SKKN Giải pháp chỉ đạo khắc phục tình trạng học sinh lớp 4, lớp 5 yếu kém môn Toán
Bất kỳ một phụ huynh học sinh nào cũng có thể nói rằng: Đối với học sinh Tiểu học thì điều cơ bản nhất là phải “Đọc thông viết thạo, thực hiện thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia.”
Câu nói ngắn gọn nghe đơn giản. Mục tiêu giáo dục Tiểu học thì rộng lớn, nhưng ta không thể phủ nhận tính cơ bản và thiết thực của câu nói trên. Thời gian qua thực tế cho thấy rằng không phải học sinh nào khi hoàn thành chương trình Tiểu học cũng có thể đạt được yêu cầu trong câu nói đó.
Từ những năm học trước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc vận động lớn như: "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Qua thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về chất lượng giáo dục. Tuy có nhiều tiến bộ song số học sinh chưa đủ khả năng hoàn thành những yêu cầu có tính mắt xích của các giai đoạn trung gian trong quá trình học tập, biểu hiện ở sức học yếu và kết quả học tập không đạt chuẩn tối thiểu vẫn còn. Đặc biệt trong năm học này phương tiện thông tin đại chúng vẫn thông báo có những học sinh đang học lớp 4, lớp 5 đọc không thông, viết không thạo, cộng trừ, nhân, chia số tự nhiên còn sai rất nhiều.
Qua theo dõi chất lượng giáo dục của nhà trường trong những năm qua, tôi thấy rằng một số học sinh vẫn còn khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và kĩ năng cơ bản nên thực chất vẫn còn tồn tại học sinh yếu kém về môn toán có nguy cơ ngồi nhầm lớp. Số học sinh yếu kém đó chủ yếu là ở khối 4,5. Bởi vì lên lớp 4,5 kiến thức môn toán có thêm nhiều phần mới và mức độ cao hơn. Học sinh cần phải có sự tư duy trừu tượng để học môn toán.
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Bất kỳ một phụ huynh học sinh nào cũng có thể nói rằng: Đối với học sinh Tiểu học thì điều cơ bản nhất là phải “Đọc thông viết thạo, thực hiện thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia.” Câu nói ngắn gọn nghe đơn giản. Mục tiêu giáo dục Tiểu học thì rộng lớn, nhưng ta không thể phủ nhận tính cơ bản và thiết thực của câu nói trên. Thời gian qua thực tế cho thấy rằng không phải học sinh nào khi hoàn thành chương trình Tiểu học cũng có thể đạt được yêu cầu trong câu nói đó. Từ những năm học trước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc vận động lớn như: "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Qua thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về chất lượng giáo dục. Tuy có nhiều tiến bộ song số học sinh chưa đủ khả năng hoàn thành những yêu cầu có tính mắt xích của các giai đoạn trung gian trong quá trình học tập, biểu hiện ở sức học yếu và kết quả học tập không đạt chuẩn tối thiểu vẫn còn. Đặc biệt trong năm học này phương tiện thông tin đại chúng vẫn thông báo có những học sinh đang học lớp 4, lớp 5 đọc không thông, viết không thạo, cộng trừ, nhân, chia số tự nhiên còn sai rất nhiều. Qua theo dõi chất lượng giáo dục của nhà trường trong những năm qua, tôi thấy rằng một số học sinh vẫn còn khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và kĩ năng cơ bản nên thực chất vẫn còn tồn tại học sinh yếu kém về môn toán có nguy cơ ngồi nhầm lớp. Số học sinh yếu kém đó chủ yếu là ở khối 4,5. Bởi vì lên lớp 4,5 kiến thức môn toán có thêm nhiều phần mới và mức độ cao hơn. Học sinh cần phải có sự tư duy trừu tượng để học môn toán. Chất lượng giáo dục luôn luôn là điều trăn trở đối với các nhà quản lý giáo dục nói chung cũng như đối với giáo viên nói riêng. Là một cán bộ quản lí, bản thân tôi cũng như các đồng nghiệp khác không thể bình tâm trước những vấn đề như thế. Nhưng điều quan trọng là phải làm gì và làm như thế nào để trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể khắc phục được những yếu kém trên. Công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém, ngăn ngừa tình trạng học sinh bỏ học là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Việc rèn cặp học sinh yếu kém đã được Ban giám hiệu các nhà trường Tiểu học quan tâm, có kế hoạch chỉ đạo cụ thể trong mỗi năm học. