SKKN Giải pháp nâng cao hiệu quả một số bài thực hành trong chương trình môn Sinh học lớp 8 ở trường THCS Phú Nhuận

SKKN Giải pháp nâng cao hiệu quả một số bài thực hành trong chương trình môn Sinh học lớp 8 ở trường THCS Phú Nhuận

 Bộ môn Sinh học nói chung, môn Sinh học lớp 8 nói riêng chứa đựng cả một kho tàng kiến thức của nhân loại, nó thật sự sống động và hấp dẫn [6]. Để kích thích học sinh có khát vọng, nghị lực vượt qua những khó khăn thường nhật, cố gắng chiếm lĩnh tri thức có hiệu quả nhất, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Trong trường THCS nâng cao chất lượng dạy và học là vấn đề thường xuyên, liên tục và cực kì quan trọng, đó là một vấn đề mà mỗi giáo viên đứng lớp ai cũng phải suy nghĩ. Là một giáo viên được phân công giảng dạy môn sinh học lớp 8, để chất lượng học sinh ngày càng được nâng cao, yêu cầu người giáo viên phải đổi mới được phương pháp dạy học theo hướng tích cực, tạo được môi trường học tập phong phú, đổi mới được cách kiểm tra đánh giá Có thể khẳng định: Đổi mới phương pháp dạy học là điều kiện quan trọng nhất để đổi mới đánh giá và ngược lại, đổi mới đánh giá tạo động lực để đổi mới phương pháp dạy học. Kiểm tra đánh giá là công cụ quan trọng, chủ yếu điều chỉnh hoạt động dạy và học, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo con người theo mục tiêu. Đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển các năng lực của học sinh giúp thu thập và xử lí thông tin để đánh giá đúng quá trình học tập của học sinh trong mối tương quan với các mục tiêu đề ra.

 Trong quá trình giáo dục, đánh giá là một thành tố quan trọng không thể xem nhẹ. Với cả hai chức năng “xác nhận” và “điều khiển”, đánh giá luôn góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục. Đánh giá chất lượng giáo dục bao gồm nhiều vấn đề, trong đó bao gồm việc đánh giá chất lượng giảng dạy của thầy và chất lượng học tập của học sinh. Chất lượng học tập của học sinh thể hiện ở các mức độ nhận thức mà học sinh đạt được căn cứ vào mục tiêu, biểu hiện ở cả kĩ năng và thái độ của học sinh sau khi có được vốn kiến thức môn học. Vì vậy để đánh giá chính xác khách quan chất lượng học tập cần phải có tiêu chí cụ thể nhằm kiểm tra cả về số lượng (các chủ đề, các lĩnh vực kiến thức ) và cả về chất lượng (mức độ kiểm tra trí nhớ, khả năng tư duy linh hoạt, sáng tạo, khả năng vận dụng vào các tình huống thực tiễn).

 Xuất phát từ yêu cầu và mong muốn nâng cao chất lượng dạy học, căn cứ vào chuẩn kiến thức và kĩ năng của môn học ở từng khối lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh sau mỗi lớp, mỗi giai đoạn, mỗi cấp học. Trong quá trình thực tế giảng dạy tại trường THCS Phú Nhuận, tôi đã rút ra được một sáng kiến kinh nghiệm về: “Giải pháp nâng cao hiệu quả một số bài thực hành trong chương trình môn Sinh học lớp 8 ở trường THCS Phú Nhuận”.

 

doc 15 trang thuychi01 15953
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giải pháp nâng cao hiệu quả một số bài thực hành trong chương trình môn Sinh học lớp 8 ở trường THCS Phú Nhuận", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
I. Lý do chọn đề tài.
II. Mục đích nghiên cứu.
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. 
