp dạy lớp 1, đặc biệt là trong dạy môn toán. Tôi luôn trăn trở và suy nghĩ : làm sao học sinh làm thành thạo các phép tính cộng, trừ, làm sao để khi giải toán có lời văn học sinh không còn mắc những sai lầm khi trình bày bài, viết câu lời giải, viết phép tính và đáp số đúng, Đó là cả một mong mỏi không phải chỉ riêng cá nhân tôi. Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 1 tôi thấy nhiều học sinh còn gặp khó khăn hoặc chưa thật sự chắc chắn, tự tin khi giải bài toán có lời văn; Một số em chưa biết tóm tắt đề toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải; diễn đạt vụng về, thiếu lô gic; nhiều em chưa biết cách đặt câu lời giải, hoặc viết câu lời giải chưa sát với câu hỏi của bài toán, còn dập khuôn, máy móc khi viết câu lời giải; một số em trình bày bài giải chưa đúng, đọc hiểu đề toán còn chậm,... Chính vì vậy tôi luôn nung nấu, đi sâu việc nghiên cứu, tìm giải pháp để giúp Học sinh Lớp 1 nắm chắc các bước “ Giải toán có lời văn” ngay từ những tiết học đầu tiên về giải toán. Suy nghĩ như vậy nên tôi quyết định chọn đề tài nhằm: Góp phần nâng cao chất lượng dạy học "Giải toán có lời văn " cho học sinh Lớp 1. II. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn là: + Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của bài toán có lời văn. + Đọc hiểu - phân tích - tóm tắt bài toán. + Giải toán đơn về thêm (bớt ) bằng một phép tính cộng ( trừ). + Trình bày bài giải gồm câu lời giải + phép tính + đáp số. + Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau. Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức trong chương trình môn toán lớp 1( số và phép tính, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải toán có lời văn). Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn nhằm giúp HS: - Nhận biết thế nào là một bài toán có lời văn. - Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn bằng một phép tính cộng hoặc một phép tính trừ. - Bước đầu phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp giải toán và khả năng diễn đạt đúng. III. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiờn cứu là: Học sinh lớp 1A và 1B ( Năm học: 2013- 2014); Những bài tập thuộc mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” trong chương trình lớp 1, ở Tiểu học. - Trong chương trình toán1 - Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 - Từ tiết 81 cho đến tiết 108. iV. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện nội dung của đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp cơ bản sau: - Tổng hợp lý luận thông qua các tài liệu, sách giáo khoa và thực tiễn dạy học của lớp 1A - Khối I - Trường Tiểu học Thị trấn Lam Sơn - Đánh giá quá trình dạy toán - Loại bài “Giải toán có lời văn” từ những năm trước và những năm gần đây. - Giảng dạy và thực nghiệm. Dự giờ rỳt kinh nghiệm. - Tiến hành khảo sát chất lượng học sinh . - Đúc rút kinh nghiệm qua quá trình nghiên cứu. Bên cạnh đó, khi dạy học về Giải toán có lời văn tôi thường áp dụng các phương pháp: Trực quan (Quan sát tranh), Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại), Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, phương phỏp ứng dụng công nghệ thông tin ( Giáo án điện tử), B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. cơ sở lý luận : Môn Toán là một môn học “ Công cụ, cung cấp kiến thức, kĩ năng, phương pháp, góp phần xây dựng nền tảng văn hóa phổ thông của con người lao động mới”. Toán học là công cụ của khoa học kĩ thuật, có nguồn