SKKN Giáo dục lí tưởng sống cho học sinh qua bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu (Chương trình Ngữ Văn 11 - Cơ bản)

SKKN Giáo dục lí tưởng sống cho học sinh qua bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu (Chương trình Ngữ Văn 11 - Cơ bản)

Lí tưởng sống quyết định sự thành công trong cuộc đời mỗi con người. Lí tưởng dẫn dắt sự nghiệp, tăng thêm sức mạnh để chúng ta đạt đến thành công. Không những vậy, lí tưởng còn đem lại cho ta sức mạnh vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Đúng như L.Tolstoi đã khẳng định: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. Thế hệ học sinh là những chủ nhân tương lai của Đất nước cũng cần phải có lí tưởng sống đúng đắn. Vì vậy, việc giáo dục lí tưởng sống trong nhà trường là vô cùng quan trọng và cần thiết.

 Ở nhà trường, tất cả các môn học đều có nhiệm vụ cung cấp tri thức và giáo dục nhân cách. Song, môn Ngữ văn lại là môn có nhiều ưu thế trong việc lồng ghép tích hợp giáo dục kĩ năng sống nói chung và lí tưởng sống nói riêng cho học sinh. Bởi, đây là một môn nghệ thuật - nghệ thuật ngôn từ. Và giáo dục bằng nghệ thuật là cách giáo dục hiệu quả nhất, vì người được giáo dục thông qua sự hứng thú, say mê, thăng hoa cùng nghệ thuật mà hình thành và phát triển nhân cách. Đúng như trong “Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn”, các nhà nghiên cứu đã khẳng định: “môn Ngữ văn bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa; tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước; lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự cường; lí tưởng xã hội chủ nghĩa; tinh thần dân chủ, nhân văn; giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị và hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa” [2, tr 5]. Việc giảng dạy lí tưởng sống qua các tác phẩm văn học không chỉ giúp học sinh hiểu và cảm nhận được nội dung của tác phẩm mà còn hình thành lối sống đẹp và ý thức trách nhiệm đối với đất nước.

 

doc 21 trang thuychi01 17073
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giáo dục lí tưởng sống cho học sinh qua bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu (Chương trình Ngữ Văn 11 - Cơ bản)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
	Lí tưởng sống quyết định sự thành công trong cuộc đời mỗi con người. Lí tưởng dẫn dắt sự nghiệp, tăng thêm sức mạnh để chúng ta đạt đến thành công. Không những vậy, lí tưởng còn đem lại cho ta sức mạnh vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Đúng như L.Tolstoi đã khẳng định: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. Thế hệ học sinh là những chủ nhân tương lai của Đất nước cũng cần phải có lí tưởng sống đúng đắn. Vì vậy, việc giáo dục lí tưởng sống trong nhà trường là vô cùng quan trọng và cần thiết.
	Ở nhà trường, tất cả các môn học đều có nhiệm vụ cung cấp tri thức và giáo dục nhân cách. Song, môn Ngữ văn lại là môn có nhiều ưu thế trong việc lồng ghép tích hợp giáo dục kĩ năng sống nói chung và lí tưởng sống nói riêng cho học sinh. Bởi, đây là một môn nghệ thuật - nghệ thuật ngôn từ. Và giáo dục bằng nghệ thuật là cách giáo dục hiệu quả nhất, vì người được giáo dục thông qua sự hứng thú, say mê, thăng hoa cùng nghệ thuật mà hình thành và phát triển nhân cách. Đúng như trong “Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn”, các nhà nghiên cứu đã khẳng định: “môn Ngữ văn bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa; tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước; lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự cường; lí tưởng xã hội chủ nghĩa; tinh thần dân chủ, nhân văn; giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị và hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa” [2, tr 5]. Việc giảng dạy lí tưởng sống qua các tác phẩm văn học không chỉ giúp học sinh hiểu và cảm nhận được nội dung của tác phẩm mà còn hình thành lối sống đẹp và ý thức trách nhiệm đối với đất nước. 
	Tuy nhiên, thời đại mới với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, sự thay đổi của cách sống và quan niệm thẩm mĩ của con người hiện đại có ảnh hưởng rất lớn tới suy nghĩ của học sinh. Nhịp sống hiện đại cũng khiến nhiều em thờ ơ với những giá trị mà môn Ngữ văn mang lại. Các em không còn rung động trước một bài thơ hay, một câu chuyện hấp dẫn, lạnh lùng với số phận nhân vật, thờ ơ trước cảnh đời. Nhiều em thích cuộc sống hưởng thụ, vị kỉ mà không có sự nỗ lực phấn đấu trong học tập và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Do vậy, hơn lúc nào hết, người thầy cần phải khơi dậy tình cảm nhân văn, định hướng nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn cho các em ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. 