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
1. Thực trạng chung
2. Thực trạng ở trường THCS Phú Nhuận
3. Kết quả thực trạng
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
1. Phương thức tổ chức để giờ thực hành đạt hiệu quả cao
2. Xác định rõ vai trò của giáo viên và trách nhiệm của học sinh trong công tác chuẩn bị cho giờ thực hành
3. Sử dụng phương pháp đặc trưng đối với kiểu bài thực hành để tiết học đạt hiệu quả cao
4. Đưa ra những tiêu chí đánh giá cụ thể phù hợp với mỗi bài thực hành
5. Ví dụ về một bài thực hành cụ thể
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết quả nghiên cứu
II. Ý kiến đề xuất
Tài liệu tham khảo
2
2
2
3
3
4
4
4
4
5
5
6
6
7
7
8
11
13
14
14
14
15
A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
 Bộ môn Sinh học nói chung, môn Sinh học lớp 8 nói riêng chứa đựng cả một kho tàng kiến thức của nhân loại, nó thật sự sống động và hấp dẫn [6]. Để kích thích học sinh có khát vọng, nghị lực vượt qua những khó khăn thường nhật, cố gắng chiếm lĩnh tri thức có hiệu quả nhất, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Trong trường THCS nâng cao chất lượng dạy và học là vấn đề thường xuyên, liên tục và cực kì quan trọng, đó là một vấn đề mà mỗi giáo viên đứng lớp ai cũng phải suy nghĩ. Là một giáo viên được phân công giảng dạy môn sinh học lớp 8, để chất lượng học sinh ngày càng được nâng cao, yêu cầu người giáo viên phải đổi mới được phương pháp dạy học theo hướng tích cực, tạo được môi trường học tập phong phú, đổi mới được cách kiểm tra đánh giá Có thể khẳng định: Đổi mới phương pháp dạy học là điều kiện quan trọng nhất để đổi mới đánh giá và ngược lại, đổi mới đánh giá tạo động lực để đổi mới phương pháp dạy học. Kiểm tra đánh giá là công cụ quan trọng, chủ yếu điều chỉnh hoạt động dạy và học, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo con người theo mục tiêu. Đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển các năng lực của học sinh giúp thu thập và xử lí thông tin để đánh giá đúng quá trình học tập của học sinh trong mối tương quan với các mục tiêu đề ra.
 Trong quá trình giáo dục, đánh giá là một thành tố quan trọng không thể xem nhẹ. Với cả hai chức năng “xác nhận” và “điều khiển”, đánh giá luôn góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục. Đánh giá chất lượng giáo dục bao gồm nhiều vấn đề, trong đó bao gồm việc đánh giá chất lượng giảng dạy của thầy và chất lượng học tập của học sinh. Chất lượng học tập của học sinh thể hiện ở các mức độ nhận thức mà học sinh đạt được căn cứ vào mục tiêu, biểu hiện ở cả kĩ năng và thái độ của học sinh sau khi có được vốn kiến thức môn học. Vì vậy để đánh giá chính xác khách quan chất lượng học tập cần phải có tiêu chí cụ thể nhằm kiểm tra cả về số lượng (các chủ đề, các lĩnh vực kiến thức) và cả về chất lượng (mức độ kiểm tra trí nhớ, khả năng tư duy linh hoạt, sáng tạo, khả năng vận dụng vào các tình huống thực tiễn).
 Xuất phát từ yêu cầu và mong muốn nâng cao chất lượng dạy học, căn cứ vào chuẩn kiến thức và kĩ năng của môn học ở từng khối lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh sau mỗi lớp, mỗi giai đoạn, mỗi cấp học. Trong quá trình thực tế giảng dạy tại trường THCS Phú Nhuận, tôi đã rút ra được một sáng kiến kinh nghiệm về: “Giải pháp nâng cao hiệu quả một số bài thực hành trong chương trình môn Sinh học lớp 8 ở trường THCS Phú Nhuận”.
II. Mục đích nghiên cứu.
Qua một số bài thực hành trong chương trình Sinh học 8 sẽ xây dựng phương pháp tổ chức một tiết dạy thực hành có hiệu quả. Định hướng cho việc nghiên cứu để có thể phát triển một số dụng cụ thực hành, cải tiến một số đồ dùng phục vụ cho tiết thực hành có hiệu quả, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tình hình cụ thể trong chương trình Sinh học và ở địa phương với điều kiện thiếu thốn đồ dùng thực hành cũng như đồ dùng dạy học. 
Mặt khác, cần cho học sinh tham quan thực tế tại các cơ sở y tế của địa phương, các hình ảnh mẫu và làm mẫu của giáo viên giúp học sinh định hướng hình thành kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, thúc đẩy quá trình phát triển tư duy tích cực của học sinh tạo được hứng thú, động cơ học tập và yêu thích bộ môn.