gốc trong thực tiễn. Những kiến thức toán phổ thông cơ bản sẽ giúp cho học sinh có cơ sở để học các môn khoa học, kĩ thuật. Cùng với kiến thức, môn toán trong nhà trường còn cung cấp cho học sinh những kĩ năng như: Kĩ năng tính ( tính viết, tính nhẩm, tính bằng bàn tính,) ; Kĩ năng sử dụng các dụng cụ đo ( thước, com pa); Kĩ năng đọc, vẽ hình; Kĩ năng đo đạc bằng dụng cụ, ước lượng ( bằng mắt, bằng gang tay, sải tay, bước chân, ) Trong dạy học toỏn, giải toỏn cú lời văn cú một vị trớ đặc biệt quan trọng đối với sự hỡnh thành và phỏt triển nhõn cỏch của học sinh, giỳp học sinh củng cố kiến thức kĩ năng về toỏn. Cú thể coi việc dạy học giải toỏn là “ Hũn đỏ thử vàng” của dạy học toỏn. Thụng qua dạy học giải toỏn cú lời văn, đặc biệt là ở lớp 1, sẽ giỳp cho học sinh hỡnh thành và phỏt triển khả năng suy luận, lập luận và trỡnh bày cỏc kết quả theo một trỡnh tự hợp lớ, làm cơ sở cho cả quỏ trỡnh học toỏn ở cỏc lớp cao hơn sau này. Nội dung môn toán ở tiểu học bao gồm nhiều mạch kiến thức lớn như: - Số học. - Đo đại lượng thông dụng. - Một số yếu tố ban đầu về đại số. - Một số yếu tố hình học. - Giải toán có lời văn. Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán tiểu học thì mạch kiến thức “ Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp 1. Bởi vì đối với lớp 1: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế, Hơn thế nữa, khả năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào giải toán kết hợp với kiến thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc - hiểu - biết hướng giải đưa ra phép tính kèm câu trả lời và đáp số của bài toán. Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện kỹ năng diễn đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh tiểu học. Đối với trẻ là học sinh lớp 1, môn toán tuy có dễ nhưng để học sinh đọc- hiểu bài toán có lời văn quả không dễ dàng, vả lại việc viết lên một câu lời giải phù hợp với câu hỏi của bài toán cũng là vấn đề không đơn giản. Bởi vậy nỗi băn khoăn của nhiều giáo viên đang trực tiếp dạy lớp 1 là hoàn toàn chính đáng. Vậy làm thế nào để giáo viên nói - học sinh hiểu , học sinh thực hành - diễn đạt đúng yêu cầu của bài toán. Đó là mục đích chính của đề tài này. II. Thực trạng vấn đề : 1. Thực trạng: Trong quá trình giảng dạy môn Toán ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp 1, tôi nhận thấy hầu như giáo viên nào cũng trăn trở, chia sẻ, khi dạy đến phần “Giải toán có lời văn” ở lớp 1. Nhiều HS rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. Những tiết đầu tiên của giải toán có lời văn mỗi lớp chỉ có khoảng 20%- 25% số HS biết nêu lời giải, viết đúng phộp tính và đáp số. Số còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng thì được nhưng khi viết các em lại rất lỳng túng, làm sai, một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi, lại lúng túng không biết để trả lời . Chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. GV phải mất rất nhiều công sức khi dạy đến phần này. Đứng trước thực trạng đó, tôi quyết định lập kế hoạch, bắt tay vào nghiên cứu, thử nghiệm. Và đây là kết quả khảo sát chất lượng “Giải toán có lời văn” năm học 2013- 2014 của lớp 1A và 1B: TT Lớp Sĩ số HS viết đúng câu lời giải HS viết đúng phép tính HS viết đúng đáp số HS giải đúng cả 3 bước 1 1A 29 17 58,6% 20 69% 20 69% 17 58, 6% 2 1B 30 18 60% 22 73,3% 22 73,3% 18 60% 2. Những nguyờn nhõn: 2. 