SKKN Cách gợi hứng thú cho học sinh trong giờ đọc hiểu Ngữ văn 10
Môn Ngữ văn là một môn học quan trọng trong nhà trường phổ thông ở các cấp học. Với vị trí và thế mạnh riêng của chương trình, môn Ngữ văn trước hết, giúp người học tiếp xúc với vốn văn hoá dân tộc và văn hoá nhân loại được kết tinh lại trong tác phẩm văn học.
Ngữ văn là một trong những môn học có vị trí quan trọng hàng đầu, nhưng trong thực tế dạy học, ngày càng có nhiều học sinh không yêu thích học Văn, không coi trọng môn Ngữ văn. Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn nói chung, dạy đọc Văn nói riêng theo hướng phát huy chủ thể sáng tạo của bạn đọc - học sinh; giúp học sinh thông qua đọc Văn, học Văn mà bồi dưỡng tâm hồn, phát triển tư duy, năng lực giao tiếp, hình thành năng lực đọc hiểu, năng lực thưởng thức và đánh giá nghệ thuật, vì vậy, là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực”.
Vì vậy, môn Ngữ văn có nhiệm vụ bồi dưỡng tâm hồn, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Từ vị trí, nhiệm vụ của môn Ngữ văn trong trường phổ thông đã quy định vị trí, nhiệm vụ của người thầy dạy Văn: Thông qua việc hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức văn hoá của dân tộc, của nhân loại để dạy học sinh cách cảm, cách nghĩ, cách ứng xử tốt và kĩ năng giao tiếp trong cuộc sống. Có nghĩa là người thầy nói chung, người thầy dạy Văn nói riêng phải đào tạo những thế hệ học sinh vừa hồng vừa chuyên cho đất nước.
Song, vấn đề đặt ra là cần phải có những biện pháp, cách thức tổ chức dạy học Văn như thế nào để thu hút được sự say mê, hứng thú học tập của các em học sinh. Chính vì thế,việc đổi mới cách thức tổ chức giờ dạy Ngữ văn nói chung, giờ dạy đọc hiểu Ngữ văn 10 nói riêng, đang là vấn đề đặt ra và cần được tháo gỡ kịp thời bởi khối lớp 10 là năm đầu cấp Trung học phổ thông; là nền tảng, bước tạo đà, là vạn sự khởi đầu nan của các em học sinh. Do đó, việc khơi gợi được hứng thú cho học sinh trong giờ học Văn vừa tạo nên hiệu quả của giờ dạy vừa bộc lộ tài năng, tâm huyết của người thầy. Mặt khác, từ chỗ có được niềm vui, niềm hứng thú trong học tập bộ môn, học sinh sẽ có được niềm tin, tự hình thành được hiểu biết, năng lực, phẩm chất, biết cách tìm ra chân lý, tự tin trong học tập và trong cuộc sống.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Môn Ngữ văn là một môn học quan trọng trong nhà trường phổ thông ở các cấp học. Với vị trí và thế mạnh riêng của chương trình, môn Ngữ văn trước hết, giúp người học tiếp xúc với vốn văn hoá dân tộc và văn hoá nhân loại được kết tinh lại trong tác phẩm văn học. Ngữ văn là một trong những môn học có vị trí quan trọng hàng đầu, nhưng trong thực tế dạy học, ngày càng có nhiều học sinh không yêu thích học Văn, không coi trọng môn Ngữ văn. Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn nói chung, dạy đọc Văn nói riêng theo hướng phát huy chủ thể sáng tạo của bạn đọc - học sinh; giúp học sinh thông qua đọc Văn, học Văn mà bồi dưỡng tâm hồn, phát triển tư duy, năng lực giao tiếp, hình thành năng lực đọc hiểu, năng lực thưởng thức và đánh giá nghệ thuật, vì vậy, là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực”. Vì vậy, môn Ngữ văn có nhiệm vụ bồi dưỡng tâm hồn, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Từ vị trí, nhiệm vụ của môn Ngữ văn trong trường phổ thông đã quy định vị trí, nhiệm vụ của người thầy dạy Văn: Thông qua việc hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức văn hoá của dân tộc, của nhân loại để dạy học sinh cách cảm, cách nghĩ, cách ứng xử tốt và kĩ năng giao tiếp trong cuộc sống. Có nghĩa là người thầy nói chung, người thầy dạy Văn nói riêng phải đào tạo những thế hệ học sinh vừa hồng vừa chuyên cho đất nước. Song, vấn đề đặt ra là cần phải có những biện pháp, cách thức tổ chức dạy học Văn như thế nào để thu hút được sự say mê, hứng thú học tập của các em học sinh. Chính vì thế,việc đổi mới cách thức tổ chức giờ dạy Ngữ văn nói chung, giờ dạy đọc hiểu Ngữ văn 10 nói riêng, đang là vấn đề đặt ra và cần được tháo gỡ kịp thời bởi khối lớp 10 là năm đầu cấp Trung học phổ thông; là nền tảng, bước tạo đà, là vạn sự khởi đầu nan của các em học sinh. Do đó, việc khơi gợi được hứng thú cho học sinh trong giờ học Văn vừa tạo nên hiệu quả của giờ dạy vừa bộc lộ tài năng, tâm huyết của người thầy. Mặt khác, từ chỗ có được niềm vui, niềm hứng thú trong học tập bộ môn, học sinh sẽ có được niềm tin, tự hình thành được hiểu biết, năng lực, phẩm chất, biết cách tìm ra chân lý, tự tin trong học tập và trong cuộc sống. Vì tầm quan trọng của môn Ngữ văn như vậy, đồng thời là một giáo viên dạy Văn tâm huyết với nghề nghiệp, tôi luôn trăn trở với thực trạng trên. Cho nên tôi chọn đề tài Cách gợi hứng thú cho học sinh trong giờ đọc hiểu Ngữ văn 10, vận dụng thực hiện trong thực tế giảng dạy và đem lại niềm yêu thích học tập bộ môn Văn cho học sinh. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu đề xuất các biện pháp, cách thức khơi gợi hứng thú cho học sinh trong giờ đọc – hiểu Ngữ văn 10 ở nhà trường trung học phổ thông. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi chỉ chọn nghiên cứu một số biện pháp, cách thức khơi gợi hứng thú cho học sinh trong giờ đọc – hiểu Ngữ văn 10 ở nhà trường Trung học phổ thông. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Điều tra, khảo sát, phỏng vấn, dự giờ dạy học đọc – hiểu Ngữ văn 10. - Thực nghiệm, thiết kế, tổ chức dạy học học đọc – hiểu ngữ văn 10 có áp dụng các vấn đề lí thuyết đã đề xuất. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận Gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung đang được bàn đến trên nhiều diễn đàn khác nhau. Người ta đã đề xuất, thử nghiệm nhiều phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả giờ dạy Văn. Nhìn chung, mối quan tâm của các nhà giáo dục đồng thời cũng là mối quan tâm của người thầy dạy Văn là làm thế nào để phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh, gợi được niềm say mê học Văn của các em trong nhà trường hiện nay?! Đối tượng học sinh Trung học phổ thông của chúng ta có đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi là thích tìm hiểu, sáng tạo. Do đó, người thầy phải đóng vai trò là người dẫn đường tài ba để các em khám phá, sáng tạo. Bên cạnh đó, một trong những mục đích lớn nhất của giờ Văn là làm sao gây được những rung động thẩm mỹ, giáo dục dược nhân cách cho học sinh, làm sao để giờ học Văn được nhẹ nhàng, thoải mái, sinh động, không gượng ép đối với học sinh. Làm được những điều đó người thầy dạy Văn đã đi đúng định hướng mà điều 24 Luật giáo dục do Quốc hội khóa X thông qua đã chỉ rõ: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". 