Đề tài không chỉ áp dụng với lớp 8 mà còn áp dụng với cả bộ môn Sinh học ở cấp THCS và góp phần đổi mới phương pháp dạy học trong giảng dạy môn Sinh học nói riêng và nâng cao chất lượng ở cấp THCS.
III. Đối tượng nghiên cứu.
Tất cả các yếu tố trong một tiết thực hành là đối tượng nghiên cứu của đề tài:
- Sự chuẩn bị đồ dùng của học sinh
- Nội dung của bài thực hành.
- Phương pháp tổ chức hoạt động thực hành của giáo viên.
- Các hình ảnh mẫu liên quan đến bài thực hành. [3]
- Hoạt động thực hành của học sinh.
- Kết quả của tiết thực hành (được thể hiện chủ yếu trên sản phẩm của hoạt động thực hành)
IV. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra. 
- Phân tích tổng hợp gắn với lý luận thực tiễn. 
- Kiểm nghiệm. 
- Tổng kết rút kinh nghiệm
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. 
Sinh học là bộ môn khoa học thực nghiệm nằm trong hệ thống khoa học tự nhiên cần có sự kết hợp linh hoạt giữa các phương pháp, giữa lý thuyết và thực hành. [2]
Qua quá trình giảng dạy Sinh học 8 nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết khoa học về đặc điểm cấu tạo, hoạt động của các cơ quan, hệ cơ quan và trong mọi hoạt động sống của con người giúp cho con người sinh tồn và phát triển. Trên cơ sở đó giáo dục cho học sinh biết các biện pháp vệ sinh, rèn luyện thân thể, bảo vệ và tăng cường sức khỏe, nâng cao năng suất, hiệu quả trong học tập góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo những con người lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đồng thời cũng rèn luyện các kĩ năng nghiên cứu bộ môn cho học sinh và cũng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục THCS.
Để thực hiện mục tiêu trên, việc dạy Sinh học 8 cần phải thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ trang bị các kiến thức, phát triển năng lực nhận thức, rèn kĩ năng và giáo dục tư tưởng cho học sinh như nhiệm vụ giảng dạy Sinh học 8 đã nêu ở trên. Để có được kết quả đó không thể không kể đến vai trò to lớn của các tiết thực hành.
Mặt khác theo quy định của Sở giáo dục Thanh Hóa, mỗi học kỳ môn Sinh học lấy ít nhất một con điểm 15 phút thông qua các bài thực hành [7], một học kỳ có nhiều bài thực hành nên thông thường giáo viên thường lấy điểm bình quân của các bài thực hành trong kỳ học làm điểm 15 phút theo yêu cầu. Do đó nâng cao chất lượng giảng dạy các bài thực hành là căn cứ để nâng cao hiệu quả quá trình học tập của học sinh.
Qua các tiết thực hành giúp học sinh rèn luyện các năng lực sau:
- Khai thác kiến thức từ quan sát, mẫu vật và hình ảnh. [3]
- Rèn kĩ năng bộ môn, đặc biệt là các kĩ năng áp dụng trong thực tế như: kĩ năng sơ cứu, băng bó gãy xương, cầm máu và hô hấp nhân tạo... [8]
- Rèn luyện kĩ năng làm tường trình, thu hoạch từ đó giúp học sinh bổ sung kiến thức và kiểm nghiệm kiến thức qua thực tiễn. [8]
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
1. Thực trạng chung:
Một số nguyên nhân dẫn đến kết quả của các bài thực hành chưa đạt được đến mức mong muốn có thể kể đến là: Thiếu đồ dùng, trang thiết bị thiết yếu cho một số tiết thực hành, khó khăn về kinh tế nên học sinh chưa chuẩn bị tốt các mẫu vật theo yêu cầu. Do chương trình có sự phân phối ở một số bài chưa phù hợp với thực tế, tình hình mùa vụ của địa phương. Mặt khác môn Sinh học là một khoa học thực nghiệm, môn khoa học mở, luôn luôn mới và rất trừu tượng. Các em phải tự làm thí nghiệm để tìm kiến thức, qua phương pháp hoạt động nhóm, học sinh phải tích cực để tìm tòi, làm thí nghiệm để đi đến kết luận, giải quyết các vấn đề đặt ra một cách độc lập sáng tạo, làm được báo cáo thu hoạch theo yêu cầu tránh những hạn chế trong học tập. Tuy nhiên không phải tất cả các em đều làm được thí nghiệm, đều viết được báo cáo, không phải giáo viên nào cũng dạy thành công các bài thực hành theo yêu cầu.