1. Nguyên nhân từ phía GV: - Có thể giáo viên chưa để ý chuẩn bị tốt cho các em khi dạy những bài trước. Từ những bài nhìn hình vẽ, nêu miệng đề toán rồi viết phép tính thích hợp dưới tranh. Đối với những bài này hầu như mọi HS đều làm được, nên GV đôi khi còn chủ quan, ít nhấn mạnh hoặc không chú ý lắm mà chỉ tập trung vào dạy kĩ năng đặt tính, tính toán của HS mà quên mất rằng đó là những bài toán làm bước đệm , bước khởi đầu của dạng toán có lời văn sau này. Đối với GV dạy lớp 1 khi dạy dạng bài nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp, cần cho HS quan sát tranh tập nêu miệng bài toán và thường xuyên rèn cho HS thói quen nhìn hình vẽ nêu bài toán. Có thể tập cho những em HS khá giỏi tập nêu câu trả lời cứ như vậy trong một khoảng thời gian chuẩn bị như thế thì đến lúc học đến phần bài toán có lời văn HS sẽ không ngỡ ngàng và các em sẽ dễ dàng tiếp thu, hiểu và giải đúng. 2. 2. Nguyên nhân từ phía HS: Do Học sinh mới bắt đầu làm quen với dạng toán này lần đầu, tư duy của các em còn mang tính trực quan là chủ yếu. Mặt khác ở giai đoạn này các em chưa đọc thông viết thạo, nhiều em đọc lười đọc, khụng thớch đọc, khi đọc đề toán còn đánh vần nên khi đọc xong bài toán rồi nhưng các em không hiểu bài toán nói gì, yờu cầu gỡ? thậm chí có những em đọc đi đọc lại nhiều lần nhưng vẫn chưa hiểu bài toán, . Vì vậy Học sinh không làm đúng cũng là điều dễ hiểu. Vậy làm thế nào để Học sinh nắm được cách giải một cách chắc chắn chính xác? Qua thời gian tìm hiểu nguyên nhân, nghiên cứu, trao đổi cùng bạn bè đồng nghiệp tôi đã mạnh dạn thực hiện một số biện pháp- đã mang lại hiệu quả khả quan trong việc giảng dạy Học sinh giải toán có lời văn. III. các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: 1. Chuẩn bị cho việc giải toán- Làm quen với các bài toán có lời văn: Trong chương trình Toán 1, giai đoạn đầu học sinh còn đang học chữ nên chưa có Bài toán có lời văn, song SGK đã có ý ngầm chuẩn bị từ xa cho việc làm này Ngay từ bài: Phép cộng trong phạm vi 3 ( Luyện tập) ở tuần 7. Từ tuần 7 trở đi các bài toán được giới thiệu ở mức độ đơn giải đó là : nhìn hình vẽ- viết phép tính thích hợp dưới tranh. ở đây HS được làm quen với việc: Xem tranh vẽ -> Nêu bài toán bằng lời -> Nêu câu trả lời - > Viết phép tính thích hợp. Thông thường, sau mỗi phép tính ở phần luyện tập có một hình vẽ và có 5 ô vuông dưới tranh cho học sinh chọn ghi phép tính và kết quả phù hợp với hình vẽ. Ban đầu để giúp học sinh dễ thực hiện sách giáo khoa ghi sẵn các số và kết quả : Ví dụ: Bài 5 (trang 46) a) 1 2 = 3 -> Bài tập này chỉ yêu cầu học sinh viết dấu cộng (+) vào ô trống để có : 1 + 2 = 3 b) Đến câu này nâng dần mức độ - học sinh phải viết cả phép tính và kết quả: 1 + 1 = 2 -> Và yêu cầu tăng dần, học sinh có thể nhìn từ một tranh vẽ: Bài 4 (trang 77) diễn đạt theo 2 cách: Cách 1: Có 8 hộp thêm 1 hộp, tất cả là 9 hộp. 8 + 1 = 9 Cách 2: Có 1 hộp đưa vào chỗ 8 hộp , tất cả là 9 hộp. 1 + 8 = 9 Tương tự: Bài 4b : Có 7 bạn và 2 bạn đang đi tới. Tất cả là 9 bạn. 7 + 2 = 9 Cách 1: Cách 2: 2 + 7 = 9 Đến bài 3 (trang 85): Học sinh quan sát và cần hiểu được: Lúc đầu trên cành có 10 quả. Sau đó rụng 2 quả . Còn lại trên cành 8 quả. 10 - 2 = 8 ở đây giáo viên cần động viên các em diễn đạt, trình bày nờu miệng bài toỏn rồi ghi đúng phép tính . Tư duy toán học được hình thành trên cơ sở tư duy ngôn ngữ của học sinh. Vì vậy, khi dạy bài này cần hướng dẫn học sinh diễn đạt, trình bày miệng động viên các em viết được nhiều phép tính để tăng cường khả năng diễn đạt cho học sinh. 2. Luyện nêu đề toán qua các