SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng tính nhẩm cho học sinh lớp 1

SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng tính nhẩm cho học sinh lớp 1

 Như chúng ta đã biết, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có một vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kỹ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống. Môn Toán không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về toán học mà còn rèn kỹ năng cho học sinh, đó là các kỹ năng cơ bản và rất thiết thực với cuộc sống cộng đồng, rèn phương pháp suy nghĩ, lòng tự tin, năng động và linh hoạt, ứng xử đúng mực, hợp lí với thiên nhiên, con người và xã hội. Nó giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng thực hành : đọc ,viết, đếm, so sánh các số; cộng, trừ các số; kỹ năng vẽ, đo lường, ước lượng và kỹ năng giải toán nói chung, còn chương trình toán lớp 1 nói riêng là một bộ phận của chương trình môn Toán ở Tiểu học.

 Kiến thức Toán 1 khá đơn giản, hầu hết bắt đầu từ cuộc sống, giáo viên có thể hoàn toàn hướng dẫn học sinh từ kinh nghiệm đã có để hình thành kiến thức mới trong môn Toán.Nhưng nhiều năm dạy lớp 1 tôi thấy học sinh vẫn tính nhẩm chưa nhanh.Tôi thiết nghĩ,giáo viên cần phải có biện pháp nào đó để giúp học sinh tính nhẩm nhanh và đúng, sao cho mọi học sinh đều thích học toán và thấy mình có khả năng học được và học tốt môn Toán nhằm tạo ra hứng thú và niềm tin về khả năng học toán của học sinh.

 

doc 18 trang thuychi01 52798
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng tính nhẩm cho học sinh lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1. Mở đầu
 1.1. Lí do chọn đề tài
 Như chúng ta đã biết, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có một vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kỹ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống. Môn Toán không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về toán học mà còn rèn kỹ năng cho học sinh, đó là các kỹ năng cơ bản và rất thiết thực với cuộc sống cộng đồng, rèn phương pháp suy nghĩ, lòng tự tin, năng động và linh hoạt, ứng xử đúng mực, hợp lí với thiên nhiên, con người và xã hội. Nó giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng thực hành : đọc ,viết, đếm, so sánh các số; cộng, trừ các số; kỹ năng vẽ, đo lường, ước lượng và kỹ năng giải toánnói chung, còn chương trình toán lớp 1 nói riêng là một bộ phận của chương trình môn Toán ở Tiểu học. 
 Kiến thức Toán 1 khá đơn giản, hầu hết bắt đầu từ cuộc sống, giáo viên có thể hoàn toàn hướng dẫn học sinh từ kinh nghiệm đã có để hình thành kiến thức mới trong môn Toán.Nhưng nhiều năm dạy lớp 1 tôi thấy học sinh vẫn tính nhẩm chưa nhanh.Tôi thiết nghĩ,giáo viên cần phải có biện pháp nào đó để giúp học sinh tính nhẩm nhanh và đúng, sao cho mọi học sinh đều thích học toán và thấy mình có khả năng học được và học tốt môn Toán nhằm tạo ra hứng thú và niềm tin về khả năng học toán của học sinh.
 Hiện nay toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tính cực của học sinh làm cho hoạt động dạy trên lớp "nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả". Để đạt được yêu cầu đó giáo viên phải có phương pháp và hình thức dạy học vừa nâng cao hiệu quả cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi tiểu học và trình độ nhận thức của các em. Để đáp ứng với công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và của giáo dục tiểu học nói riêng.
 Trên thực tế, còn nhiều giáo viên băn khoăn về việc rèn cho học sinh tính nhẩm sao cho học sinh dễ tiếp thu và đạt kết quả cao.Với kinh nghiệm của bản thân và tham khảo đồng nghiệp, tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp rèn kỹ năng tính nhẩm cho học sinh lớp 1” để học sinh dễ nhớ, thực hành tốt, đồng thời giúp các em có nền móng vững chắc để học tiếp môn Toán ở các lớp trên.