2.2. Thực trạng của vấn đề Trong những năm gần đây, một thực trạng rất đáng buồn là các em học sinh lớp 10 nói riêng, học sinh cấp Trung học phổ thông nói chung, có xu thế không thích học môn Văn. Qua quan sát, tiếp xúc và phát phiếu điều tra thăm dò sở thích và nguyện vọng học tập của học sinh, tôi suy ngẫm và tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do: 2.2.1. Về phía học sinh Cấp học Trung học phổ thông là cấp học cuối cùng của hệ phổ thông. Các em đã có những hiểu biết nhất định về xã hội, về nghề nghiệp, cuộc sống và tương lai. Các em cho rằng: Để có một nghề nghiệp ổn định sau này trong thời đại khoa học kỹ thuật, thời đại công nghệ thông tin, chỉ cần học tốt các môn khoa học cơ bản như Toán, Lý, Hoá, thi đậu vào các trường đại học chuyên ngành phục vụ thiết thực cho cuộc sống. Còn học Văn, theo các em chỉ là “Chuyện sách vở viển vông” khác xa với thực tế cuộc sống. Quan niệm của các em thật lệch lạc và phiến diện. Các em chưa nhận thức được rằng: Không chỉ theo nghiêp văn mới học văn mà học văn là thiết thực cho tất cả mọi học sinh ở các cấp học phổ thông. Học văn là học để làm người, để biết giao tiếp, ứng xử tốt trong cuộc sống. Con người ở bất cứ thời đại nào cũng cần có hai tố chất: trí tuệ và nhân cách; mà đặc thù của môn văn là giúp học sinh tự hoàn thiện nhân cách của mình. Vậy nên, tôi suy nghĩ không thể để học sinh xa rời việc học tập môn Ngữ văn và người thầy cần có những giải pháp giúp học sinh nhận thức đúng về mục đích học tập bộ môn. Từ đó có niềm say mê, hào hứng với việc học tập bộ môn này. 2.2.2. Về phía thầy cô giáo Do chưa nhận thức được đầy đủ về vị trí, tầm quan trọng của môn mình dạy nên có không ít thầy cô giáo dạy văn chưa đem hết tâm huyết của mình để đầu tư cho giờ dạy, bài dạy một cách chu đáo. Giáo viên chưa đổi mới phương pháp giảng dạy nên chưa thể hiện được chức năng hướng dẫn, tổ chức tự tiếp nhận cho học sinh, chưa tạo điều kiện cho học sinh được thể hiện mình, tự chiếm lĩnh kiến thức. Người thầy chưa có những yêu cầu cụ thể thiết thực đối với học sinh trong từng bài dạy, tiết dạy làm cho tiết dạy hời hợt, nhàm chán, không gây được hứng thú học tập cho học sinh. Vì vậy dần dần dẫn đến tình trạng học sinh chán học, không muốn học, không theo dõi bài, không ghi chép bài Về vấn đề làm thế nào để gợi được hứng thú cho học sinh học tập môn Ngữ văn nói chung, giờ đọc văn nói riêng, có thể mỗi giáo viên có những biện pháp và phương pháp khác nhau. Riêng tôi chỉ xin được trình bày một số biện pháp mà theo tôi là cơ bản có tác động tích cực đến việc khơi dậy niềm say mê học tập của học sinh là: - Tạo ra được tâm thế “nhập cuộc” cho học sinh bằng lời dẫn, lời kể sáng tạo của thầy. - Khơi gợi sự liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh qua việc đọc tác phẩm. - Xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với