 	Trong chương trình Ngữ văn lớp 11 có rất nhiều văn bản để tích hợp giáo dục lí tưởng sống cho học sinh. Với kinh nghiệm giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 11 bản thân tôi nhận thấy dạy bài “Từ ấy” của Tố Hữu, đặc biệt là dạy tích hợp “Giáo dục lí tưởng sống cho học sinh qua bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu (Chương trình Ngữ Văn 11 - Cơ bản)” đem lại hiệu quả cao cho giờ học đồng thời giúp các em học sinh có cách nhìn mới về nội dung của bài và hình thành thêm về lí tưởng sống cao đẹp.
1.2. Mục đích chọn đề tài 
- Đưa ra những phương pháp tích hợp giáo dục lí tưởng sống cho học sinh lớp 11 qua giảng dạy bài thơ “Từ ấy” (Tố Hữu). Trên cơ sở đó, góp phần đổi mới phương pháp dạy học bộ môn trong nhà trường là đề cao vai trò chủ động, tích cực và phát huy năng lực cảm thụ và ứng dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Từ đó mà hiệu quả dạy học bộ môn cũng được nâng cao. 
	- Góp phần giáo dục lí tưởng sống cho học sinh, hình thành nhân cách cho học sinh qua bài học: biết đặt ra mục tiêu, có ý chí nỗ lực và sống có trách nhiệm. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu 
 	- Giáo dục lí tưởng sống cho học sinh lớp 11 qua bài thơ “Từ ấy” của nhà thơ Tố Hữu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu 
 	- Nghiên cứu cơ sở lí thuyết: Những tài liệu có liên quan đến lí tưởng sống, bài thơ “Từ ấy”.
 	 - Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin lớp 11.
 	 - Phương pháp thống kê xử lý số liệu: cho học sinh làm bài kiểm tra.
 	 - Tiến hành thực nghiệm trong tiết dạy: Đan lồng giáo dục lí tưởng sống trong giảng dạy bài thơ “Từ ấy”.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.1.1. Khái quát chung về lí tưởng sống
	2.1.1.1. Khái niệm
	“Lí tưởng sống là cái đích của cuộc sống mà mỗi con người khao khát muốn đạt được” [3; tr.34]. Người có lí tưởng sống cao đẹp là người luôn có suy nghĩ và hành động để hoàn thiện mình hơn, giúp ích cho bản thân, gia đình, xã hội, đất nước và nhân loại. 
2.1.1.2. Biểu hiện về lí tưởng sống qua từng thời đại
	Mỗi chúng ta sẽ có quan niệm về lí tưởng sống, tùy thuộc vào hoàn cảnh, trình độ, cách sống của mình. Lí tưởng sống có nhiều mặt: lí tưởng chính trị, lí tưởng nghề nghiệp, lí tưởng thẩm mĩ... Tuy nhiên, những quan điểm ấy vẫn lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm cốt lõi: lí tưởng cao cả của bản thân luôn góp phần thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của đất nước.
	Lí tưởng của con người trong thời kì chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc: phấn đấu vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Lí tưởng của thế hệ trẻ ngày nay là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. 
	Lí tưởng sống có những biểu hiện vô cùng phong phú và đa dạng qua các thời kì, nhưng tựu trung lại, thể hiện chủ yếu ở những điểm sau:
	- Suy nghĩ và hành động không mệt mỏi để thực hiện lí tưởng chung của dân tộc, nhân loại.
	- Vì sự tiến bộ của bản thân và xã hội, luôn vươn tới sự hoàn thiện của bản thân về mọi mặt.
	- Cống hiến trí tuệ và sức lực cho sự nghiệp chung của cộng đồng, đất nước.
2.1.2. Lí thuyết về tích hợp giáo dục lí tưởng sống trong bộ môn Ngữ Văn
 “Tích hợp là lắp ráp, nối kết các thành phần của một hệ thống theo quan điểm tạo nên một hệ thống toàn bộ” [5, tr 891]. “Tích hợp” chính là sự hợp nhất, sự nhất thể hóa để đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, “Tích hợp” có hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau: Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân chia giữa các thành phần kết hợp.Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau. Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ tác động riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh vực nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống.