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và phải thường xuyên cập nhật trong công tác chỉ đạo chuyên môn. Nhưng làm thế nào để việc tổ chức nâng cao chất lượng rèn học sinh yếu trong nhà trường có hiệu quả cao nhất? Đó là một trong những vấn đề mà người cán bộ quản lí cần phải quan tâm suy nghĩ để đề ra cho mình những biện pháp thiết thực nhất, vận dụng trong quá trình tổ chức chỉ đạo nhằm thực hiện tốt mục tiêu của bậc Tiểu học. Để tiếp tục thực hiện tốt các cuộc vận động của ngành về nâng cao chất lượng giáo dục và đóng góp những việc làm thiết thực nâng cao chất lượng dạy học, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: Giải pháp chỉ đạo khắc phục tình trạng học sinh lớp 4, lớp 5 yếu kém môn Toán với mong muốn tìm ra những giải pháp thiết thực, có hiệu quả trong quá trình tổ chức phụ đạo học sinh yếu ở trường Tiểu học hiện nay. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng cao hiệu quả công tác phụ đạo học sinh yếu kém môn Toán lớp 4, lớp 5 và thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của nhà trường. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Các giải pháp chỉ đạo khắc phục tình trạng học sinh lớp 4, lớp 5 yếu kém môn Toán. Học sinh lớp 4, lớp 5 trường Tiểu học Hà Ngọc; giáo viên, phụ huynh học sinh và đồng nghiệp. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu. 2. Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng việc phụ đạo học sinh yếu, kém về môn Toán lớp 4, lớp 5. 3. Phương pháp thực nghiệm: Nhằm mục đích kiểm tra tính khả thi của sáng kiến kinh nghiệm. PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Như chúng ta đã biết, tư duy của học sinh Tiểu học đang trong quá trình hình thành và phát triển còn ở trong giai đoạn “tư duy cụ thể” do đó việc nhận thức các kiến thức toán học trừu tượng là vấn đề khó đối với học sinh yếu kém. Mặt khác, đặc điểm tâm lý, sự phát triển tâm lý ở độ tuổi Tiểu học ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình nhận thức, chiếm lĩnh tri thức khi học môn Toán của học sinh Tiểu học. Chính vì vậy chúng ta cần hiểu rõ bản chất của các đối tượng để từ đó đặt ra các phương pháp hướng dẫn thích hợp, nhẹ nhàng dễ hiểu, có hiệu quả. Cơ sở lí luận của vấn đề này chúng ta phải đi sâu nghiên cứu về tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh yếu kém. Tất cả những học sinh phát triển bình thường đều có khả năng tiếp thu chương trình toán và đạt yêu cầu quy định. Song trong thực tiễn, số học sinh yếu kém trong mỗi lớp vẫn còn, kết quả môn toán thấp phải chăng do sự phát triển nhận thức cùng lứa tuổi không đồng đều, hoạt động tư duy có những nét riêng đối với từng em, việc lĩnh hội kiến thức trước không đầy đủ, thiếu vững chắc, thái độ học tập còn nhiều hạn chế, sức khoẻ chưa tốt và đời sống gặp nhiều khó khăn, học tập ở nhà không được chú ý,Hơn thế nữa, khả năng nhận thức của trẻ em đang được hình thành và phát triển theo từng giai đoạn có quy luật riêng. Đặc biệt là đối với những học sinh cá biệt đã yếu lại chậm hiểu. Do trí nhớ và đặc điểm “chú ý” của học sinh Tiểu học không bền vững. Khi học bài dưới sự dẫn dắt của thầy cô các em rất chú ý nghe giảng. Song do tính hiếu động, ham chơi, thích hiểu biết cái mới, cái lạ lại quên ngay nội dung bài đã học. Đối với những em học sinh