yêu cầu khai thác bài học, phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp. Viết ra những kinh nghiệm này, dù sao cũng chỉ là chủ quan của bản thân tôi, rất mong các bạn đồng nghiệp chân thành góp ý. 2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện: Để tạo ra hứng thú cho học sinh trong giờ đọc văn, trước tiên người thầy phải tạo ra được: 2.3.1. Tạo tâm thế nhập cuộc cho học sinh bằng lời dẫn, lời kể sáng tạo của thầy Tâm thế nhập cuộc tức là gây sự chú ý ban đầu mà ta quen gọi là phản xạ có điều kiện, định hướng hoạt động, đảm bảo điều kiện tâm lý cần thiết cho học sinh bước vào hoạt động học tập có kết quả. Có nhiều cách gây sự chú ý của học sinh để góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy với đặc thù của bộ môn. Việc thể hiện lời dẫn, lời kể của người thầy trong giờ dạy văn có tác dụng rất to lớn. Đây chính là quá trình định hướng sư phạm và dắt dẫn hoạt động tích cực của học sinh trong giờ học. Việc dùng lời dẫn, lời kể sáng tạo để tạo sự chú ý của học sinh sẽ góp phần kết thúc hoặc tạm dừng, ngắt mạch sự chú ý của học sinh vào đối tượng khác, hoặc mối quan tâm khác để đưa học sinh trở về hưng phấn với không khí của giờ học để gợi lên cảm xúc hào hứng trước những vấn đề sẽ được tìm hiểu trong giờ học. Qua thực tế tôi nhận thấy: Lời dẫn của thầy càng hấp dẫn càng có tác dụng thu hút sự chú ý của học sinh tập trung vào bài học và ngược lại lời dẫn rời rạc, qua loa dẫn đến giờ học đã bắt đầu từ lâu nhưng học sinh vẫn thờ ơ, làm việc riêng hoặc theo dõi bài một cách lơ đãng. Khi sử dụng lời dẫn tôi luôn chú ý đến ngữ điệu, kết hợp với những cử chỉ của mắt, tay, đầu, cách ngắt giọng, chọn vị trí và định hướng thời gian ngừng nghỉ. Đồng thời tôi cũng chú ý đến nội dung lời dẫn, lời dẫn cần phải ngắn gọn, súc tích, xác định được rõ ràng đối tượng cho bài học. Ngoài ra, tôi còn chú ý đến hình thức của lời dẫn. Điều này phải căn cứ vào yêu cầu đặc điểm bài dạy, tôi linh hoạt thực hiện các kiểu lời dẫn trực tiếp hay gián tiếp. Với lời dẫn trực tiếp, đây là lời dẫn có tính chất định tính, định danh vấn đề. Ta có thể nối mạch từ bài khái quát. Tức là chiết dẫn một phần đặc trưng hoặc giá trị biểu đạt của thể loại, một xu hướng, một trào lưu, hay sự nghiệp của một tác giả. Ví dụ: Giá trị tiêu biểu của nội dung truyện Kiều là cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du trong việc thể hiện tiếng nói ca ngợi những giá trị phẩm chất đẹp đẽ, đồng tình với những khát vọng giải phóng và đồng cảm với số phận bi kịch của con người; tiếng nói lên án những thế lực bạo tàn. Để tìm hiểu cụ thể một trong những nội dung tiêu biểu đó - sự đồng cảm với số phận bi kịch của con người – chúng ta sẽ tìm hiểu qua trích đoạn Trao duyên. Với lời dẫn gián tiếp là lời dẫn có tính chất phản đề hoặc nêu vấn đề để tăng cường chú ý học sinh vào đối tượng. Cũng đoạn trích trên ta có thể vào bài: “ Có ý kiến cho rằng, một trong những phương diện thiên tài của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du thể hiện trong truyện Kiều là nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại. Để tìm hiểu điều này, chúng ta cùng phân tích đoạn Trao duyên. Căn cứ để xác