Tích hợp (integration) trong quá trình dạy học là sự phối kết hợp các tri thức của một số môn học có những nét chính, tương đồng xoay quanh một chủ đề nào đó. Nói cách khác, tích hợp là phương pháp phối hợp một cách riêng lẻ các môn học khác nhau, các phân môn học khác nhau theo những hình thức, cấp độ khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích, yêu cầu cụ thể nào đó của tiết học. Việc vận dụng phương pháp dạy học tích hợp là một trong những cơ sở đánh giá hiệu quả của một tiết dạy về mặt phương pháp.
	 Trong chương trình THPT, môn Ngữ Văn, năm 2002 của Bộ GD&ĐT, khái niệm “Tích hợp” cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc” [1; tr 27]. Sự kết hợp ấy tạo cho học sinh sự hứng thú trong giờ học, do đó sự lĩnh hội tri thức trở nên hiệu quả hơn.
	Tóm lại, hiểu đúng bản chất khái niệm “tích hợp” có ý nghĩa quan trọng giúp người giáo viên xác lập được phương pháp dạy học phù hợp, đúng với tinh thần đổi mới phương pháp, đáp ứng yêu cầu mang tính bức thiết của thời đại ngày nay.
Như vậy, cách làm này giúp cho giờ dạy tránh được sự nhàm chán, giúp cho việc khai thác kiến thức trong bài dạy rộng và sâu, học sinh lĩnh hội được nhiều kiến thức và thấy được sự kết nối của các phân môn trong bộ môn, các bài học trong chương trình. Từ đây, học sinh được rèn luyện kĩ năng so sánh văn học và liên hệ thực tế đời sống Đây là những kĩ năng vô cùng quan trọng và cần thiết đối với người học.
2.1.3. Vai trò của môn Ngữ Văn trong việc giáo dục tư tưởng đạo đức cho thế hệ trẻ 
Giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức học sinh nói riêng nhằm hình thành hành vi ứng xử văn hoá cho học sinh là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay. Đó chính là sự định hướng vào những bản chất tốt đẹp của con người Việt Nam mới, vừa giữ được thuần phong mỹ tục của dân tộc, vừa thể hiện sự thông minh sáng tạo của các thế hệ học sinh Việt Nam. 
Trong chương trình giáo dục, đã có rất nhiều hình thức, môn học nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh như môn Giáo dục công dân, Giáo dục quốc phòng, Ngữ văn, Lịch sử, Tất cả các môn học này ngoài việc cung cấp kiến thức thì thông qua đó phải coi trọng và đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh. Không thể giao phó nhiệm vụ ấy cho riêng một môn học nào mà cần có sự kết hợp chặt chẽ với nhau, biện chứng với nhau hướng tới một mục đích chung cuối cùng là giáo dưỡng, giáo dục và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, tôi chỉ đề cập đến vấn đề giáo dục lí tưởng sống cho học sinh THPT thông qua hoạt động dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường. 
Môn Ngữ văn có giá trị giáo dục rất to lớn, như M.Go-rơ-xki đã nói: “Văn học là nhân học”. Học văn chính là học cách làm người. Qua mỗi tác phẩm văn chương, người thầy giúp học sinh biết yêu, biết ghét và biết ước mơ. Đồng thời, môn Ngữ văn làm cho con người phát triển toàn diện hơn.
	Tất cả những kiến thức lí thuyết trên là cơ sở để tôi thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm này. Bên cạnh đó, tôi cũng khảo sát thực trạng về quan điểm lí tưởng sống của học sinh lớp 11A4, 11A9 ở trường THPT Đông Sơn 1 để có giải pháp thực hiện hợp lí, hiệu quả.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
	2.2.1. Thực trạng giáo viên
	- Có một thực trạng thường thấy trong các nhà trường hiện nay việc dạy học phần văn thơ vẫn còn nặng về kiến thức. Người dạy và người học chủ yếu chỉ quan tâm đến nội dung nào sẽ phục vụ cho các kì thi, còn nếu không thi thì sẽ bị xem nhẹ. Vì vậy người dạy thường say sưa tìm tòi, khám phá sự hấp dẫn về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm mà quên mất các nhiệm vụ quan trọng khác.
