SKKN Giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy

SKKN Giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy

Kỹ năng sống là một thành phần quan trọng trong nhân cách con người. Trong nền kinh tế tri thức, cuộc sống luôn tạo ra những khó khăn, thử thách để con người vượt qua. Muốn thành công và sống được trong xã hội hiện đại con người cần phải có kỹ năng sống. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống là một yêu cầu thiết yếu đối với mỗi con người nhằm trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết để giải quyết các vấn đề gặp phải trong cuộc sống.

Giáo dục kỹ năng sống là quá trình tác động sư phạm có mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành năng lực hoạt động tích cực, có liên quan đến kiến thức và thái độ giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội, thực hiện công việc, thích nghi, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống (khả năng làm chủ bản thân, chống lại sự cám dỗ của các tệ nạn xã hội, ứng phó với bạo lực,.). Có thể nói ngắn gọn, giáo dục kỹ năng sống chính là giáo dục làm người- những con người có thể thích ứng với nhiều hoàn cảnh và đòi hỏi khác nhau của cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống rất cần thiết và quan trọng đối với học sinh giúp cho học sinh phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm, giao tiếp, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để các em tự tin trong cuộc sống.

 

doc 18 trang thuychi01 7432
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT HUYỆN QUAN SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ LẬP CHO HỌC SINH H’MÔNG Ở TRƯỜNG PTDTBT THCS SƠN THỦY 
Người thực hiện: Vũ Thị Huệ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường PTDTBT THCS Sơn Thủy
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Kỹ năng sống
THANH HÓA NĂM 2018
Mục lục
Tên đề mục
Trang
1. Mở đầu
1
1.1. Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.2. Thực trạng kỹ năng tự lập của học sinh H’Mông trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
4
2.3. Những nội dung giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy 
5
2.4. Các giải pháp giáo dục kỹ năng tự lập của học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy
5
2.5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 
9
3. Kết luận, kiến nghị
14
3.1. Kết luận
14
3.2. Kiến nghị
14
Tài liệu tham khảo
16
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài	
Kỹ năng sống là một thành phần quan trọng trong nhân cách con người. Trong nền kinh tế tri thức, cuộc sống luôn tạo ra những khó khăn, thử thách để con người vượt qua. Muốn thành công và sống được trong xã hội hiện đại con người cần phải có kỹ năng sống. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống là một yêu cầu thiết yếu đối với mỗi con người nhằm trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết để giải quyết các vấn đề gặp phải trong cuộc sống. 
Giáo dục kỹ năng sống là quá trình tác động sư phạm có mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành năng lực hoạt động tích cực, có liên quan đến kiến thức và thái độ giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội, thực hiện công việc, thích nghi, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống (khả năng làm chủ bản thân, chống lại sự cám dỗ của các tệ nạn xã hội, ứng phó với bạo lực,...). Có thể nói ngắn gọn, giáo dục kỹ năng sống chính là giáo dục làm người- những con người có thể thích ứng với nhiều hoàn cảnh và đòi hỏi khác nhau của cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống rất cần thiết và quan trọng đối với học sinh giúp cho học sinh phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm, giao tiếp, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để các em tự tin trong cuộc sống.
 Hiện nay chúng ta đang hướng tới một nền giáo dục chú trọng phát triển toàn diện về năng lực, phẩm chất và nhân cách cho học sinh nên việc giáo dục toàn diện học sinh không chỉ là dạy học trên lớp mà cần xác định sau khi ra trường học sinh vừa được trang bị vốn kiến thức phổ thông vừa có được những kỹ năng cần thiết để đi vào cuộc sống và đối diện với những tình huống xảy ra trong cuộc sống. Trong thực tế, khi xây dựng chương trình dạy học, nội dung dạy học trên lớp, giáo viên đều phải xây dựng ba mục tiêu: cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ. Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong dạy học và giáo viên đều nhận thức được điều này. Tuy nhiên, có thể nói rằng do phải chạy theo thời gian, phải chuyển tải nhiều nội dung trong vòng 45 phút nên giáo viên có khuynh hướng tập trung vào việc cung cấp kiến thức mà ít quan tâm rèn luyện kỹ năng cho học sinh để các em đi vào cuộc sống. Vì vậy giáo dục kỹ năng sống trở thành mục tiêu và là một nhiệm vụ trong giáo dục nhân cách toàn diện.
Bắt đầu từ năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” để áp dụng vào trong các đơn vị trường học. Một trong năm nội dung của phong trào được quan tâm đó là giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Mặt khác, theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo, các phẩm chất và năng lực cần hình thành cho học sinh được đề xuất ở 6 phẩm chất: (1)Yêu gia đình, quê hương đất nước; (2)Nhân ái khoan dung; (3)Trung thực, tự trọng, chí công, vô tư; (4)Tự lập, tự tin, tự chủ; (5)Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại; (6)Nghĩa vụ công dân và 9 năng lực cụ thể là: (1)Tự học; (2)Giải quyết vấn đề; (3)Sáng tạo; (4)Tự quản lý; (5)Giao tiếp; (6)Hợp tác; (7)Sử dụng công nghệ thông tin; (8)Sử dụng ngôn ngữ (trong đó có tiếng Việt, tiếng dân tộc và tiếng nước ngoài); (9)Tính toán. Như vậy, tự lập vừa là một phẩm chất, vừa là một kỹ năng cần được hình thành cho học sinh.
Trường PTDTBT THCS Sơn Thủy là một trường bán trú. Trong năm học 2017-2018 và các năm học trước đó, số học sinh ở lại trường chiếm 1/3 học sinh toàn trường mà chủ yếu là các em dân tộc H’Mông thuộc hai bản Mùa Xuân và Xía Nọi cách trường khoảng 20 km. Tất cả các em đều thuộc gia đình hộ nghèo, có hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn, ít tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng và những người xung quanh.Tuổi tác còn nhỏ lại quen sống trong sự bao bọc của bố mẹ nhất là các em học sinh lớp 6. Phong tục, tập quán lỗi thời lạc hậu. Vì vậy, khi xuống học, đến với một môi trường hoàn toàn khác lạ, xa gia đình tạo ra cho các em tâm lí nhớ nhà, sợ hãi. Mặt khác, các em mang theo rất nhiều phong tục tập quán lạc hậu; nhiều thói quen trong sinh hoạt tại gia đình, địa phương còn chưa khoa học; thiếu, yếu các kỹ năng sống cơ bản trong học tập, lao động, tham gia các hoạt động tập thể và nề nếp sinh hoạt tại khu bán trú đặc biệt là kỹ năng tự lập như vụng về, lúng túng trong giải quyết công việc, nhớ nhà, không có tính tự chủ, tự giác,...
Với vai trò là giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn, giáo viên chủ nhiệm đồng thời được giao trách nhiệm quản lí học sinh bán trú thông qua các tuần trực, tôi thấy rằng việc giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông là vô cùng cần thiết. Vì nó sẽ giúp cho công tác giáo dục toàn diện và các hoạt động khác tại đơn vị được thuận lợi và đạt được những kết quả cao hơn. Vì vậy tôi chọn đề tài “Giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này tôi muốn đưa ra biện pháp giáo dục kỹ năng sống tự lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy giúp các em hình thành và có những kỹ năng cần thiết cho bản thân để có thể ứng phó và tự giải quyết các vấn đề khó khăn khi mình gặp phải ngay từ khi các em đang còn ngồi trên ghế nhà trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà tôi hướng đến trong đề tài này là biện pháp giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau: 
1.4.1. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Giáo viên tìm hiểu từ nhiều kênh (nhà trường, gia đình, xã hội, bản thân học sinh, thông tin đại chúng) để thu thập thông tin.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu các tài liệu trên báo đài, mạng intenet về các phương pháp, cách thức tổ chức giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông.
1.4.3. Phương pháp trắc nghiệm
Sử dụng một số câu hỏi trắc nghiệm để đo mức độ hình thành kỹ năng tự lập cho học sinh.