1.2 . Mục đích nghiên cứu:
 	Thực hiện đề tài này với tôi nhằm mấy mục đích sau đây:
- Rèn kĩ năng tính nhẩm cho học sinh ở lớp 1.
- Tìm một số biện pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành tính nhẩm.
- Rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ và kĩ năng tính toán cho HS khi học toán.
- Định hướng cho HS hoạt động theo hướng tích cực( lấy HS làm trung tâm).
- Tập dượt nghiên cứu khoa học.
1. 3 . Đối tượng nghiên cứu. 
* Đối tượng: Các dạng bài tính nhẩm không nhớ trong môn Toán lớp 1.
* Địa bàn: Học sinh lớp 1B trường Tiểu học Yên Thọ
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
2.Thực hành giải toán tiểu học.
3.Phương pháp điều tra quan sát.
4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
5.Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
2. Nội dung sáng kiến
2.1. Cơ sở lí luận:
 2.1.1. Mục tiêu của môn Toán lớp 1:
 Mục tiêu của Toán 1 là sự vận dụng mục tiêu của môn Toán cấp Tiểu học vào lớp 1. Nói cách khác, mục tiêu của Toán 1 là sự cụ thể hóa mục tiêu môn Toán cấp Tiểu học vào lớp 1.
 Toán lớp 1 cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản nhất, cần thiết nhất về phép đếm, về các số tự nhiên và phép cộng, phép trừ không nhớ trong phạm vi 100, ...làm nền tảng để học lên các lớp trên, và áp dụng những hiểu biết đó vào cuộc sống sau này. Nó giống như viên gạch đầu tiên để xây dựng ngôi nhà tri thức, nó là nền móng cho bậc tiểu học. Vì nếu các em không nắm vững chương trình Toán lớp 1 thì sẽ giống như nền móng ngôi nhà không vững, chắc chắn nó sẽ bị sụp đổ. Do đó, nếu các em không nắm vững những kiến thức toán học lớp 1 thì các em sẽ không thể nào học tiếp môn Toán ở các lớp trên.
 2.1.2.Thế nào là tính nhẩm?
 Giải toán là mức độ cao nhất của tư duy, đòi hỏi mỗi học sinh phải biết huy động gần hết vốn kiến thức vào hoạt động giải toán, mỗi bài toán đều có nội dung kiến thức logic của nó, được thể hiện bằng các ngôn ngữ toán học và có mối quan hệ chặt chẽ trong mỗi bài toán, dạng toán.
 Tính nhẩm là tính toán đòi hỏi con người vận dụng những hiểu biết của mình về số học, huy động sức nhớ của bộ não để nhẩm ra kết quả nhanh và đúng. Vậy khả năng tính nhẩm nhanh và đúng là khả năng lựa chọn và lựa chọn cách tính tối ưu trong nhiều cách tính có thể có của một phép tính hay một dãy tính. Do đó, trong óc mỗi người phải thực hiện các phép biến đổi khác nhau để đưa phép tính về một dạng mới có thể thực hiện tính một cách dễ dàng.Chính vì vậy, tìm ra biện pháp để giúp học sinh tiếp thu kiến thức kỹ năng về tính nhẩm là rất cần thiết.
Ở chương trình giảng dạy lớp 1, học sinh phải tính cộng, trừ ( không nhớ) trong phạm vi 100. Và sách giáo khoa Toán được trình bày rất hệ thống, khoa học theo từng dạng bài riêng.
 Ví dụ:
 - Học sinh học xong các số đến 10. Sau đó mới đọc phép cộng rồi mới học sang phép trừ các số trong phạm vi 10 
 - Học các số đến 20 xong mới học phép tính cộng, trừ các số trong phạm vi 100( không nhớ). Điều đó giúp các em thực hiện thuần thục từng phần, không lẫn lộn giữa phép tính cộng và phép tính trừ
 Mặc dù vậy, do lứa tuổi của các em tư duy chưa cao, bước đầu tập tính toán nên việc tính nhẩm vẫn còn dễ nhầm lẫn. Đây là kĩ năng cần đạt trong khi thực hiện tính ở chương trình Toán lớp 1. Học sinh cần phải thực hiện tính nhẩm nhiều. Điều đó thôi thúc tôi nghiên cứu, tìm cách để giúp học sinh dễ hiểu, dễ thực hiện nhất trong việc tính nhẩm. 