cá biệt càng dễ dàng sao nhãng đi phần nội dung bài học. Bởi vì so với sự phát triển tâm lý lứa tuổi cùng với bạn bè là không đồng đều chính vì vậy mà chúng ta cần có sự quan tâm đặc biệt tới những học sinh này. Muốn vậy chúng ta phải đi sâu nghiên cứu tìm hiểu mọi đặc tính cá biệt, mọi hoàn cảnh riêng của rừng em, không thể đối với các em, dạy các em đồng đều như những bạn cùng lớp được. Vì vậy hơn ai hết người giáo viên Tiểu học phải nắm bắt được những đặc điểm tâm sinh lý riêng của từng em, hiểu trẻ em với đầy đủ ý nghĩa của nó để tiến hành bồi dưỡng, kèm cặp học sinh yếu kém giúp các em tiến bộ. Nếu không được tiếp nhận những biện pháp sư phạm có hiệu quả, thì những học sinh có lực học yếu kém sẽ càng ngày càng tụt lại so với bạn bè. Dần dần sẽ hình thành một thái độ nhất định của tập thể đối với các em. Và điều quan trọng nhất có thể xảy ra là bản thân học sinh mất đi niềm tin ở mình, ở sức lực mình, ở khả năng thực hiện các nhiệm vụ, ngay cả trong những trường hợp mà thực tế có thể đảm đương được. 2.THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC HÀ NGỌC. 2.1. Thực trạng: 2.1.1. Về việc chỉ đạo tổ chức phụ đạo học sinh yếu ở nhà trường: Trong những năm học gần đây, việc rèn cặp học sinh yếu đã được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm và có kế hoạch chỉ đạo cụ thể nhưng chưa xây dựng được kế hoạch chỉ đạo thành lập thành lớp riêng theo từng nhóm đối tượng học sinh yếu kém, chưa bố trí tăng thêm số buổi dạy phụ đạo trong tuần. Vì điều kiện cơ sở vật chất, kinh phí còn nhiều hạn chế nên việc quan tâm tạo điều kiện về thời gian, kinh phí cho công tác tổ chức phụ đạo học sinh yếu kém chưa thực sự đúng với tên gọi của nó mà mới chỉ quan tâm rèn cặp trong giờ chính khoá, trong các giờ học tăng buổi trong tuần, các giải pháp chỉ đạo còn mang tính “tức thời”, chưa có kế hoạch chỉ đạo dài hạn. Trong quá trình chỉ đạo đôi lúc chưa kiểm tra sát sao cách đánh giá học sinh của giáo viên. 2.1.2. Về đội ngũ giáo viên dạy phụ đạo học sinh yếu kém của nhà trường: Nhìn chung đội ngũ giáo viên được phân công phụ đạo học sinh yếu đã xác định đúng vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giảng dạy để nâng cao chất lượng giáo dục. Song do giáo viên không được bồi dưỡng chuyên sâu về công tác phụ đạo học sinh yếu, nên bề dày kinh nghiệm chưa nhiều, về phương pháp còn hạn chế. 2.1.3. Về học sinh yếu kém của nhà trường: Học sinh trường Tiểu học Hà Ngọc ở địa dư rải rác từ thôn 1 đến thôn 10, ngoài ra còn một số em ở Hậu Lộc, Vĩnh Lộc. Nhìn chung các em đều có ý thức ham học. Song trong đó vẫn còn một bộ phận học sinh lười học, có sức học yếu và kết quả học tập môn Toán không đạt chuẩn tối thiểu. Cụ thể: Học hết lớp 3 học sinh vẫn chưa thuộc bảng nhân, bảng chia; chưa thành thạo các phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Học hết lớp 4 học sinh học sinh chưa nắm rõ về thuật toán chia.Không nắm được số dư trong mỗi lần chia bao giờ cũng phải bé hơn số chia. Học sinh biết cách chia nhưng khả năng ước lượng kém. Thời gian để làm được một phép chia quá nhiều so với chuẩn. Còn thường xuyên nhầm lẫn khi chia: Ví dụ như phép chia sau đây học sinh không nhớ để khuyên 0 vào thương trong phép chia: 4368 21 42 28 168 168 0 Số dư cuối cùng lớn hơn số chia: 10185 43 86 235 158 129 295 215 80 * Nguyên nhân của thực trạng trên: Nguyên nhân học yếu kém của học sinh rất đa dạng nhưng tập trung vào một số nguyên nhân chủ yếu sau: - Do chủ quan từ học sinh: + Học sinh bị hổng kiến thức, kĩ năng từ các lớp trước. Tuy rằng bản thân học sinh không lười học nhưng khi muốn giải quyết một vấn đề, một bài toán có sự liên quan nhiều đến kiến thức cũ, kiến thức