1.4.4. Phương pháp thực nghiệm
Áp dụng kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông trong thực tiễn cuộc sống tại trường và địa phương.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Mỗi sinh vật sinh ra trên Trái đất này đều phải có tính tự lập để sinh sống và tồn tại. Con người cũng vậy. Nó sẽ quyết định đến nhân cách và tương lai của một con người. Vậy tự lập là gì? Tự lập có vai trò như thế nào?
Tự lập là tự làm lấy, tự giải quyết công việc của mình, tự lo liệu tạo dựng cho cuộc sống của mình, không trông chờ, dựa dẫm, ỷ lại vào người khác. Tự lập trái ngược với phó mặc, lệ thuộc. Tự lập biểu hiện từ những hành động nhỏ nhất, gần gũi và bình dị nhất trong cuộc sống. Một người nếu có ý thức tự lập cao thì ngay từ nhỏ họ đã có thể tự giặt quần áo cho chính mình. Khi đi học, làm bài gặp bài khó, họ tự suy nghĩ đủ mọi cách để giải được thì thôi, nếu vẫn không thể ra được, nằm ngoài khả năng của họ thì họ mới nhớ đến trợ giúp của bạn bè, thầy cô. Ấy cũng đã là tự lập. Chỉ hành vi nhỏ thôi đã có thể biết bạn là người tự lập hay không. Khi lớn lên rồi, thì tự lập sẽ có biểu hiện phong phú hơn. Nhiều người khi làm sinh viên đã bắt đầu đi làm thêm kiếm tiền, lấy kinh nghiệm cho công việc tuơng lai của mình, không phải xin tiền cha mẹ. Khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn, công việc gặp tai ương trắc trở thì họ không dễ gục ngã, nỗ lực đến cùng để vươn lên cho dù họ biết chỉ cần một cú điện thoại nhỏ để nhờ cậy cha mẹ giúp đỡ thì mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nhiều người sẽ nghĩ đó là ngốc nghếch, cái dễ dàng không chọn lại đi chọn cái phức tạp. Đó quả là một suy nghĩ sai lầm. Việc nhỏ trong khả năng của bản thân còn không làm nổi thì mãi mãi chỉ biết sống núp dưới cái bóng của người khác. 
Tự lập là một đức tính tốt của con người, giúp cho con người sống có bản lĩnh, tự tin với bản thân mình, chủ động, không trông chờ phụ thuộc một ai. Chính vì vậy, người có tính tự lập có thể tự quyết định suy nghĩ và hành động của mình và thường thành công trong cuộc sống. Đối với thế hệ trẻ thì việc tự lập là một điều vô cùng cần thiết bởi nếu không tự đưa ra quyết định cho bản thân mình thì mãi mãi chúng ta sẽ chỉ là một người chạy phía sau, mất phương hướng với tất cả mọi điều đang ở phía trước.
Ngày nay ngành giáo dục và đào tạo đã và đang có những định hướng tích cực để đưa việc giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy trong từng cấp học nhằm định hướng những giá trị và tạo lập hành vi phù hợp với từng lứa tuổi. Chính vì thế việc giáo dục kỹ năng sống đặc biệt là kỹ năng tự lập cho học sinh trong nhà trường THCS nói chung và trường PTDTBT THCS Sơn Thủy nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng. 