Việc giáo viên tổng kết đánh giá công việc của học sinh hết sức cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng khi tự các em làm việc và học sinh cần được đánh giá nhìn nhận đầy đủ khách quan tạo hứng thú trong quá trình tiếp thu kiến thức. Vậy mà hiện nay các sản phẩm hoạt động thực hành của học sinh ít được kiểm tra đánh giá, phần nhiều vì lý do thời gian. Đa số các giáo viên chỉ quan tâm làm thế nào để truyền tải hết kiến thức mà không để ý đến việc học sinh tiếp thu như thế nào, lĩnh hội được những gì và đã làm được những gì qua tiếp thu kiến thức lý thuyết. 
2. Thực trạng ở trường THCS Phú Nhuận:
a. Đối với giáo viên: 
Sau nhiều năm trực tiếp giảng dạy bộ môn Sinh học ở trường THCS Phú Nhuận thuộc huyện miền núi Như Thanh tôi nhận thấy: Đối tượng học sinh có nhiều em là con em dân tộc thiểu số, độ tuổi chung từ 12 đến 14 tuổi, trình độ kiến thức chưa đồng đều; đa số học sinh là con em nông thôn, đời sống còn nhiều khó khăn nên chưa mua sắm đầy đủ đồ dùng học tập, vở bài tập cho con em đến trường, mặc dù đồ dùng học tập đã được cấp nhưng chưa nhiều để dàn trải cho học sinh. Đặc biệt đối với các bài thực hành nếu không đủ dụng cụ, mẫu vật thực hành, buộc giáo viên phải chia nhóm với số lượng mỗi nhóm đông, với điều kiện đó sẽ tạo cơ hội cho nhiều học sinh làm việc riêng dẫn tới giờ học ồn, không đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy mà nhiều giáo viên có tâm lý ngại dạy các tiết thực hành.
b. Đối với học sinh:
Đối với học sinh, tôi nhận thấy môn Sinh học lớp 8 mặc dù là môn văn hóa bắt buộc song nhiều học sinh cảm thấy chưa thực sự ham học, một số bộ phận học sinh còn chây lười trong việc nghiên cứu thông tin, tham gia trao đổi nhóm trong các giờ thực hành, chưa tích cực dẫn đến chất lượng các giờ thực hành chưa đạt hiệu quả cao. [9]
 Bên cạnh đó việc đánh giá của giáo viên đối với các hoạt động trong tiết thực hành của học sinh chưa được thỏa tháng, do điều kiện nhà trường số lớp đông và giáo viên dạy môn Sinh học phải dạy thêm môn Công nghệ nên số tiết nhiều, một buổi có khi dạy tới 3 khối lớp. Trong khi đó nhân viên thiết bị đến năm học 2016- 2017 có nhiều xáo trộn do yêu cầu sắp xếp lại đội ngũ cán bộ giáo viên của Ủy ban nhân dân tỉnh, nên việc chuẩn bị cho tiết thực hành nhiều tiết chưa được chu đáo. [9]
3. Kết quả thực trạng.
 Như vậy, thực tế ta thấy phần lớn học sinh lớp 8 chưa thực sự hứng thú học
tập môn Sinh học. Việc học bài cũ còn thụ động, chưa chủ động để tiếp cận với kiến thức trong làm bài tập, bài kiểm tra viết, chưa tích cực hoạt động nhóm trong các giờ thực hành. Đối với các dạng bài thực hành học sinh chưa thực sự tham gia nhiệt tình và có hiệu quả, vì vậy việc đánh giá chất lượng học sinh gặp nhiều khó khăn. Điều đó dẫn đến kết quả học tập thấp, chưa đạt yêu cầu giáo dục mà chương trình đặt ra, có thể nhận thấy điều này thông qua kết quả điểm 15 phút là điểm bình quân của các bài thực hành trong học kỳ năm học 2015 – 2016 khi chưa áp dụng sáng kiến:
Lớp
Sĩ số
S.L điểm 15’ là điểm thực hành
Giỏi
Khá
Trung Bình
Yếu
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
8A
39
78
3
3,8
17
21,8
34
43,6
24
30,8
 Ghi chú: S.L điểm 15’ là điểm thực hành (Số lượng điểm 15’ là điểm thực hành) = Sĩ số X 2.