ở các lớp trước thì học sinh bị ngợp, không tìm ra hướng giải quyết bài toán, do đó học sinh học toán lại càng kém đi. + Do học sinh lười học, có thái độ thờ ơ với học tập, không chịu khó vươn lên, ngại khó, ngại cố gắng. + Cũng có đối tượng học sinh do bản thân có chỉ số IQ thấp (Không phải do thiểu năng trí tuệ hoặc khuyết tật). - Phương pháp dạy học của giáo viên: Một bộ phận giáo viên còn chưa đáp ứng được một cách thực chất yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: + Chưa tích cực mạnh dạn trong đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ cố gắng truyền đạt hết nội dung bài dạy trong sách giáo khoa mà không tính đến việc giảng dạy phù hợp với điều kiện và đối tượng học sinh. Dẫn đến trên lớp giáo viên chỉ quan tâm chủ yếu đến đối tượng học sinh khá giỏi mà ít quan tâm, chỉ bảo đến đối tượng học sinh yếu kém; thích tổ chức các hoạt động học tập trên lớp với những học sinh khá giỏi để tránh các tình huống phức tạp. + Chưa mạnh dạn trong việc dạy học trên những tình huống, dạy học dựa vào những cái sai, cái thiếu của học sinh. Chưa dạy và rèn cho học sinh cách tự học một cách hiệu quả. Chưa tận dụng được những ưu việt của sách giáo khoa, đôi lúc làm phức tạp hoá vấn đề. Chưa xác định cụ thể những nội dung nào giáo viên phải làm, những nội dung nào giáo viên phải hướng dẫn, những nội dung nào phải để học sinh tự làm, tự thực hiện. + Một số giáo viên nắm chưa thật vững yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của từng bài dạy dẫn đến việc giảng dạy mang tính dàn trải, không nêu được trọng tâm của bài, còn ham nâng cao, mở rộng kiến thức một cách tuỳ tiện, trong lúc học sinh chưa nắm vững kiến thức cơ bản; tốc độ giảng dạy kiến thức mới và luyện tập còn nhanh, khiến cho học sinh yếu kém không theo kịp. + Do áp lực về thời gian trong một tiết học, quy định của phân phối chương trình nên giáo viên không dám hoặc không thể dành thời gian rèn luyện các kỹ năng cơ bản và cần thiết cho học sinh yếu kém, thiếu tính lồng ghép trong dạy học. - Từ phía phụ huynh: Phụ huynh học sinh thiếu sự quan tâm chăm sóc đến vấn đề học tập của con em: + Nhiều phụ huynh mải mê làm ăn buôn bán ở xa, hai hoặc ba tháng mới về một lần, con gửi lại cho ông bà, anh em họ hàng. Học sinh phải tự lo việc học hành, tự chăm sóc bản thân. + Có những học sinh gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, kinh tế quá khó khăn, bố mẹ ly hôn, mồ côi cha (mẹ),chưa quan tâm đến chuyện học hành của con em. + Do trình độ học vấn của một bộ phận phụ huynh hạn chế nên nhận thức về vấn đề chăm lo giáo dục và việc học của con cái hầu như không có. Dẫn đến không có sự đôn đốc, nhắc nhở học sinh học bài ở nhà. Việc học tập hoàn toàn phó mặc cho nhà trường và tự ý thức của học sinh. + Bên cạnh đó cũng có nhiều phụ huynh rất quan tâm đến việc giúp đỡ con cái học tập nhưng lại không nắm được phương pháp sư phạm, không nắm được cách giải toán ở Tiểu học khiến học sinh không hiểu và thiếu tin tưởng. 2.2. Kết quả của thực trạng trên: Ngay từ tuần học thứ hai của năm học 2015 – 2016, nhà trường đã tổ chức khảo sát chất lượng môn Toán lớp 4 và lớp 5 đầu năm học. Kết quả môn Toán thu được như sau: (Khảo sát trên 76 học sinh trường Tiểu học Hà Ngọc) Lớp Số bài Môn Toán Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 4 37 6 16,2 12 32,4 15 40,6 4 10,8 5 39 11 28,2 19 48,8 4 10,2 5 12,8 Qua kết quả làm bài của học sinh lớp 4 có 4 học sinh có điểm dưới 5. Các em còn vướng phải các lỗi sau: Còn chậm trong thực hành tính toán, chưa thuộc bảng cửu chương; cộng, trừ, nhân, chia có nhớ còn chậm, quên không nhớ; quên cách tìm thành phần chưa biết của phép tính; kỹ năng giải toán có lời văn còn yếu. Lớp 5 có 5 học sinh có điểm dưới 5. Có em không nhớ thuật toán chia, có em biết thuật toán chia nhưng khả năng ước lượng kém. Biết vận dụng thuật toán chia, biết ước lượng khi chia nhưng còn nhầm lẫn. Nên các dạng bài có liên quan đến phép chia đều sai kết quả. 3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG HỌC SINH LỚP 4, LỚP 5 YẾU KÉM VỀ MÔN TOÁN TẠI TRƯỜNG. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và kết quả điều tra khảo sát thực trạng của công tác phụ đạo học sinh yếu, tôi xin mạnh dạn nêu ra một số giải pháp chủ yếu ngăn ngừa và khắc phục tình trạng học sinh lớp 4, lớp 5 yếu kém về môn Toán như sau: Giải pháp 1. Quán triệt nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác tổ chức phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém ở trường Tiểu học. Trước hết nhà trường cần quán triệt nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh hiểu được nhiệm vụ phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém là một trong những nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo viên, mỗi nhà trường trong mọi nền giáo dục. Tạo ra sự ủng hộ hợp tác tích cực của phụ huynh với nhà trường trong công tác phụ đạo học sinh yếu kém. Giải pháp 2. Thành lập Ban chỉ đạo. Để chỉ đạo có hiệu quả công tác phụ đạo và giúp đỡ học sinh học yếu kém việc đầu tiên là phải có kế hoạch rõ ràng, chi tiết về hoạt động giáo dục này, trên cơ sở đó thành lập ban chỉ đạo để triển khai nhiệm vụ cụ thể. Ban chỉ đạo gồm có: Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn và giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 4, lớp 5 có kinh nghiệm. Phân công nhiệm vụ cụ thể: - Hiệu trưởng chịu trách nhiệm chỉ đạo chung. - Phó hiệu trưởng xây dựng kế hoạch chỉ đạo ngăn ngừa và khắc phục tình trạng học sinh lớp 4, 5 yếu kém về môn Toán. Cùng với tổ trưởng chỉ đạo trực tiếp về nội dung, chương trình, sắp xếp thời khoá biểu dạy phụ đạo. - Giáo viên phụ trách lớp lập kế hoạch dạy học cụ thể, trực tiếp phụ đạo học sinh. Cách thức và thời gian phụ đạo: Song song với việc rèn cặp học sinh yếu kém trong giờ chính khoá, giờ học tăng buổi giáo viên phụ đạo riêng cho học sinh yếu kém theo nhóm đối tượng phân loại. Mỗi tuần dạy vào 2 buổi chiều (thứ Tư và thứ Năm). Giải pháp 3. Tổ chức cho giáo viên điều tra, rà soát, phân loại các nhóm đối tượng học sinh. Để có những biện pháp hỗ trợ học sinh yếu kém bước đầu tiên tôi phải hướng dẫn giáo viên điều tra xác định rõ học sinh còn yếu ở điểm nào, phân loại số học sinh yếu. Giáo viên chủ nhiệm lớp tìm hiểu học sinh qua giáo viên các lớp trước, qua người thân, gia đình, bè bạn của những học sinh yếu. Ngoài ra qua các tiết học trên lớp, qua các bài kiểm tra với nội dung và cấu trúc thích hợp để nắm trình độ học sinh, dựa vào thông tin từ nhiều nguồn để làm tăng thêm độ tin cậy, khách quan của công tác đánh giá. Qua kết quả điều tra, rà soát, phân loại của giáo viên phụ trách lớp, tôi đã cùng với giáo viên dạy phụ đạo tổng hợp phân loại thành 3 nhóm chính sau: Nhóm 1: Học sinh học yếu nhưng có thái độ học tập tích cực, chưa mất đi tư cách một học sinh. (Lớp 4 có 1 em, lớp 5 có 2 em) Nhóm 2: Học sinh có tư duy bình thường nhưng có thái độ học tập yếu không muốn học nên kết quả học tập yếu kém. (Lớp 4 có 1 em, lớp 5 có 1 em) Nhóm 3: Học sinh vừa học yếu lại vừa có thái độ học tập không tốt. (Lớp 4 có 2 em, lớp 5 có 2 em) Giải pháp 4. Hướng dẫn giáo viên tìm ra phương thức giúp đỡ cho từng nhóm đối tượng học sinh yếu. Trên cơ sở phân loại các nhóm đối tượng học sinh yếu, tôi đã hướng dẫn giáo viên tìm phương thức giúp đỡ cụ thể cho mỗi nhóm học sinh yếu kém. (Không thể có những biện pháp giúp đỡ chung cho tất cả các nhóm học sinh học yếu kém.) Đối với nhóm 1: Trước hết giáo viên cần phải cải tổ, sửa đổi, khắc phục những nhược điểm về tư duy nói trên của học sinh. Cần tổ chức cho học sinh được thực hành nhiều những bài luyện đòi hỏi sự chuyển đổi tư duy từ mức độ cụ thể sang mức độ khái quát, trừu tượng và ngược lại. (Giáo viên lấy những ví dụ phong phú để minh hoạ cho một kết luận hay rút ra kết luận từ hàng loạt các trường hợp cụ thể). Giáo viên nên tạo ra tình huống trong đó mỗi học sinh được thể hiện mình và giáo viên biết khen ngợi kịp thời với từng tiến bộ khiêm tốn nhất của học sinh. Khác với học sinh thiểu năng trí tuệ, học sinh học yếu có khả năng sử dụng tốt sự giúp đỡ của người lớn. Song giáo viên phải biết rút lui từ từ nếu không học sinh sẽ không bao giờ học được cách làm việc độc lập. Đối với nhóm 2: Học sinh ít khi chuẩn bị bài khi đến lớp. Học sinh chỉ quen học điều mà mình thích. Vì vậy khi phải tập trung chú ý, phải ghi nhớ, phải suy nghĩ tích cực sẽ gây nên sự chán chường ở học sinh. Giáo viên phải gây dựng thái độ học tập đúng đắn cho học sinh. Đối với nhóm 3: Những học sinh này về cơ bản rất yếu về mặt thần kinh, dễ bị xúc động và dễ bị kích động. Nổi trội lên ở các em là sự mệt mỏi, nhanh chán trong khi học và làm bài. Phải hình thành cho học sinh hứng thú học tập, tiến hành những hoạt động đơn giản, vừa sức làm cho học sinh lấy lại lòng tự tin rằng các em có khả năng học tập tốt. Khi giáo viên đã nắm bắt được các kiểu hình học kém trên và các phương thức giúp đỡ cho từng kiểu thì giáo viên sẽ soạn thảo nội dung chương trình, vận dụng phương pháp dạy học, phương pháp tác động phù hợp cho từng nhóm đối tượng học sinh. Giải pháp 5. Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo học sinh yếu môn toán phù hợp với đối tượng học sinh. Giáo viên dạy phụ đạo phải lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo, đầu tư soạn bài một cách chu đáo và được kiểm tra xét duyệt của Ban giám hiệu nhà trường. Kế hoạch bài học phải phù hợp với từng đối tượng học sinh kể cả tiết chính khóa cũng như tiết phụ đạo. Nội dung kế hoạch phải xuyên suốt cả năm học và cụ thể cho từng tuần, từng tháng. Nội dung các tiết phụ đạo tập trung rèn luyện kĩ năng và ôn tập các kiến thức đã học cho học sinh. Đặc biệt giúp các em củng cố những kiến thức cơ bản theo yêu cầu chuẩn kĩ năng kiến thức của lớp dưới mà các em còn bị hổng. Ví dụ: * Đối với lớp 4: Tuần 2: Khảo sát, tìm hiểu nguyên nhân, phân loại học sinh. Tuần 3: Củng cố về bảng nhân, bảng chia 2,3,4,5. Tuần 4: Củng cố về bảng nhân, bảng chia 6,7,8,9. Tuần 5: Củng cố về bảng nhân, bảng chia kết hợp với củng cố về tìm thành phần chưa biết của phép tính. Tuần 6: Củng cố về bảng nhân, bảng chia kết hợp với củng cố về bốn phép tính với số tự nhiên. Tuần 7: Củng cố về tính giá trị của biểu thức. Tuần 8: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số tự nhiên kết hợp với củng cố về giải toán có lời văn. Tuần 9,10: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính với số tự nhiên, củng cố mối quan hệ các đơn vị đo lường và vận dụng làm toán có lời văn... * Đối với lớp 5: Tuần 2: Khảo sát, tìm hiểu nguyên nhân, phân loại học sinh. Tuần 3: Củng cố về thuật toán chia, giúp học sinh thấy đơn giản trong thuật toán chia. Tuần 4: Củng cố về kĩ năng ước lượng trong phép chia. Tuần 5,6: Thực hành, luyện tập về kĩ năng chia. Tuần 7,8: Thực hành về tính giá trị của biểu thức có phép chia. Tuần 9,10: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số tự nhiên kết hợp với củng cố về giải toán có lờ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_giai_phap_chi_dao_khac_phuc_tinh_trang_hoc_sinh_lop_4_l.doc