2.2.Thực trạng:
Do điều kiện có hạn về thời gian nên tôi mới tiến hành tìm hiểu việc rèn kĩ năng dạy tính nhẩm cho học sinh lớp 1 ở trường Tiểu học Yên Thọ và đặc biệt là ở lớp 1B mà tôi đang trực tiếp giảng dạy.Qua quá trình tìm hiểu thực trạng tôi thấy một số vấn đề sau:
2.2.1. Về phía giáo viên:
Hiện nay ở cấp Tiểu học nói riêng, việc dạy - học môn Toán đã có nhiều tiến bộ và đổi mới theo hướng tích cực hơn. Hoạt động dạy - học đều được chú trọng và đạt hiệu quả khá tốt. Việc áp dụng phương pháp dạy học theo hướng đổi mới nhằm phát huy tối ưu tính tích cực, sáng tạo của học sinh được nhiều giáo viên khai thác, áp dụng hết sức thành công. 
 Đa số giáo viên nhiệt tình, say mê nghiên cứu sách giáo khoa, sách tham khảo, tích cực đổi mới phương pháp. Thường xuyên trao đổi, bàn luận, dự giờ rút kinh nghiệm để giờ dạy tốt hơn. 
 Song bên cạnh đó cũng còn không ít tồn tại, việc dạy - học thụ động vẫn còn xảy ra. Một số giáo viên chưa vận dụng phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới nên chưa phát huy tính tích cực của học sinh, còn dạy theo phương pháp cũ, nói nhiều làm cho học sinh khó tiếp thu.Việc chú trọng tìm ra cách dạy – cách học hợp lý nhằm phát triển đúng năng lực tư duy học toán cho học sinh chưa được giáo viên chú trọng.. Trong quá tình giảng dạy giáo viên chưa chú ý đến việc chia nhóm đối tượng học sinh và chưa thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học:
Thực tế cũng cho thấy, việc rèn kĩ năng tính nhẩm cho học sinh chưa được tiến hành đồng đều mà giáo viên chỉ thực sự chú ý đến học sinh tích cực hơn so với các học sinh khác( trung bình, yếu). Giáo viên chưa cho HS thực hiện thêm các thao tác nghe, nhìn, đọc, viết để thuộc từng kết quả phép tính.
	Chưa cho học sinh luyện tập để luyện thêm kết quả phép tính khi vòng số được mở dần và luyện tập để thuộc kết quả của phép tính xuất hiện bất kì.
 Chưa áp dụng cơ sở khoa học của cách đặt tính để hướng dẫn học sinh tính nhẩm đối với các dạng bài như
- Cộng, trừ nhẩm số có hai chữ số với số có một chữ số.
- Cộng nhẩm số có một chữ số với số có hai chữ số.
 - Cộng một số với 0:
 - Số 0 cộng với một số:
 - Cộng số tròn chục với số có một chữ số:
 - Cộng, trừ các số tròn chục: 
 - Cộng, trừ số có hai chữ số với số tròn chục
 Bộ đồ dùng dạy học Toán lớp 1 chưa thực sự phong phú nên dẫn tới việc minh họa để hình thành kiến thức mới chưa hấp dẫn.Giáo viên đôi lúc còn ngại sử dụng đồ dùng dạy học vì làm mất nhiều thời gian.
2.2 2. Về phía học sinh:
- Đối với học sinh lớp 1, tư duy của các em là tư duy cụ thể nên hiểu máy móc, tư duy chưa cao, nhất là đối với các em tiếp thu bài còn chậm, tính toán còn mang tính phỏng đoán.
- Kiến thức thực tế của học sinh còn ít nên ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu bài học của học sinh.
- Do nhận thức của học sinh không đồng đều, có em tiếp thu bài nhanh nhưng không chăm chỉ học, có em tiếp thu rất chậm.