2.2. Thực trạng kỹ năng tự lập của học sinh H’Mông trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trường PTDTBT THCS Sơn Thủy hiện nay có số học sinh bán trú là 121/186 học sinh toàn trường. Trong đó, số học sinh ở lại trường là 54 em. Các em chủ yếu thuộc dân tộc H’Mông. Nhận thức của các em có phần hạn chế; lối sống, phong tục tập quán lạc hậu. Các kỹ năng sống cần thiết lại yếu kém như: hạn chế về kỹ năng giao tiếp, lúng túng khi phòng tránh và xử lí tai nạn thương tật, chưa biết cách phòng và ngăn chặn các tệ nạn xã hội, chưa biết cách tự bảo vệ để tránh các hủ tục lạc hậu, chưa tự tin hòa nhập vào cuộc sống, chưa hiểu biết đầy đủ về bản thân, chưa biết cách tự vệ sinh đúng cách, tự bảo vệ bản thân. Vì là vùng khó khăn nên các em ít có cơ hội được tiếp xúc với sách báo, thông tin trên mạng internet,... nên phần nào ảnh hưởng đến việc hình thành cho các em các kỹ năng sống cần thiết cho bản thân trong đó có kỹ năng tự lập. Mặt khác, do hoàn cảnh gia đình có nhiều khó khăn nên ngay từ nhỏ các em đã không được chăm sóc giáo dục đầy đủ; kỹ năng giáo dục của phụ huynh hạn chế. Cha mẹ các em khi mang con xuống trường phó mặc trách nhiệm cho nhà trường. Chỉ một số phụ huynh quan tâm đến con em mình nhưng cũng chỉ xuống thăm các em trong thời gian ngắn.
Khi bước vào môi trường bán trú, các em phải sống trong môi trường tập thể, xa gia đình, phải tự thân vận động từ học tập đến hoạt động ngoài giờ lên lớp, thiết lập các mối quan hệ mới cho đến ăn, ở, đi lại,... mà không có sự trợ giúp của gia đình và cha mẹ. Nếu không có những kiến thức kỹ năng về cuộc sống cần thiết thì các em sẽ vấp phải những khó khăn nhất định. Khi không thể giải quyết các vấn đề đó hoặc giải quyết một cách một cách không hợp lí thì cũng có thể làm cho các em có những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc không theo các quy chuẩn đạo đức và thuần phong mỹ tục của người Việt Nam.Cuộc sống bán trú đòi hỏi các em phải có khả năng sống tự lập rất cao. Chính vì vậy việc rèn tính tự lập trở thành một yêu cầu vô cùng quan trọng cho các em học sinh bán trú của nhà trường.
Việc giáo dục kỹ năng tự lập sẽ thúc đẩy những hành vi tích cực, giúp học sinh bán trú hòa nhập, tự tin hơn trong cuộc sống. Như vậy, giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT chính là giúp học sinh biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực.
2.3. Những nội dung giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy
Để các em có tính tự lập, cần tiến hành các nội dung sau:
2.3.1. Rèn luyện tính tự lập trong sinh hoạt hằng ngày
Việc rèn kỹ năng tự lập trong sinh hoạt hằng ngày trước hết đó là việc tự chăm sóc bản thân. Kỹ năng tự chăm sóc bản thân là khả năng chăm lo cuộc sống của mình về sức khỏe, tinh thần cũng như vật chất. Hiểu biết về bản thân và biết quản lý bản thân, không để những cảm xúc tiêu cực của mình ảnh hưởng tới người khác, tới công việc chung. Các em cần có khả năng tự chăm sóc bản thân từ ăn ở, đi lại cho đến chi phí sinh hoạt. 
Bên cạnh đó, các em cần biết quản lý thời gian của mình. Đó là việc các em biết sắp xếp công việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một thời gian nhất định; tự giác thực hiện thời gian biểu trong ngày từ giờ học, giờ ăn, giờ ngủ, giờ tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp,... Kỹ năng này rất cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, đặt mục tiêu và đạt được mục tiêu đó; đồng thời giúp các em tránh được những căng thẳng do áp lực. Quản lí thời gian là một trong những kỹ năng quan trong trong nhóm kỹ năng tự lập. Quản lí thời gian tốt góp phần rất quan trọng vào sự thành công của cá nhân. 
2.3.2. Giáo dục tính tự chủ để tự lập trong học tập
Tự chủ là làm chủ bản thân mình trong mọi hoàn cảnh, điều kiên của cuộc sống. Tự chủ để tự lập trong học tập là biết chủ động thực hiện theo thời khóa biểu để đến lớp học đúng giờ, chuẩn bị bài vở đầy đủ trước khi đến lớp, có khả năng độc lập trong nhận thức, sẵn sàng tâm lý đối với việc tự học mà không cần người khác phải nhắc nhở. Đối với học sinh bán trú, các em sống xa gia đình nên việc tự chủ trong học tập là một yêu cầu cần thiết giúp các em không phải phụ thuộc vào người khác.