định lời dẫn tôi thường dựa vào phần tiểu dẫn của sách giáo khoa, nhưng để tránh lối mòn, tôi thường sáng tạo ra cách dẫn riêng. Đó là cách dẫn xuất phát từ chính những hiểu biết của chính bản thân mình về bài dạy hoặc những tài liệu tham khảo đặc sắc có liên quan tới bài dạy. Trong trường hợp này tôi thường dùng lời dẫn gián tiếp có thể bắt đầu bằng một vài nhận định tiêu biểu, các ý kiến tranh luận, so sánh hoặc từ cảm nhận chủ quan. Nhưng yêu cầu quan trọng là xác định được mối liên hệ lô gíc chặt chẽ giữa lời dẫn với vấn đề bản chất của bài dạy. Đồng thời đảm bảo tính định hướng cho quá trình tiếp nhận của học sinh. Thực tế cho thấy, lời dẫn nói chung áp dụng cho tất cả các bài dạy tác phẩm văn chương. Còn lời kể sáng tạo áp dụng đối với các trường hợp dạy trích đoạn trong các tác phẩm văn xuôi và các tác phẩm trường ca, truyện thơ dài. Chẳng hạn: - Đoạn trích: Chiến thắng Mtao Mxây –(Trích sử thi Đăm Săn). - Đoạn trích: Uy- lít- xơ trở về (Trích Ô –đi-xê). - Đoạn trích: Hồi trống Cổ Thành (Trích Tam quốc diễn nghĩa - La Quán Trung). - Đoạn trích: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm –Đặng Trần Côn, bản dịch Đoàn Thị Điểm). - Đoạn trích: Trao duyên (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) Với các đoạn trích trên đây, tôi thường sử dụng lời kể sáng tạo. Vì do khuôn khổ của sách giáo khoa và giới hạn của chương trình, một số tác phẩm chỉ được trình bày dưới dạng một trích đoạn (Trích giảng) nên lời kể sáng tạo sẽ góp phần tóm tắt tác phẩm, dựng lại không khí và thế giới nghệ thuật, phản ánh mối quan hệ sinh tồn có tính chất trọn vẹn của nguyên bản tác phẩm để học sinh có thể hình dung và xác định được vị trí đoạn trích. Tuy nhiên, cũng tuỳ theo đặc điểm cụ thể của từng tác phẩm và yêu cầu học tập từng đoạn trích, tôi sử dụng linh hoạt các kiểu lời kể sáng tạo khác nhau. Ví dụ: Cách kể theo thời gian: Kể tóm lược các ý chính, tình huống chính theo trình tự diễn biến cốt truyện. Với đoạn trích Trao duyên (Ngữ Văn lớp 10, tập 2) có thể tóm tắt như sau: “ Vào một ngày xuân, nhân một lần chơi Tết Thanh minh, chị em Thuý Kiều gặp Kim Trọng; rồi Kiều và Kim Trọng yêu nhau. Tình yêu Kim - Kiều đang đẹp thì có kẻ vu oan cho gia đình Thuý Kiều. Quan lại sai lính đến cướp phá, bắt cha và em Thuý Kiều đánh đập đòi hối lộ. Trước tình thế đó, Thuý Kiều bán mình làm lẽ cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha và em. Nhưng Mã Giám Sinh là tên ma cô dắt gái cho nên Kiều bị rơi vào nhà chứa của Tú Bà, rồi bị Sở Khanh lừa, phải dấn thân vào cuộc đời ô nhục. Để thoát chốn lầu xanh, Thuý Kiều nhận làm lẽ Thúc Sinh nhưng bị Hoạn Thư đánh ghen phải bỏ trốn và bị rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh - những kẻ làm nghề nhà chứa. Đang bế tắc vì bị vào lầu xanh lần nữa, Kiều gặp Từ Hải và nhận lời lấy Từ Hải. Cuộc sống của Kiều ngỡ cứ thế êm xuôi, nhưng không ngờ Kiều mắc mưu Hồ Tôn Hiến và kết quả là Từ Hải bị chết đứng, còn Kiều bị ép gả cho một tên quan nhỏ. Đau đớn và hối hận, Kiều nhảy xuông sông Tiền Đường tự vẫn nhưng may được Giác Duyên cứu vớt và cuối cùng được đoàn tụ với gia đình. Đoạn trích: Trao duyên là một trong những trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc mười lăm năm đau khổ của Thuý Kiều, khi Thuý Kiều quyết định bán mình, phải nhờ em gái trả nghĩa lấy Kim Trọng. Ngoài cách kể theo thời gian thì tôi còn sử dụng cách kể theo nhân vật. Ví dụ: Để gợi hứng thú cho học sinh học tập đoạn trích: Lời tiễn dặn( Trích truyện thơ: Tiễn dặn người yêu – Ngữ Văn 10) tôi dựa theo tiểu dẫn trong sách giáo khoa để tóm tắt: Tiễn dặn người yêu là truyện thơ lớn của người Thái ở Tây Bắc nước ta, dài 1846 câu nói về mối tình chung thuỷ của một đôi trai gái gắn bó với nhau từ nhỏ, nhưng cha mẹ chê chàng trai nghèo nên gả cô gái cho người khác. Chàng trai phẫn chí trao cho cô gái cây đàn và hẹn đi buôn về sẽ giành lại người yêu. Khi chàng về thì đã muộn. Cô gái đã bị gả chồng, rồi bị gán đi làm kiếp hầu; bị bán ngoài chợ với giá “một cuộn dong”. Trớ trêu thay, người mua cô không phải là ai khác mà lại chính là người yêu cũ nhưng không nhận ra cô vì cô quá tiều tuỵ. Thất vọng và đau đớn, cô lấy đàn môi ra thổi và chàng trai đã nhận ra, anh quyết định lấy cô làm vợ”. Đoạn trích trong bài học nói về nỗi đau của cô gái khi bị cha mẹ ép duyên. Cũng có khi tôi kết hợp cả cách kể theo thời gian và những biến cố mang tính chất quyết định sự thay đổi số phận nhân vật, như trường hợp lời kể mở đầu bài học đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Sau khi găp gỡ và thề non hẹn biển cùng Kim Trọng, gia đình Thuý Kiều bỗng nhiên bị vu oan. Cha mẹ và em trai Thuý Kiều bị bắt và bị hành hạ tàn nhẫn. Kiều phải bán mình làm lẽ cho Mã Giám Sinh lấy tiền đút lót quan trên để cứu cha và em. Đêm cuối cùng trước ngày phải ra đi theo Mã Giám Sinh, Thuý Kiều nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả nghĩa lấy Kim Trọng. Đoạn trích Trao duyên trong bài học hôm nay là lời độc thoại đau xót của Thuý Kiều trong hoàn cảnh trên Nói đến tâm thế nhập cuộc cũng có nghĩa là nói đến tình huống sư phạm đặc thù mà người thầy dậy Văn thiết kế để khơi dậy trong học sinh hứng thú và động cơ học tập tích cực, khơi dậy khát khao được khám phá, tìm hiểu thế giới nghệ thuật. Tâm thế này khơi dậy trong lòng các em nhu cầu giao tiếp và đối thoại với nhà văn một cách tự nhiên, thể hiện nhu cầu bộc lộ (cảm xúc, thiên hướng, cá tính) của bản thân và cả khả năng sáng tạo trong quá trình tiếp nhận. Việc sử dụng lời dẫn và lời kể sáng tạo để khơi gợi hứng thú cho học sinh trong giờ học Văn tôi không chỉ dùng để mở đầu bài học mà còn duy trì một cách thích hợp xuyên suốt giờ học Văn qua các thao tác như phân tích, cắt nghĩa, đánh giá tác phẩm Nếu như việc sử dụng lời dẫn, lời kể sáng tạo vào đầu giờ học để thu hút sự tập trung chú ý của học sinh thì ở trong phần chuyển đoạn còn có tác dụng kết nối các thành phần và đơn vị thông tin kiến thức. Đồng thời cũng có thể mở rộng hoặc phân tích sâu một chi tiết, một tình huống nghệ thuật. Ngoài ra, tôi còn sử dụng lời dẫn, lời kể sáng tạo vào việc đánh giá các tác phẩm giúp học sinh hình thành năng lực khái quát các vấn đề và giá trị văn học. 2.3.2. Khơi gợi sự liên tưởng, tưởng tượng tích cực cho hoc sinh qua việc đọc tác phẩm Do đặc thù của bộ môn, “đọc” là một hoạt động không thể thiếu trong