- Đa số các em là con gia đình lao động nghèo, một số em cha mẹ ly hôn, có em mồ côi ở với ông bà ...phụ huynh chưa có điều kiện để dạy con em mình, cũng chưa quan tâm đến việc học của các em.Vì thế chưa phối hợp với giáo viên để giáo dục học sinh dẫn đến chất lượng học tập của các em chưa cao.
Trong chương trình môn toán lớp 1, các em được học phép cộng và phép trừ không nhớ trong phạm vi 10, trong phạm vi 100, trong đó tính nhẩm có đến hai dấu phép tính cộng, trừ hoặc tính nhẩm kết quả hai vế để so sánh các số hoặc điền số. 
Chẳng hạn : - Tính nhẩm: 12 + 3 +4 =.....
 26 – 5 + 7 =......
	- Điền dấu thích hợp vào chỗ trống:
	15 – 4....13
 20 + 30...60 – 10
 - Số?
 15 + ... = 19
 ... - 5 = 4
 Đây là dạng toán tương đối khó, đặc biệt là đối với đối tượng học sinh trung bình và yếu.Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách thực hiện.Nhưng trước hết học sinh cần phải biết tính nhẩm.
 Qua giảng dạy, bản thân tôi đã áp dụng hướng dẫn kĩ thuật tính này bằng cách thuận tiện nhất theo hướng dẫn của sách giáo khoa, đó là: 
Ví dụ: 14+3 = ...
Cách 1. Có thể nhẩm ngay 14 + 3 = 17
Cách 2. Có thể nhẩm ngay theo 2 bước:
 Bước 1: 4 + 3 = 7
 Bước 2: 10 + 7 = 17
 Cách 3. Có thể nhẩm theo cách đếm thêm 1 liên tiếp: 14 thêm 1 được 15; 15 thêm 1 được 16; 16 thêm 1 được 17.
 Nhưng trong thực tế đối với những em nhanh hiểu thì các em dễ dàng nhẩm ngay được kết quả. Còn những em ở mức độ trung bình thì thực hiện còn hay sai và dễ nhầm lẫn (có em cho kết quả là 44 hoặc 47). 
 Ở lớp tôi chủ nhiệm, khi học các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 10 có rất nhiều em không thuộc được bảng cộng, bảng trừ đã học: 
 Đặng Diệp Anh Lê Minh Quân
 Đỗ Quốc Huy	Hà Thị Lí
 Và cũng có nhiều học sinh thuộc bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi 10 nhưng khi thực hiện cộng, trừ ( không nhớ) các số trong phạm vi 100 lại hay nhầm lẫn, đặc biệt là khi các em làm những bài tính nhẩm.
Đỗ Thị Minh Hà Ngọc Long
Lê Xuân Mạnh Nguyễn Thanh Mạnh
 Có những em lúng túng khi đặt tính và tính do các em chưa nắm được cấu tạo số.Trường hợp này thường xảy ra khi các em thực hiện các phép tính dạng cộng, trừ số có hai chữ số cho số có một chữ số hoặc cộng số có một chữ số với số có hai chữ số.
 Từ việc nghiên cứu các tài liệu, ghi nhận những sai sót của học sinh lúc học toán, tôi đã tìm ra nguyên nhân cơ bản mà học sinh còn mắc phải.
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến học sinh nhẩm sai, đó là: 
- Học sinh không thuộc bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi 10.
- Học sinh chưa hiểu cách cộng, trừ nhẩm dẫn đến đoán kết quả sai, làm sai.
Ví dụ: Đối với dạng 35 + 20 = ...Nếu như những em không nhẩm ngay được kết quả và không thể áp dụng được cách tính nhẩm theo hai bước mà phải đếm thêm 20 hoặc đặt tính để tính thì rất chậm. Kết quả chưa hẳn đã đúng. 