	 % = Số lượng/ S.L điểm 15’ là điểm thực hành X 100
Để đáp ứng được mục đích riêng của môn dạy, mục đích chung của ngành học. Qua từng năm học, với vốn kiến thức được tích lũy từ thực tế giảng dạy tôi mạnh dạn nêu cách làm của mình, đi sâu vào cách đánh giá cho điểm một số bài thực hành môn Sinh học lớp 8. Cụ thể như Bài 12 - Thực hành: Tập sơ cứu và băng bó cho người gãy xương; Bài 19 - Thực hành: Sơ cứu cầm máu; Bài 23 - Thực hành: Hô hấp nhân tạo, nhằm tạo cho các em cách học tập, niềm say mê và hứng thú với bộ môn Sinh học, nâng cao chất lượng học tập, đáp ứng yêu cầu của xã hội. 
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
1. Phương thức tổ chức để giờ thực hành đạt hiệu quả cao.
a. Chuẩn bị cho giờ thực hành.
Để tiết thực hành có thành công hay không, từ đó đánh giá chất lượng học sinh có hiệu quả và chính xác thì bước chuẩn bị của cả giáo viên và học sinh là rất cần thiết. Giáo viên cần xác định rõ mình phải chuẩn bị những gì và yêu cầu học sinh cần chuẩn bị những gì cho tiết thực hành thật chu đáo (Căn cứ vào các bước thực hành của sách giáo khoa phát triển theo định hướng của giáo viên). Trên thực tế thì sự chuẩn bị của giáo viên còn nằm trong khuôn mẫu có sẵn ở sách giáo khoa còn học sinh phụ thuộc vào giáo viên. Có những tiết thực hành có thể đạt kết quả rất tốt song do sự chuẩn bị không tốt của học sinh dẫn đến kết quả không cao.
b. Tổ chức giờ thực hành.
Để giúp cho việc đánh giá chất lượng học sinh có hiệu quả cao thì giáo viên cần tổ chức giờ thực hành tốt. Rất nhiều yếu tố giúp cho giờ thực hành được thành công như chuẩn bị cho bài thực hành chu đáo, giáo viên có lời nói, tác phong chuẩn mục, phân phối thời gian hợp lí... Bên cạnh đó giáo viên phải có được phương pháp dạy sao cho lôi cuốn học sinh vào tiết học, gây hứng thú học tập, phát huy được tính sáng tạo, tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội tri thức của học sinh.
c. Đưa ra những tiêu chí đánh giá cụ thể.
Thông qua việc kiểm tra đánh giá học sinh có thể đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên và kết quả học tập của học sinh. Chất lượng học tập môn học của học sinh thể hiện ở các mức độ khác nhau, nhận thức mà học sinh đạt được căn cứ vào mục tiêu xác định, kĩ năng và thái độ của học sinh sau khi có được kiến thức. Vì vậy ngoài việc lựa chọn phương pháp đánh giá, giáo viên cần đưa ra những tiêu chí đánh giá cụ thể. Công tác kiểm tra đánh giá được phối hợp chặt chẽ có động lực thúc đẩy chất lượng dạy và học. Đối với những hoạt động trên lớp trong mỗi tiết dạy cần có sự đánh giá của giáo viên một cách chính xác sau khi học sinh đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá mình.
