SKKN Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua giảng dạy tác phẩm “Rừng Xà Nu” ( Nguyễn Trung Thành) bằng một số phương pháp dạy học tích cực
Các kĩ năng thông qua hệ thống câu hỏi:
- Giáo viên đặt câu hỏi, nêu vấn đề để học sinh tìm hiểu: Hiện thực mà tác giả đề cập trong truyện ngắn là gì?
Học sinh tìm ra đơn vị kiến thức:
+ Đó là cuộc chiến đấu kiên cường của dân làng Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Qua đó, giáo viên rèn kĩ năng tự nhận thức cho học sinh.
- Tiếp theo, giáo viên đặt câu hỏi hướng dẫn học sinh tìm hiểu hai hình tượng trong tác phẩm đó là hình tượng cây xà nu và hình tượng nhân vật Tnú.
+ Khi phân tích nhân vật Tnú, giáo viên lưu ý kiến thức: Vợ con anh bị giặc bắt đánh đập cho đến chết. Anh bị giặc bắt, bị đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu. Mỗi ngón tay anh còn 2 đốt nhưng anh vẫn tham gia lực lượng vũ trang. Anh đã vượt qua bi kịch cá nhân để cầm súng tiêu diệt kẻ thù bảo vệ quê hương.
- Giáo viên giáo dục cho học sinh: Đứng trước lợi ích cá nhân và lợi ích dân tộc chúng ta phải biết hi sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích cộng đồng, đất nước.
- Tiếp theo, khi phân tích nhân vật cụ Mết, giáo viên đặt câu hỏi: Em có suy nghĩ gì về lời nói của cụ Mết “ Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.
+ Học sinh sẽ tìm ra đơn vị kiến thức: Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấm hiểu là đối với kẻ thù chỉ có 2 bàn tay trắng, chỉ có 2 bàn tay không thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm vũ khí đứng lên!
-Từ đó, giáo viên giáo dục cho học sinh: Trong cuộc sống, khi kẻ thù gây rối, chống phá, xâm lược, chúng ta phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT BÌNH XUYÊN ---------------------------- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY TÁC PHẨM “ RỪNG XÀ NU” ( NGUYỄN TRUNG THÀNH) BẰNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC Tác giả sáng kiến: LÊ THỊ HỒNG LIỄU *Mã sáng kiến: 31.51.11 Năm 2019 1 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Nhiệm vụ và mục tiêu của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy tiềm năng dân tộc và con người Việt Nam. Hơn nữa, đó còn là những con người có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỉ luật, có sức khỏe, là những người xây dựng xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ. Với mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh trong nhà trường, dạy học sinh biết ứng dụng những kĩ năng cơ bản trong học tập vào cuộc sống đúng như mục đích học tập mà Unesco đã đề ra “ Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình”. Trước những yêu cầu bức thiết của giáo dục và cuộc sống, các nhà giáo dục đã và đang miệt mài đổi mới phương pháp theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác của người học. Từ đó, phải làm sao để học sinh say mê, hứng thú học tập, tìm thấy ở học tập tình cảm nhân văn. Giáo dục đã và đang hướng con người tới sự phát triển toàn diện, nhưng ngành giáo dục và công tác giáo dục cũng đang đứng trước bao thử thách, khó khăn. Từng ngày, từng giờ trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các câu chuyện giáo dục, chúng ta phải nghe biết bao nhiêu những câu chuyện đau lòng khiến cho những con người đang “trồng người” phải trăn trở, lo âu: đó là những học sinh vô lễ, đánh thầy cô giáo, học sinh đánh nhau trước cổng trường, những clip bạo lực được quay và tung lên mạng, những câu chuyện học trò yêu đương gây bao hậu quả đau lòngHọc trò ngày nay được tiếp cận với công nghệ thông tin hiện đại lại vốn là thế hệ trẻ thời hiện đại để thích ứng với cái mới. Rồi còn đó những lo ngại của cha ông khi giới trẻ quay lưng lại với truyền thống, đang bỏ qua những nề nếp tốt đẹp mà bao thế hệ đã giữ gìn, phát huy. 3 bằng một số phương pháp dạy học tích cực”người viết mong muốn hướng tới: +/ Khơi gợi tình cảm, định hướng các giá trị sống cho học sinh THPT thông qua các phương pháp dạy học tích cực. +/Qua sáng kiến này, người viết muốn đi sâu vào một số nội dung trong giáo dục kĩ năng sống: giáo dục kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xác định các giá trị, kĩ năng kiên định, đảm nhận trách nhiệm +/ Hình thành cho học sinh có nhận thức tư tưởng đúng đắn, nuôi dưỡng ước mơ, lí tưởng, biết sống và phấn đấu không chỉ cho bản thân mà còn biết sống vì gia đình, quê hương. 6. Ngày sáng kiến áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ tháng 09/2017 đến tháng 05/2018. Sáng kiến được áp dụng vào giảng dạy tiết 64-65 ở lớp 12A1,12A8 trường THPT Bình Xuyên. 