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện:
Từ thực trạng và những nguyên nhân đã tìm hiểu nói trên, để khắc phục những sai sót mà học sinh còn mắc phải tôi đã thực hiện như sau:
2.3.1. Chia nhóm đối tượng học sinh:
Giáo viên chia học sinh ra thành các nhóm đối tượng : giỏi, khá, trung bình, yếu để các em hỗ trợ lẫn nhau.Học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém. Khuyến khích các em thi đua học tốt, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
2.3.2.Thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học:
Là học sinh trung bình trở lên khi được hỏi: 1 + 1 = ? thì các em sẽ trả lời ngay là: 1 + 1 = 2, nhưng riêng đối với học sinh yếu muốn trả lời được ngay không phải là dễ.Vì vậy, việc sử dụng đồ dùng trực quan cụ thể là rất cần thiết để nhằm giúp học sinh nhận ra ý nghĩa của phép cộng và phép trừ.
Ví dụ: Trong bài “ Phép cộng trong phạm vi 4” tôi sử dụng tranh có hình ảnh quen thuộc như quả cam, con bướm, lá cây, con mèo, ...
* Hình thành phép cộng 3 + 1 = 4 bằng cách:
- Tôi gắn 3 quả cam rồi gắn thêm 1 quả cam nữa. Trong khi gắn tôi yêu cầu học sinh quan sát kĩ thao tác gắn thêm.
- Tôi nêu bài toán: Ba quả cam thêm một quả cam, được mấy quả cam?. Gọi học sinh khá, giỏi nhắc lại bài toán, sau đó đến lượt học sinh yếu nhắc lại.
- Tôi hỏi tiếp: Vậy 3 thêm 1 bằng mấy? (3 thêm 1 bằng 4).
- Tôi nói: Ta viết 3 thêm 1 bằng 4 như sau: 3 + 1 = 4.
 - Chỉ vào dấu phép tính và nói: Đây là dấu cộng, thêm tức là cộng. 
- Chỉ vào phép tính và nói: Đây là phép tính cộng. Sau đó tôi đọc mẫu phép tính và gọi học sinh đọc.
* Hình thành phép cộng 2 + 2 = 4 và 1 + 3 = 4 tương tự như trên. Sau đó tôi nói thêm: “ Gộp cũng là cộng”.
2.3.3.Cho học sinh học thuộc bảng cộng, trừ trong phạm vi 10.
Làm thế nào để tất cả HS đều thuộc bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi 10?
a. Trước hết phải cho học sinh thực hiện thao tác “gộp” và “ bớt” để tìm ra kết quả của phép tính. 
Để các em hiểu phép tính , tốt nhất là cho các em tự làm việc với que tính.
 Ví dụ: Phép tính 3+ 4 = 7 phải cho học sinh thực hiện hai công việc sau:
- Đếm lấy 3 que tính ( tức là vừa đếm vừa lấy từng que 1, 2, 3). Đếm lấy 4 que tính . Gộp hai nhóm que tính này thành một nhóm.Đếm số que tính của nhóm này rồi viết: 7. Công việc này gọi là thao tác gộp, giúp học sinh hiểu phép cộng một cách khái quát nhất.
- Đếm lấy 3 que tính rồi đếm thêm từng que tính tiếp theo ( 1, 2, 3, 4), không tách riêng mà gộp luôn vào số đã lấy. Đếm số que tính thu được rồi viết : 7. Công việc này gọi là thao tác thêm.
Đối với phép trừ , chẳng hạn 7 – 4 = 3. Phải cho học sinh thực hiện thao tác bớt như sau:
Đếm lấy 7 que tính. Từ số 7 que tính này đếm để lấy bớt 4 que tính và sẽ còn lại là: 1,2,3 que tính.Viết 3.
b. Cho HS thực hiện thêm các thao tác nghe, nhìn, đọc, viết để thuộc từng kết quả phép tính.
- Thuộc thông qua nghe: Nghe giáo viên đọc phép tính, thuộc phép tính đó như nhớ và thuộc một bài hát sau khi nghe.
- Thuộc lòng qua nhìn: Quan sát học sinh viết phép tính, thuộc phép tính giống như nhớ hình ảnh một bức tranh sau khi xem.
- Thuộc bằng cách đọc: Đọc nhiều lần phép tính để ghi nhớ.
- Thuộc bằng cách viết: viết phép tính vào bảng con nhiều lần theo GV đọc.