2. Xác định rõ vai trò của giáo viên và trách nhiệm của học sinh trong công tác chuẩn bị cho giờ thực hành.
Giáo viên cần chuẩn bị không chỉ có giáo án đầy đủ, nội dung phù hợp phong phú với mỗi tiết dạy. Đối với bài thực hành giáo viên còn chuẩn bị đồ dùng, mẫu vật, dụng cụ thực hành, nội dung kiểm tra đánh giá chất lượng học tập của học sinh chu đáo. Giáo viên cũng phải chuẩn bị nhiều phương thức đánh giá, với nhiều tình huống trong giờ thực hành, kết hợp việc giáo viên đánh giá học sinh với học sinh tự đánh giá lẫn nhau. Phải hướng dẫn học sinh biết cách sưu tầm mẫu vật, tự làm và chuẩn bị dụng cụ cho giờ thực hành. Để học sinh mang đầy đủ, giáo viên cần phân nhóm phù hợp với đặc điểm của lớp và phân công các nhóm chuẩn bị thực hành cụ thể. Giáo viên nên chấm điểm dụng cụ chung cho cả nhóm nhưng sẽ trừ điểm những học sinh không mang hay chuẩn bị chưa tốt việc được giao. Làm như vậy sẽ tránh được tình trạng học sinh ỉ lại, không tích cực trong nhóm, trong lớp. 
Học sinh cần làm theo yêu cầu của giáo viên và nên tự sưu tầm, tự làm được đồ dùng học tập, giúp học sinh hứng thú học tập hơn, giờ học có hiệu quả hơn. Để có sự chuẩn bị cho bài thực hành chu đáo, nhóm trưởng mỗi nhóm cần giao việc cho từng bạn cụ thể và ghi lại sự phân công của mình trong bản báo cáo thực hành.
3. Sử dụng phương pháp đặc trưng đối với kiểu bài thực hành để tiết học đạt hiệu quả cao.
 Giáo viên cần kết hợp hài hòa giữa các phương pháp: Quan sát hiện tượng, sự vật, sử dụng thiết bị dạy học, đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, làm thí nghiệm. Giáo viên phân công nhóm, dụng cụ, mẫu vật hợp lý với từng đối tượng học sinh đủ để cho tất cả học sinh đều trực tiếp được làm thực hành, giúp học sinh thích thú, kích thích tính tò mò, từ đó giáo viên lôi cuốn được học sinh vào tiết học và làm tiết học có chất lượng cao. Giáo viên cũng cần định hướng được hình thức đánh giá sao cho phù hợp với kiểu bài thực hành. Đối với những hoạt động trên lớp trong mỗi tiết dạy, cần có sự đánh giá của giáo viên một cách chính xác sau khi học sinh đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá mình. Giáo viên nên đưa ra những tiêu chí đánh giá dưới dạng phiếu học tập, tổ chức cho học sinh tự đánh giá nhau bằng cách chấm chéo bài cho nhau. Hoặc giáo viên đưa ra đáp án, thang điểm để học sinh tự chấm lấy bài làm của nhóm mình. Sau khi học sinh đánh giá cho nhau hay tự đánh giá, giáo viên cần nhận xét, đánh giá chỉ ra được điểm sai cần khắc phục và điểm đúng đối với học sinh kết hợp khen thưởng cho điểm công khai để học sinh được thỏa mãn với những kiến thức mà mình đã trình bày, tạo được không khí thi đua sôi nổi tích cực học tập và xây dựng bài ở học sinh.
4. Đưa ra những tiêu chí đánh giá cụ thể phù hợp với mỗi bài thực hành.
 Giáo viên căn cứ vào mục tiêu bài học, kĩ năng và thái độ của học sinh để đưa ra được tiêu chí đánh giá dưới dạng phiếu học tập để học sinh tự đánh giá lẫn nhau. Tiêu chí đánh giá dạng bài thực hành môn Sinh học lớp 8 có thể đưa ra như sau:
 Tiêu chí 1: Chuẩn bị (tổng điểm là 10 đ). Nếu thiếu một dụng cụ hay mẫu vật trừ 1 điểm, dụng cụ hay mẫu vật đó làm chưa đẹp, chưa đảm bảo trừ 0,5đ.
 Trước khi bước vào giờ thực hành cho các nhóm kiểm tra chéo lẫn nhau, sau đó giáo viên mới bổ xung dụng cụ và mẫu vật cho những nhóm chưa mang đầy đủ.