giờ đọc hiểu. Đọc ở giai đoạn nào và các yêu cầu đọc là vấn đề quan tâm, trăn trở của các thầy cô dậy văn nói chung và bản thân tôi nói riêng. Thực tế cho thấy trong khâu đọc, người thầy không chuẩn bị chu đáo dễ làm cho học sinh chán nản, thờ ơ với việc học. Đọc bao giờ cũng gắn liền với tiếp nhận, nó mang đậm dấu ấn cá nhân người đọc, thể hiện sự cảm nhận của họ về tác phẩm thông qua sự ngân rung và thẩm thấu âm thanh. Khâu đọc không chỉ là việc phát âm thông thường mà có một tác dụng rất tích cực trong việc thức tỉnh cảm xúc tri giác thấm nhuần tín hiệu để lôi cuốn học sinh vào tìm hiểu, khám phá giá trị tác phẩm. Để làm cho học sinh có hứng thú học tập bằng việc khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng qua việc đọc tác phẩm, tôi đã yêu cầu học sinh đọc theo các mức độ sau đây: - Đọc lướt, tạo ấn tượng chung về những vấn đề xã hội và cuộc sống trong tác phẩm (Sơ bộ hình dung về bức tranh tổng thể, khách quan của cuộc sống và thái độ, phong cách của nhà văn). - Đọc tập trung vào điểm sáng thẩm mỹ để tạo nên sức biểu hiện nổi bật của bức tranh nghệ thuật. - Nhấn mạnh âm hưởng chủ đạo và giọng điệu của nhà văn, nhà thơ, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng thẩm mỹ và phong cách của tác giả. - Đọc diễn cảm (hoặc nhập vai, đọc theo vai) tô đậm giá trị nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Với tính đặc thù của hoạt động học tập bộ môn, các yêu cầu về đọc tác phẩm đã nói đến ở trên tôi hướng dẫn thực hiện ở hai giai đoạn: + Giai đoạn đọc chuẩn bị (đọc trước khi đến lớp). + Giai đoạn đọc ở lớp. Yêu cầu trước hết ở khâu đọc chuẩn bị là học sinh phải chuẩn bị được tâm thế, tập trung chú ý đến tri giác ngôn ngữ văn bản, từng bước làm rõ nghĩa công cụ của ngôn từ. Trong giai đoạn này, tôi hướng dẫn các em chú giải những từ ngữ khó, điển tích, điến cố, những từ cổ hoặc những từ ít phổ biến. Ví dụ: Ở đoạn trích Trao duyên, có những điển cố ít thông dụng trong giao tiếp ngôn ngữ thời hiện đại nên cần được hiểu rõ (hoàn cảnh, xuất xứ, ý nghĩa...) trước khi vào khám phá nội dung bên trong tác phẩm, nhằm giúp học sinh chú ý và tạo điều kiện thuận lợi cho việc khơi gợi sự liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh để tri giác tốt ở các khâu tiếp theo của giờ giảng văn. Vì vậy, ở khâu đọc chuẩn bị trong bài Trao duyên tôi giúp gọc sinh hiểu được: - Tương tư: là tưởng nhớ đến nhau vì xa cách, ở đây có nghĩa là tình yêu trai gái. - Keo loan: do chữ “loan giao” tức thứ keo chế bằng máu chim loan (người xưa dùng để nối dây đàn và dây cung khi bị đứt). Câu này ý nói: Thuý Vân hãy thay mình tiếp nối tình yêu với Kim Trọng... - Quạt ước, chén thề: hai người tặng nhau quạt để ngỏ ý hẹn ước trăm năm, uống rượu thề nguyền, chung thủy. - Hiếu tình: hiếu với cha mẹ, tình với người yêu. hiếu: một phạm trù đạo đức quan trọng của đạo Nho. hi sinh quyền lợi của cá nhân , kể cả tình yêu cho hiếu là một nguyên tắc ứng xử phổ biến của người xưa. - Chín suối : âm phủ, cõi của người chết theo quan niệm của người xưa. - Vành: cái vòng, xuyến đeo tay; tờ mây: tờ giấy có tr
Tài liệu đính kèm:
- skkn_cach_goi_hung_thu_cho_hoc_sinh_trong_gio_doc_hieu_ngu_v.doc