Thế nhưng hai quá trình “hiểu” và “ thuộc” đôi khi đối lập nhau.Có thể thuộc mà không hiểu thì sẽ chóng quên và không ích gì cho việc giải toán trước mắt và cho việc tư duy phát triển toán học sau này. Nếu hiểu mà không thuộc thì khó vận dụng có hiệu quả vào cuộc sống, sau này rất khó tiếp thu những kiến thức ở lớp trên.
c. Cho học sinh luyện tập để luyện thêm kết quả phép tính khi vòng số được mở dần. 
Phép cộng, trừ trong phạm vi 10 được giới thiệu từng phần theo nguyên tắc mở rộng vòng số trong suốt năm học. Như vậy, đầu tiên cần dạy cho học sinh thuộc các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 2 ( chỉ đối với các số khác 0)
 1 + 1 = 2
 2 - 1 = 1
Tiếp theo cần dạy cho học sinh bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 3
Bảng cộng trong phạm vi 3
Bảng trừ trong phạm vi 3
1 + 1 = 2
1 + 2 = 3 
2 + 1 = 3 
2 -1 =1
3 -2 = 1
3 – 1 =2
 Mỗi bảng này có 3 phép tính nhưng HS chỉ cần phải học thêm 2 phép tính mới, đấy là các phép tính cộng mà có kết quả bằng 3 và các phép tính trừ dạng 3 trừ đi một số, vì phép tính còn lại đã có trong bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi 2
 Để học sinh ghi nhớ các phép tính mới này, cách tốt nhất là cho các em thực hiện thao tác tách: tách 3 que tính thành 2 phần.Đến bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi 4 thì học sinh chỉ cần học thêm 3 phép tính mới và cứ như thế tiếp tục cho đến bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 10.
 Sự lặp lại, mở rộng vòng số tự nhiên như trên cùng góp phần nâng cao năng lực tư duy của học sinh, rèn luyện thói quen tìm hiểu vấn đề một cách có hệ thống.
 d. Cho HS luyện tập để thuộc kết quả của phép tính xuất hiện bất kì.
 Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến bảng cộng , bảng trừ đọc rất trôi chảy, chính xác nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và phải nhẩm lại từ đầu. Điều đó chứng tỏ học sinh nắm kiến thức một cách máy móc.
 Trong bảng cộng và bảng trừ, các phép tính được liệt kê theo một trật tự logic nhưng phải vận dụng vào cuộc sống hàng ngày, phải nói ngay được một kết quả bất kì, xuất hiện ngẫu nhiên. Vì thế, cần luyện tập cho học sinh thuộc phép tính đến mức cao này.
 Cách đơn giản và hiệu quả nhất là mỗi buổi học dành 5 đến 10 phút để luyện tập tính nhẩm đồng nghĩa với học sinh học thuộc lòng. Cách tổ chức luyện tập tính nhẩm có nhiều hình thức phong phú.
- Giáo viên đọc phép tính bất kì, học sinh nói nhanh kết quả.
- Một học sinh đọc phép tính, học sinh khác đọc kết quả.
- Tổ chức các trò chơi, trong đó cần cộng, trừ nhanh.
 Ngoài tất cả những cách để giúp cho học sinh thuộc bảng cộng và bảng trừ nói trên, nên treo một bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 10 dưới dạng thu gọn để giáo viên luôn nhắc nhở học sinh, 100% học sinh phải thuộc hai bảng đó, còn học sinh ngày nào cũng thấy và ghi vào trong trí nhớ một cách bền vững.
2.3.4.Hướng dẫn học sinh nắm vững cấu tạo số có hai chữ số:
Để có thể đặt tính và tính đúng thì điều đầu tiên học sinh phải nắm được cấu tạo số.
Khi dạy học sinh phân tích cấu tạo số thì nhất thiết giáo viên phải sử dụng đồ dùng trực quan. Giáo viên có thể sử dụng các bó chục que tính và các que tính rời.Chẳng hạn, khi phân tích số 23, giáo viên cho học sinh quan sát và nhận ra: có 2 bó chục que tính tức là có 2 chục que tính và 3 que tính rời, như vậy số 23 gồm 2 chục và 3 đơn vị.Khi viết, chữ số hàng chục đứng trước( bên trái), chữ số hàng đơn vị đứng sau (bên phải).