	- Một bộ phận giáo viên cũng xem nhẹ tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức, coi đây là công việc của cán bộ chuyên trách Những lí do này khiến giờ dạy và học Ngữ Văn chưa thực sự phát huy tối đa vai trò và tác dụng của mình, giờ học nhiều khi còn cứng nhắc, khô khan và nhàm chán.
Từ những nguyên nhân trên, có thể thấy, từ việc thiếu áp dụng phương pháp dạy học phù hợp sẽ dẫn đến một hậu quả lớn. Đó là :
	- Ảnh hưởng đến chất lượng viết bài làm văn nghị luận văn học ở học sinh. Các em không có khả năng liên hệ, mở rộng nội dung bài học.
	- Ảnh hưởng đến phương pháp và năng lực viết bài văn nghị luận xã hội. Các em không phát hiện được những vấn đề xã hội vốn có trong các tác phẩm văn chương đã học.
2.2.2. Thực trạng học sinh
Theo khảo sát từ thực tế giảng dạy tại trường THPT Đông Sơn 1, tôi nhận thấy những hạn chế còn tồn tại trong việc học Ngữ Văn của học sinh như sau:
	- Các em còn học tập một cách khuôn mẫu, thụ động, chưa phát huy tính chủ động, tích cực khi tiếp cận tác phẩm. Nhiều học sinh có tâm lí ỷ lại, chỉ đợi giáo viên đọc rồi chép lại và học thuộc lòng nội dung bài học một cách máy móc.
	- Khả năng liên hệ giữa kiến thức bài học với thực tế đời sống của học sinh còn gặp nhiều hạn chế.
	- Hiện nay nhiều học sinh thờ ơ, thậm chí còn chán học văn, kể cả tác phẩm văn học hiện đại. Bởi bây giờ các em thích xem phim, nghe nhạc trẻ hơn là những tác phẩm văn học chứa đựng những lí tưởng sống cao đẹp. 	
 * KẾT QUẢ KHẢO SÁT CỤ THỂ TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Ở LỚP 11A4, 11A9 TRƯỜNG THPT ĐÔNG SƠN 1 NĂM HỌC 2018 - 2019 LÀ:
HS nắm bắt khái niệm và có lí tưởng sống tích cực
Lớp
Sĩ số
Biết nắm bắt vấn đề và sống có lí tưởng
Chưa biết nắm bắt vấn đề, mơ hồ về lí tưởng sống
Ghi chú
SL
TL
SL
TL
11A4
38
26
68.4%
12
31.6%
11A9
37
23
62.2%
14
37.8%
Qua kết quả khảo sát có thể nhận thấy: tỉ lệ học sinh nắm bắt về lí tưởng sống chưa cao; tỉ lệ học sinh hiểu mơ hồ còn nhiều. Chính vì vậy mà việc giáo dục lí tưởng sống cho học sinh là vấn đề rất cần quan tâm, nó thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Học sinh chưa có lí tưởng sống tích cực”, để từ đó tìm ra biện pháp dạy học hợp lí nhằm nâng cao tư tưởng, ý thức cho học sinh.
	2.3. Những biện pháp tích hợp giáo dục lí tưởng sống qua bài thơ “Từ ấy” (Tố Hữu) 
	2.3.1. Biện pháp 1: Lồng ghép giáo dục lí tưởng sống trong bài học theo từng phần
	2.3.1.1. Phần hoạt động khởi động bài học
 - Vai trò của phần mở đầu bài học: Làm cho người học tập trung, chú ý, quan tâm và bước đầu tạo sự tích cực tham gia vào bài học, các em sẽ bị cuốn hút vào bài học một cách tự nhiên nhất. Người học đồng thời cũng định hướng được mình sẽ học cái gì ở tác phẩm này? Vì vậy, phần mở đầu bài học có ý nghĩa quan trọng, kích thích năng lực tư duy khám phá bài học của các em học sinh.
 	- Bằng kinh nghiệm bản thân, tôi xin giới thiệu một số hình thức mở đầu bài học như sau:
+ Mở đầu trực tiếp (Có thể chọn một trong ba hình thức sau):
. Khái quát lại bài học trước từ đó tạo mối liên hệ với bài mới và chỉ ra được tầm quan trọng của bài học trong giai đoạn Văn học.
. Giới thiệu tên bài và mục tiêu cần đạt được.
. Giới thiệu tên bài và mô tả những hoạt động sắp thực hiện.
+ Mở đầu gián tiếp (Có thể chọn một trong ba hình thức sau):
. Nêu lên một sự kiện bất thường liên quan đến chủ đề bài dạy.