 Tiêu chí 2: Kĩ thuật (tổng điểm là 10 đ). Sai một thao tác trừ 1 điểm, làm lại 1 lần trừ 1 điểm
 Giáo viên yêu cầu mỗi nhóm cử một thành viên sang nhóm bạn thể theo dõi quá trình các bạn làm. Ví dụ nhóm 1 theo dõi nhóm 2, nhóm 3 theo dõi nhóm 4 và ngược lại. Bên cạnh đó giáo viên cũng cần theo dõi quá trình học sinh làm để giúp học sinh đánh giá cho chính xác.
 Tiêu chí 3: Thẩm mỹ (tổng điểm là 10 đ). Đẹp, đúng kĩ thuật cho điểm tối đa, dựa vào sản phẩm của mỗi nhóm từ đó so sánh để cho điểm phù hợp . 
 Đối với tiêu chí này học sinh tự đánh giá cho nhau, sau đó giáo viên đánh giá lại và cho điểm học sinh một cách chính xác và khách quan.
 Tiêu chí 4: Thời gian (tổng điểm là 10 đ). Nhóm xong đầu tiên, đúng kĩ thuật được 10 đ, nhóm thứ 2 được 9 đ, nhóm thứ 3 được 8 điểm
 Tiêu chí này giáo viên theo dõi cùng học sinh tránh học sinh không tự giác.
 Tiêu chí 5: Ý thức thực hành (tổng điểm là 10 đ). Trong nhóm có 1 bạn làm việc riêng hay nói chuyện, chạy lộn xộn, không tích cực làm thực hành trừ 1 điểm, nhóm thảo luận ồn trừ 1 điểm. 
 Tiêu chí 6: Số lượng sản phẩm thu được sau khi thực hành (Tổng điểm là 10 đ). Nhóm nào làm ít hơn một sản phẩm so với yêu cầu của giáo viên đưa ra, trừ đi 2 điểm 
 Tiêu chí 7: Vệ sinh (tổng điểm là 10). Nhóm nào dụng cụ, mẫu vật sau khi thực hành để không đúng vị trí trừ 1 điểm, không thu dọn mẫu vật để bẩn lớp trừ 2 điểm.
 Tiêu chí 8: Lý thuyết (tổng điểm là 10 điểm). Tiêu chí này giáo viên cần đưa ra câu hỏi cụ thể cho mỗi nhóm và đánh giá cho điểm thay học sinh, học sinh ghi điểm vào bảng theo dõi của mình. Trả lời đúng, đủ ý được 10 điểm, thiếu ý tùy theo mức độ câu hỏi giáo viên trừ điểm. 
Giáo viên có thể khuyến khích các nhóm bổ sung ý kiến và cộng điểm thêm cho các nhóm khác.
* Một số câu hỏi gợi ý để kiểm tra lý thuyết.
 Ví dụ 1: Bài 12 Thực hành: tập sơ cứu và băng bó cho người gãy xương
 Giáo viên chia thành 4 nhóm, mỗi nhóm trả lời một câu hỏi:
 Nhóm 1: Hãy nêu những nguyên nhân dẫn tới gãy xương?
 Nhóm 2: Vì sao nói khả năng gãy xương có liên quan đến lứa tuổi? [1]
 Nhóm 3: Để bảo vệ xương, khi tham gia giao thông cần lưu ý những điểm gì?
 Nhóm 4: Gặp người bị tai nạn gãy xương, chúng ta có nên nắn lại chỗ xương gãy không? Vì sao? [1]
 Ví dụ 2: Bài 19 Thực hành : Sơ cứu cầm máu 
 Nhóm 1: Chảy máu tĩnh mạch và động mạch có gì khác nhau về biểu hiện và cách xử lí ? [5]
 Nhóm 2: Những yêu cầu cơ bản của biện pháp buộc dây garô là gì? Vì sao cứ 15 phút lại nới dây garô ra và buộc lại? [1]
 Nhóm 3: Vì sao chỉ những vết thương chảy máu động mạch ở tay hoặc chân mới dùng được biện pháp buộc dây garô?
 Nhóm 4: Những vết thương chảy máu động mạch không phải ở tay (chân) cần được xử lí thế nào? [1]
 Ví dụ 3: Bài 23 : Thực 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_mot_so_bai_thuc_hanh_trong.doc