Ví dụ: Đặt tính rồi tính: 21 + 35 
Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo số:
 21 gồm 2 chục và 1 đơn vị
 35 gồm 3 chục và 5 đơn vị.
 Từ đó học sinh đặt tính:
 21 viết 2 chục thẳng cột với 3 chục
 + 5 đơn vị thẳng cột với 1 đơn vị.
 35
	...
 Và như vậy, khi tính nhẩm, học sinh không bị nhầm lẫn khi viết kết quả số hàng chục và hàng đơn vị .
Ví dụ: 
 Tính nhẩm: 26 + 32 
 6 cộng 2 bằng 8, viết 8 ở hàng đơn vị( xa dấu = một chút)
 2 cộng 3 bằng 5, viết 5 ở hàng chục
 Ta có: 26 + 32 = 58
 2.3.5. Áp dụng cơ sở khoa học của cách đặt tính để hướng dẫn học sinh tính nhẩm.
 Đối tượng dạy học của chúng ta là học sinh lớp 1.Đây là lứa tuổi chuyển tiếp từ giai đoạn vui chơi sang giai đoạn học tập, khả năng tri giác của các em rất tốt, hứng thú học tập ngày càng bộc lộ.Tuy nhiên, khả năng tư duy của các em còn mang tính trực quan, cụ thể. Do đó, khi dạy học sinh về tính nhẩm, giáo viên cần có những biện pháp, cách nhẩm riêng đối với từng dạng bài cụ thể dựa trên cơ sở khoa học của cách đặt tính.
a. Cộng, trừ nhẩm số có hai chữ số với số có một chữ số.
 Học sinh đã được học đặt tính như sau: 
Ví dụ 1. 16 + 3
 16 Đặt tính: viết 16
 + Viết 3 (đơn vị) thẳng cột với 6 (đơn vị).
 3 Tính: 6 cộng 3 bằng 9, viết 9
 19 Hạ 1, viết 1.
 Giáo viên hướng dẫn học sinh tính nhẩm luôn như sau:
 16 + 3 = 19	
 Bước 1. Ta cộng từ hàng đơn vị, 6 đơn vị cộng 3 đơn vị bằng 9 đơn vị, viết 9( ở hàng đơn vị)
Bước 2. Chuyển một chục sang, viết 1 ở hàng chục
Ví dụ 2. 36 - 2
 36 Học sinh đã học cách đặt tính và tính như sau:
 2 Đặt tính: viết 36
 34 Viết 2 (đơn vị) đặt thẳng cột với 6 (đơn vị)
 Tính: 6 trừ 2 bằng 4, viết 4.
 Hạ 3, viết 3.
Giáo viên cho học sinh tính nhẩm như sau: 36 - 2 =34 
 6 đơn vị trừ 2 đơn vị bằng 4 đơn vị, viết 4 ( ở hàng đơn vị)
 Chuyển 3 chục sang, viết 3 (ở hàng chục)
b. Cộng nhẩm số có một chữ số với số có hai chữ số.
Học sinh đã được học đặt tính như sau: 
Ví dụ 3 . 6 + 23
 6 Đặt tính: Viết 6
 + Viết 23 sao cho 3 (đơn vị) thẳng cột với (6 đơn vị.) 
 2 3 Tính: 6 cộng 3 bằng 9, viết 9
 2 9 Hạ 2, viết 2.
 Đối với dạng bài này, học sinh khi cộng nhẩm rất dễ nhầm lẫn. Rất nhiều em tính nhẩm ra kết quả là: 6 + 23 = 83.
 Do vậy, giáo viên cần khắc sâu cho học sinh: Ta cộng hàng chục với hàng chục, hàng đơn vị với hàng đơn vị và hướng dẫn học sinh tính nhẩm như sau:
 6 + 23 = 29	
 Bước 1. Ta cộng từ hàng đơn vị, 6 đơn vị cộng 3 đơn vị bằng 9 đơn vị, viết 9( ở

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_ky_nang_tinh_nham_cho_hoc_sinh_lop.doc