. Đưa ra một vài con số thống kê, chiếu một đoạn phim hoặc kể một câu chuyện có liên quan.
. Trình chiếu một số hình ảnh liên quan đến nội dung bài học, sau đó dẫn dắt vấn đề.
. Tổ chức trò chơi ô chữ: từ việc lật mở các ô chữ hàng ngang sẽ tìm ra từ chìa khóa có liên quan đến bài học.
. Đặt một loạt câu hỏi vấn đáp (đó là những câu hỏi gắn với kinh nghiệm, nội dung đã học và nội dung liên quan tới bài mới hoặc đó là câu hỏi mang tính thách đố)
 - Một số lưu ý đối với giáo viên: 
+ Lời giới thiệu bài mới phải ngắn gọn, súc tích, chỉ trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 phút.
+ Phải thể hiện sự nhiệt tình, tạo sự gần gũi, thân thiện, hài hước đúng mực.
	 2.3.1.2. Phần tiểu dẫn
	 Lâu nay, trong những giờ đọc hiểu văn bản văn học, giáo viên và học sinh thường cho rằng các thông tin trong phần tiểu dẫn không quan trọng và thường ít để tâm đến. Tuy nhiên, đây là một quan niệm sai lầm. Bởi lẽ, chính những yếu tố ngoài văn bản được trình bày trong đó lại là cơ sở quan trọng để giải mã văn bản văn học, đồng thời phát triển tư duy, phát huy tính tích cực chủ động và hứng thú học tập của học sinh.
	Khi giảng dạy phần tiểu dẫn bài “Từ ấy”, giáo viên có thể tích hợp giáo dục niềm tự hào về tác giả Tố Hữu. Ông không chỉ là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng, mà còn là một nhà cách mạng của đất nước.
	Bên cạnh đó, từ những thông tin về hoàn cảnh ra đời bài thơ có trong phần tiểu dẫn, giáo viên có thể tích hợp giáo dục về lí tưởng cao cả của thế hệ những người trẻ tuổi sẵn sàng xếp bút nghiên lên đường chiến đấu khi Tổ quốc lâm nguy.
	2.3.1.3. Phần Đọc hiểu bài thơ
 	 - Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh chủ động, tích cực khám phá bài học theo mức độ tăng dần: từ phát hiện -> đọc hiểu kĩ -> đọc hiểu sâu văn bản. Có thể minh họa các mức độ theo tiến trình câu hỏi sau:
 	+ Câu hỏi phát hiện (phát hiện các khía cạnh độc đáo của ngôn từ nghệ thuật: Từ ngữ, hình ảnh, chi tiết, các biện pháp tu từ... ). Ví dụ: Đọc câu thơ/ đoạn thơ, có từ ngữ/hình ảnh nào làm em chú ý ? )
+ Câu hỏi về giá trị biểu đạt, hiệu quả nghệ thuật của các thủ pháp nghệ thuật nhằm gợi mở, kích thích trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng, liên hệ, khả năng cảm thụ văn học của học sinh. VD: Cảm nhận của em về cảnh vật/ tình cảm, cảm xúc...) được gợi lên qua chi tiết/từ ngữ/ hình ảnh ... đó?
+ Câu hỏi về thông điệp tư tưởng tình cảm, ý nghĩa triết lí ... tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm. VD: Qua bức tranh cảnh vật/con người/tâm trạng/cảm xúc ... tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta điều gì? 
 	+ Câu hỏi về sự đóng góp về nghệ thuật và nội dung của tác phẩm ... VD : Thành công của tác giả xét ở phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm?
- Giáo viên lồng ghép tích hợp giáo dục lí tưởng sống cho học sinh thông qua hình thức câu hỏi. Tuy nhiên, đó phải là những câu hỏi có nội dung liên quan đến bài học, yêu cầu học sinh giải quyết. Từ đó rút ra bài học yêu cầu giáo dục học sinh.
	Bằng kinh nghiệm thực tế giảng dạy lồng ghép tích hợp lí tưởng sống, tôi xin mạnh dạn giới thiệu một số dạng câu hỏi tích hợp giáo dục lí tưởng sống sau:
	+ Em có đồng tình với quan điểm sống của tác giả?
+ Nếu là em, em sẽ giải quyết/ứng xử vấn đề này như thế nào?
	+ Xét về điều này, em thấy mình còn những hạn chế nào? 
+ Từ lí tưởng sống của nhân vật trữ tình, em học được cách khắc phục hạn chế của bản thân như thế nào? ...