2.3.3. Giáo dục ý thức lao động tự phục vụ bản thân
Lao động tự phục vụ bản thân là chủ động làm những việc liên quan đến bản thân mình mà không cần người khác nhắc nhở. Đây là một trong những kỹ năng quan trọng thúc đẩy các em hoàn thiện mình một cách tốt nhất. Đây cũng là cơ hội giúp các em nhanh chóng khôn lớn và trưởng thành trong cuộc sống. Thiếu kỹ năng này, các em sẽ dẫn đến việc lười biếng, thụ động và kó khăn khi tham gia vào các hoạt động của tập thể. Vì vậy chúng ta cần rèn luyện cho các em kỹ năng này ngay từ những việc làm nhỏ nhất như tự gấp chăn màn khi ngủ dậy, tự giặt quần áo đến việc tự trồng rau để đảm bảo cuộc sống của mình,...
2.4. Các giải pháp để rèn luyện kỹ năng tự lập của học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy
Trước thực trạng về kỹ năng tự lập của học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy đang còn hạn chế, để nâng cao được kỹ năng tự lập cho các em, tôi đã đề xuất với nhà trường thực hiện các giải pháp sau:
Giải pháp thứ nhất: Trang bị kiến thức về kỹ năng tự lập cho cán bộ - giáo viên - nhân viên đặc biệt là học sinh H’Mông. 
Cán bộ- giáo viên- nhân viên nhà trường cần tìm hiểu các tài liệu nghiên cứu về kỹ năng tự lập để nắm chắc cơ sở lí luận cho việc rèn luyện đối với học sinh bán trú; tìm hiểu và nắm rõ các phong tục tập quán của dân tộc H’Mông tại địa phương; hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của các em học sinh H’Mông. 
Các em học sinh cần phải hiểu sự cần thiết phải có tính tự lập, có sự nỗ lực, bền bỉ, có ý chí mạnh mẽ để vươn lên, vượt qua khó khăn, thử thách. Các em cần phải suy nghĩ xem mình cần phải làm gì để có cuộc sống tự lập. 
Giải pháp thứ hai: Tăng cường vai trò quản lí, giảm sát của Ban giám hiệu nhà trường, các tổ chức đoàn thể (Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh). Ngay từ đầu năm học, ban giám hiệu nhà trường đã tiến hành họp với người đứng đầu trong các tổ chức đoàn thể trong nhà trường để xây dựng kế hoạch hoạt động cho khu bán trú trong cả năm học theo từng tháng, nội quy khu bán trú, thành lập Ban quản lí khu bán trú, xây dựng các chủ điểm hoạt động dành cho các em học sinh. Giao cho người đứng đầu quản lí khu bán trú lên lịch trực để theo dõi hoạt động của các em trong từng tuần; chia phòng, cử ra tổ trưởng, tổ phó của khu, tổ trưởng, tổ phó của từng phòng; mỗi tuần tiến hành đánh giá các hoạt động của các em thông qua họp giao ban vào tối thứ 2 hàng tuần về ưu, nhược điểm, đặc biệt tuyên dương những học sinh có ý thức rèn luyện, chấp hành tốt nội quy.
Giải pháp thứ ba: Bố trí các giáo viên, nhân viên có khả năng, có kinh nghiệm hướng dẫn và quan sát cụ thể việc rèn luyện kỹ năng tự lập cho các em tại khu bán trú thông qua các hoạt động: vệ sinh sân trường, phòng ở, quản lí thời gian học buổi chiều, tối, tăng gia sản xuất (trồng rau), tuyên truyền chăm sóc sức khỏe bản thân, giáo dục giới tính đặc biệt là giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên cho các em học sinh nữ, các hoạt động vui chơi giải trí để tìm ra các giải pháp tác động vào học sinh giúp các em hình thành nhóm kỹ năng quản lí bản thân; luyện cho học sinh tập cách tự suy nghĩ và quyết định cho bản thân. Xây dựng nề nếp tự học cho học sinh bán trú: học đúng giờ, có kế hoạch, có phương pháp học tập, có kết quả cụ thể. Tìm hiểu những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân để phát huy tối đa sở trường và hoàn thiện chính mình; giúp các em tập quản lý quỹ thời gian của mình bằng việc tự lên kế hoạch thực hiện các công việc với những thời gian định trước, vào cuối ngày, ghi chép lại các công việc đã hoàn thành, từ đó điều chỉnh cho phù hợp.