tóm tắt của bài toán: Đến cuối học kì I, học sinh đã được làm quen với tóm tắt bằng lời. Tiếp tục có những bài toán không có hình vẽ mà chỉ có phần tóm tắt. Giáo viên cho học sinh thi đua nêu miệng đề toán thông qua phần toám tắt, chẳng hạn: Bài 3 (trang 87): b, Có : 10 quả bóng Cho : 3 quả bóng Còn : .... quả bóng? -> Học sinh có thể nêu nhiều đề toán khác nhau dựa vào tóm tắt trên như: Sơn có 10 quả bóng, Sơn cho bạn 3 quả bóng. Hỏi Sơn còn lại bao nhiêu quả bóng? Mẹ mua 10 quả bóng bay, mẹ cho em 3 quả bóng bay. Hỏi mẹ còn lại bao nhiêu quả bóng?... 10 - 3 = 7 Và dựa vào các bài toán trên, học sinh hoàn toàn dễ dàng viết được phép tính thích hợp đó là: áp dụng cách thức trên học sinh lại tiếp tục được từng bước làm quen với lời thay cho hình vẽ, học sinh dần dần thoát ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết lời giải. Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh, nhưng có thể động viên học sinh khá giỏi làm nhiều cách, có nhiều cách diễn đạt từ một hình vẽ hay một tình huống sách giáo khoa. 3. Giới thiệu bài toán có lời văn- Hình thành cách giải bài toán có lời văn: Giới thiệu bài toán có lời văn bằng cách cho học sinh tiếp cận với một đề bài toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ và yêu cầu hoàn thiện ( tiết 81- Giải toán có lời văn ). Cấu trúc một đề toán gồm 2 phần: phần cho biết và phần hỏi, phần cho biết gồm có 2 yếu tố. Để hình thành cách giải bài toán có lời văn, sách giáo khoa đã nêu một bài toán, phần tóm tắt đề toán và giải bài toán hoàn chỉnh để học sinh làm quen (Bài toán- trang 117). Bên cạnh đó, giáo viên cần cho học sinh nắm vững đề toán, thông qua việc tóm tắt đề toán. Biết tóm tắt đề toán là yêu cầu đầu tiên để giải bài toán có lời văn; và luôn ghi nhớ: Bài giải gồm 3 phần : câu lời giải, phép tính và đáp số. Chú ý rằng tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán, nhưng phần tóm tắt cần được luyện kỹ để học sinh nắm được bài toán đầy đủ, chính xác. Câu lời giải trong bài giải không yêu cầu mọi học sinh phải theo mẫu như nhau, tạo diều kiện cho Học sinh diễn đạt câu trả lời theo ý hiểu của mình. Quy ước viết đơn vị của phép tính trong bài giải học sinh cần nhớ để thực hiện khi trình bày bài giải. Bài toán giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi học sinh đã thành thạo giải bài toán có lời văn bằng phép tính cộng. Giỏo viờn chỉ hướng dẫn cách làm tương tự, thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán. ở lớp 1, học sinh chỉ giải toán về thêm, bớt với 1 phép tính cộng hoặc trừ, mọi học sinh bình thường đều có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng nếu đư ợc giáo viên hướng dẫn cụ thể. Khi dạy cho học sinh giải bài toán có lời văn cần thực hiện tốt các bước sau: - Đọc kĩ đề bài: Đề toán cho biết những gì? Đề toán yêu cầu gì? - Tóm tắt đề bài. - Tìm được cách giải bài toán. - Trình bày bài giải. - Kiểm tra lời giải và đáp số. Khi giải bài toán có lời văn giáo viên lưu ý cho học sinh hiểu rõ những điều đã cho, yêu cầu phải tìm, biết chuyển dịch ngôn ngữ thông thường thành ngôn ngữ toán học, đó là phép tính thích hợp. Ví dụ: Có một số quả cam, khi được cho thêm hoặc mua thêm nghĩa là thêm vào, phải làm tính cộng; nếu đã ăn hoặc đem cho hay đem bán thì phải làm tính trừ,... Giáo viên hãy cho Học sinh tập ra đề toán phù hợp với một phép tính đã cho, để các em tập tư duy ngược, tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn. Ví dụ: Với phép tính: 3 + 2 = 5. Có thể