2.3.2. Biện pháp 2: Lồng ghép giáo dục lí tưởng sống vào phần củng cố bài học
	Trong hoạt động dạy và học, tiến trình bài giảng chia thành nhiều bước. Phần việc “củng cố - dặn dò” là thao tác cuối cùng sau khi tìm hiểu xong toàn bộ giá trị của tác phẩm, trước khi kết thúc giờ học. Tuy là phần việc cuối cùng chiếm khối lượng thời gian ít ỏi nhưng có vai trò quan trọng, cũng là một phần tạo nên sự hoàn thiện của một giờ lên lớp. Nếu biết vận dụng linh hoạt sáng tạo phương pháp chắc hẳn phần việc này sẽ có tính hiệu quả và sức hấp dẫn hơn cho hoạt động dạy và học của thầy trò. Nhiệm vụ chính của người giáo viên trong phần việc “củng cố- dặn dò” gồm hai nội dung cơ bản:
	- Thứ nhất, nhằm khắc sâu kiến thức bài học, giáo viên chủ động cung cấp thêm thông tin, tư liệu để mở rộng kiến thức, liên hệ, so sánh... giúp học sinh hiểu được bản chất, sâu sắc bài học.
	- Thứ hai, chú trọng đến hệ thống câu hỏi để học sinh thảo luận, trao đổi,
trình bày những hiểu biết và kiến giải của mình về bài học.
	Như vậy, khi giảng xong bài thơ “Từ ấy”, giáo viên có thể đặt ra câu hỏi củng cố kiến thức và giáo dục lí tưởng sống cho học sinh: Qua tiết học, bản thân em đã rút ra bài học gì cho bản thân mình? 
2.3.3. Biện pháp 3: Tích hợp giáo dục lí tưởng sống bằng cách liên hệ, mở rộng đối chiếu với lí tưởng sống trong các tác phẩm cùng đề tài
	“Thi ngôn dĩ chí”(thơ nói chí), thể hiện quan điểm sống lối sống của con người là nội dung lớn, một dòng chảy xuyên suốt từ văn học dân gian đến văn học viết, từ trung đại đến hiện đại. Vì vậy, khi dạy và học bài “Từ ấy”, ta dễ dàng liên hệ đến rất nhiều tác phẩm cùng đề tài. Giáo viên có thể hỏi: Em hãy liên hệ với một số tác phẩm thể hiện lí tưởng sống tích cực trong thơ ca Việt Nam?
	Tất nhiên, tuỳ vào thời lượng của tiết học, khả năng tiếp nhận của học sinh mà giáo viên sẽ có sự liên hệ, mở rộng một cách hợp lí. Nhưng tựu trung lại, qua sự đối chiếu này, các em có thể nhận ra, lí tưởng sống không phải của riêng một tác phẩm, một thời kì văn học nào. Các em có thể hình thành lí tưởng cao đẹp từ việc cảm thụ kho tàng thơ văn đồ sộ của dân tộc Việt Nam. 	
2.3.4. Vận dụng một số kinh nghiệm giáo dục lí tưởng sống trong dạy học tác phẩm văn chương ở trường THPT vào thiết kế giáo án, giảng dạy bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu
I. Mục tiêu cần đạt
 	 1. Kiến thức
- Thấy rõ niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu bắt gặp lí tưởng cộng sản, tác dụng kì diệu của lí tưởng với cuộc đời nhà thơ.
- Hiểu được sự vận động của các yếu tố trong thơ trữ tình: tứ thơ, hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu trong việc làm nổi bật trạng thái “cái tôi” của nhà thơ.
 2. Kĩ năng 
 - Biết đọc – hiểu một bài thơ
 - Biết suy nghĩ và xác định thế nào là một lối sống đẹp; những biểu hiện của một nhân cách đẹp – nhân cách của người cách mạng.
 3. Thái độ 
Học sinh tự nhận thức được sống có lí tưởng, có ước mơ, quyết tâm phấn đấu thực hiện ước mơ, lí tưởng, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng là một lối sống đẹp.
II. Các phương pháp/kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng
 	1. Trò chơi ô chữ: Chia lớp làm 04 nhóm, tổ chức cho các nhóm tham gia thi “Đoán ô chữ” trong thời lượng 3 phút, yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi hàng ngang, t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giao_duc_li_tuong_song_cho_hoc_sinh_qua_bai_tho_tu_ay_c.doc