Giải pháp thứ tư: Tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể như sinh hoạt dưới cờ, hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa, công tác đoàn - đội; tổ chức, hướng dẫn, vận động, thu hút học sinh tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao thông qua các buổi giao lưu, hội thi (kéo co, đá bóng, bóng chuyền, văn nghệ, hoa điểm tốt,... trong các ngày lễ); tổ chức các trò chơi dân gian mang màu sắc địa phương (ném còn, to lẹ, đi cà kheo,...); tạo ra các tình huống có vấn đề để học sinh được trải nghiệm; nói chuyện theo chủ đề. Tổ chức cho các em ăn ở, học tập, sinh hoạt theo tập thể; lồng ghép, tích hợp giáo dục các kỹ năng sống nói chung đặc biệt là kỹ năng tự lập nói riêng vào các tiết dạy. 
Các em học sinh chơi ném còn, tham gia giao lưu văn nghệ.
Giải pháp thứ năm: Tăng cường tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh thông qua các hoạt động trải nghiệm thực tiễn. Giao cho học sinh những công việc cụ thể để các em tự chịu trách nhiệm về những việc làm của bản thân; phân chia công việc theo nhóm, phòng một cách hợp lí; tổ chức học tập buổi hai trên lớp vào các buổi chiều hoặc buổi tối dưới sự quản lí, hướng dẫn của các thầy cô giáo trực ban, từ đó tạo ra nề nếp cho các em; tổ chức lao động vệ sinh trong toàn khuôn viên nhà trường và khu vực quanh nhà trường. Vào các buổi chiều (16giờ) và buổi sáng (6 giờ), các em bán trú đánh trống tập hợp lao động dọn vệ sinh có sự giám sát của giáo viên trực và học sinh làm trưởng khu. Thông qua các hoạt động này giáo dục các em biết bảo vệ môi trường, giữ gìn môi trường sống, cảnh quan môi trường sư phạm. Có kỹ năng lao động cần thiết giúp các em hiểu thêm về giá trị của sức lao động. Đồng thời rèn luyện kỹ năng hợp tác làm việc theo nhóm; tổ chức các hoạt động thể dục thể thao vào các buổi chiều: chơi bóng đá, bóng chuyền,... Thông qua các hoạt động thể thao rèn luyện sức khỏe bản thân và làm tăng sự nhanh nhẹn; tổ chức cho các em hình thành thói quen tự phục vụ bản thân thông qua hoạt động tăng gia sản xuất như trồng rau; phụ giúp với nhân viên nhà bếp trong nấu ăn (nhặt rau, rửa rau, vo gạo, rửa bát, sắp xếp mâm ăn, lấy củi,...)
Thông qua hoạt động trải nghiệm thực tế các công việc hàng ngày, học sinh sẽ dần hình thành cho mình những kỹ năng cần thiết để vận dụng một cách chủ động, sáng tạo và hiệu quả khi gặp tình huống tương tự.
Các em học sinh quét dọn sân trường và phòng ở vào các buổi sáng.
Các em học sinh lấy củi cho việc nấu ăn.
Giải pháp thứ năm:  Tăng cường công tác phối hợp nhà trường với gia đình và xã hội. Nhà trường, gia đình, xã hội được xem là “tam giác” giáo dục quan trọng đối với mỗi học sinh. Ngoài việc giáo dục trong nhà t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giao_duc_ky_nang_tu_lap_cho_hoc_sinh_hmong_o_truong_ptd.doc