gợi ý học sinh nờu được các bài toán sau: - Bạn Hà có 3 cỏi kẹo, chị An cho Hà 2 cỏi kẹo nữa. Hỏi bạn Hà có tất cả bao nhiờu cỏi kẹo? - Nhà Nam có 3 con gà, mẹ Nam mua thêm 2 con gà nữa. Hỏi nhà Nam có tất cả bao nhiờu con gà? - Có 3 con vịt bơi dưới ao, có thêm 2 con vịt xuống ao. Hỏi có bao nhiờu con vịt dưới ao? - Hôm qua lớp em có 3 bạn được khen. Hôm nay có 2 bạn được khen. Hỏi trong hai ngày lớp em có mấy bạn được khen? Có nhiều đề bài toán học sinh có thể nêu được từ một phép tính. Biết nêu đề bài toán từ một phép tính đã cho, các em sẽ hiểu vấn đề sâu sắc hơn, chắc chắn hơn, tư duy và ngôn ngữ của các em sẽ phát triển hơn. 4. Tìm ra yếu điểm của học sinh: Trong dạy học, tìm ra những vướng mắc mà học sinh thường gặp là một việc quan trọng. Tiến hành khảo sát thực tế, kết hợp đúc rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy, tham khảo bạn bè đồng nghiệp, tôi nhận thấy nhiều em còn hay sai sót như: - Học sinh biết giải toán có lời văn nhưng kết quả chưa cao. - Số học sinh viết đúng câu lời giải đạt tỷ lệ thấp. - Lời giải của bài toán chưa sát với câu hỏi của bài toán. - Kỹ năng diễn đạt lời nói khi trả lời câu hỏi của còn hạn chế. - Việc đọc hiểu đề toỏn của Học sinh cũn hạn chế vỡ vẫn cũn một số em lười đọc, tốc độ đọc chậm, chưa tự giỏc luyện đọc. - Một số em trình bày bài giải chưa đẹp và khoa học. 5. Quỏ trỡnh giảng dạy và thực nghiệm: Trong phạm vi 27 tiết dạy (từ tiết 81 đến tiết 108), tôi đặc biệt tập trung vào một số tiết chính sau đây: Tiết 81: Bài toán có lời văn Bài toỏn 1: Có ... bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? + HS quan sát tranh và trả lời câu hỏi . + Điền vào chỗ chấm số 1 và số 3. Bài toỏn 2: tương tự. Qua tìm hiểu bài toán giúp cho học sinh xác định được bài có lời văn gồm 2 phần: Thông tin đã biết gồm 2 yếu tố. Câu hỏi ( thông tin cần tìm ) Từ đó học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập ở trang 116: - > Có 1 con gà mẹ và 7con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà? Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên, học sinh hoàn thành bài toán 4 trang 116: -> Có 4 con chim đậu trên cành, có thêm 2 con chim bay đến. Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim? Tiết 82: Giải toán có lời văn. Giáo viên nêu bài toán . Học sinh đọc bài toán. + Đây là bài toán gì? Bài toán có lời văn. + Thông tin cho biết là gì ? Có 5 con gà , mua thêm 4 con gà. + Câu hỏi là gì ? Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà ? Dựa vào tranh vẽ và tóm tắt mẫu, GVđưa ra cách giải bài toán mẫu: Bài giải Nhà An có tất cả là: 5 + 4 = 9 ( con gà ) Đáp số: 9 con gà Bài 1( trang117): Học sinh đọc bài toán- phân tích đề bài- điền số vào tóm tắt và giải bài toán . Tóm tắt Bài giải An có : 4 quả bóng Cả hai bạn có là: Bình có : 3 quả bóng 4 + 3 = 7( quả bóng ) Cả hai bạn có: .... quả bóng? Đáp số: 7 quả bóng Bài 2 (trang 118): Tóm tắt Bài giải Có : 6 bạn Có tất cả là : Thêm: 3 bạn 6 + 3 = 9 ( bạn ) Có tất cả :... bạn? Đáp số: 9 bạn Qua 2 bài toán trên, tôi hướng dẫn học sinh rút ra cách viết câu lời giải như sau: Lấy dòng thứ 3 của phần tóm tắt + thêm chữ là: VD - Cả hai bạn có là: - Có tất cả là: Tương tự, bài 3 (trang118) câu lời giải sẽ là: - Có tất cả là: Tiết 84: Luyện tập Bài 1 và bài 2 (trang 121) tương tự bài 1, 2, 3 (trang117). Nhưng câu lời giải được mở rộng hơn bằng cách thêm cụm từ chỉ vị trí vào trước cụm
Tài liệu đính kèm:
- skkn_gop_phan_nang_cao_chat_luong_day_hoc_giai_toan_co_loi_v.doc