7. Mô tả bản chất sáng kiến 7.1 Thực trạng vấn đề 7.1.1 Tình hình dạy môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông: * Về phía giáo viên: - Trong quá trình soạn giáo án đầu tư cho tiết dạy trên lớp, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng chỉ trình bày kiến thức cần đạt một số thao tác, phương pháp giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, không đưa ra nội dung, phương pháp cụ thể để giáo dục kĩ năng sống. Vấn đề này được giáo viên xem xét rối giáo dục kĩ năng phù hợp nên đòi hỏi người thầy phải đầu tư, phải có sự linh hoạt thì giáo dục mới đạt hiệu quả. - Một số giáo viên trong quá trình giảng dạy chưa cân đối thời gian, cung cấp quá nhiều kiến thức nên không có thời gian phát vấn hay thảo luận một số bài tập khác để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Hoặc việc giáo dục kĩ năng sống thông qua câu hỏi bài nào tiết nào cũng thế tạo sự nhàm chán, đơn điệu cho học sinh. * Về phía học sinh: - Hiện nay, việc học văn của các em chủ yếu là đọc và học thuộc văn bản, ghi nhớ lời dạy của thầy cô. Đặc biệt là học sinh lớp 12, các em học lệch để 5 - Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu mơ ước, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực luôn đặt vào những hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn , thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng dễ phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong các nguyên nhân dẫn đấn các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian vừa qua như : nghiện hút, bạo lực học đường, đua xe máy, ăn chơi sa đọa, chính là do các em thiếu những kĩ năng sống cấn thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp -Việc giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hòa và lành mạnh. - Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh với bản chất là hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống rõ ràng là phù hợp, nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông. Phương pháp giáo dục kĩ năng sống, với các phương pháp và kĩ thuật tích cực như hoạt động nhóm, giải quyết vấn đề, tranh luận động não, viết tích cựccũng là phù hợp với định hướng về đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông. Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông là rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Môn Ngữ văn có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân cách, 7 7.2.2.1. Giáo dục kĩ năng sống: - Kĩ năng giao tiếp: Trình bày, trao đổi về cách tiếp cận và cảm nhận thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác. - Kĩ năng tư duy sáng tạo: Phân tích, bình luận về ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm, cách thể hiện tư tưởng thông qua hình tượng nghệ thuật, hệ thống nhân vật, giọng điệu. - Kĩ năng tự nhận thức: Thông qua hình tượng rừng xà nu nà nhân vật Tnú để nhận ra chân lí: Chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo - Kĩ năng xác định các giá trị: Học sinh tìm kiếm những giá trị đích thực của độc lập tự do, của tinh thần đoàn kết, của bài học: dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. 7.2.2.2. Giáo dục kĩ năng sống thông qua các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực - Dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại. - Rèn luyện phương pháp đọc hiểu cho học sinh - Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy. -Các kĩ năng thông qua hệ thống câu hỏi: 7.3. Tiến hành thực nghiệm sư phạm: “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua giảng dạy tác phẩm “ Rừng Xà Nu” ( Nguyễn Trung Thành) bằng một số phương pháp dạy học tích cực”: 7.3.1. Về phương pháp Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh là những bạn đọc còn hạn chế về vốn sống, kinh nghiệm thực tế nhưng lại có khả năng rung động và có cảm xúc đặc biệt với tác phẩm văn học. Vì vậy vai trò của thầy cô giáo là phải bổ sung, bồi dưỡng vốn sống, phát triển các năng lực cảm thụ cho học sinh và hướng dẫn họ đến với tác phẩm văn học một cách đúng nhất, gần nhất. Để làm được nhiệm vụ 9 khó, từ thấp đến cao, từ đọc đúng, đọc thông, đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo. Khi hình thành năng lực đọc hiểu của học sinh cũng chính là hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Trong quá trình đọc hiểu học sinh cần thực hiện các nội dung cơ bản sau: - Huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm của bản thân – là những hiểu biết về chủ đề hay hiểu biết về các vấn đề văn hóa xã hội có liên quan đến chủ đề, thể loại của văn bản. - Thể hiện những hiểu biết về văn bản + Tìm kiếm thông tin, đọc lướt để tìm ý chính, đọc kỹ tìm các chi tiết + Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, phân tích, kết nối, tổng hợpthông tin để tạo nên hiểu biết chung về văn bản. + Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản - Vận dụng những hiểu biết về văn bản đã đọc hiểu vào việc đọc các loại văn bản khác nhau, sẵn sang thực hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong đời sống yêu cầu dùng đến hoạt động đọc hiểu. + Đọc các văn bản khác (ngoài chương trình, sách giáo khoa) có cùng đề tài/ chủ đề hoặc hình thức để thực hiện củng cố hiểu biết và rèn luyện kỹ năng đọc hiểu. + Trình bày những giải pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể từ việc vận dụng những hiểu biết về văn bản đã đọc hiểu. - Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy. Bản đồ tư duy là phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách ghi nhớ chi tiết để tổng hợp hay để phân tích một vấn đề thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Cách ghi chép này khoa học, giúp cho học sinh dễ nhớ và dễ ôn tập hơn. Việc nhớ và ghi lại các thông tin sau này sẽ dễ dàng, đáng tin cậy hơn so với khi sử dụng phương pháp truyền thống. Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy sẽ có những ưu điểm sau: - Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng 11
Tài liệu đính kèm:
- skkn_giao_duc_ki_nang_song_cho_hoc_sinh_qua_giang_day_tac_ph.doc
- Tuan 22 Rung xa nu-BÀI CHUẨN (1).pptx