SKKN Tích hợp giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học Ngữ văn 10 cho học sinh lớp 10C7 trường THPT Tô Hiến Thành, thành phố Thanh Hóa

SKKN Tích hợp giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học Ngữ văn 10 cho học sinh lớp 10C7 trường THPT Tô Hiến Thành, thành phố Thanh Hóa

Có thể nói vấn đề học sinh tốt nghiệp THPT ra trường thiếu kỹ năng sống, thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỷ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân đang là những cản trở lớn cho sự phát triển của thanh niên khiến không ít các bậc cha mẹ phải phiền lòng vì con, đặc biệt là trong xã hội phát triển và đòi hỏi sự năng động của con người như hiện nay.

Nhiều học sinh có cuộc sống khép kín với thực tại, đắm chìm trong thế giới ảo của Internet, của thế giới game mà quên đi và đánh mất những cơ hội kết bạn, thể hiện những khả năng tiềm ẩn của mình, lo sợ rụt rè khi tiếp xúc với cộng đồng, xã hội.

Thêm nữa, trước tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng thì kỹ năng tự bảo vệ mình cũng cần được coi trọng khi nhóm thanh niên xấu luôn lấy sức mạnh cơ bắp hoặc đám đông để bắt nạt, ức hiếp các thanh niên hiền ngoan, ít nói

Vì vậy nhiều bậc phụ huynh lo lắng trước tình trạng con của mình thiếu tự tin, luôn tỏ ra rụt rè khi có cơ hội thể hiện mình trước đám đông hoặc các em không biết cách xử lý tình huống dù là thật đơn giản như kêu gọi sự giúp đỡ từ người khác, tìm đường, định hướng Đó cũng là vấn đề mà không ít học sinh trường THPT Tô Hiến Thành – nơi tôi đang công tác, mắc phải.

Trong khi đó, môn Ngữ văn với những đặc trưng và thế mạnh riêng của mình có thể góp phần không nhỏ vào việc giải quyết những vấn đề vừa nêu.

Trước những yêu cầu hết sức thiết thực, tôi chọn đề tài: “Tích hợp giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học Ngữ văn 10 cho học sinh lớp 10C7 trường THPT Tô Hiến Thành, thành phố Thanh Hóa.” với hi vọng chia sẻ cùng đồng nghiệp nhằm góp phần nào kinh nghiệm giáo dục cho lớp thanh niên của nhà trường trở thành những con người toàn diện, năng động, sáng tạo, dễ dàng hòa nhập cùng cộng đồng và có ích cho xã hội.

 

doc 18 trang thuychi01 9555
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tích hợp giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học Ngữ văn 10 cho học sinh lớp 10C7 trường THPT Tô Hiến Thành, thành phố Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Có thể nói vấn đề học sinh tốt nghiệp THPT ra trường thiếu kỹ năng sống, thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỷ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân đang là những cản trở lớn cho sự phát triển của thanh niên khiến không ít các bậc cha mẹ phải phiền lòng vì con, đặc biệt là trong xã hội phát triển và đòi hỏi sự năng động của con người như hiện nay.
Nhiều học sinh có cuộc sống khép kín với thực tại, đắm chìm trong thế giới ảo của Internet, của thế giới game mà quên đi và đánh mất những cơ hội kết bạn, thể hiện những khả năng tiềm ẩn của mình, lo sợ rụt rè khi tiếp xúc với cộng đồng, xã hội.
Thêm nữa, trước tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng thì kỹ năng tự bảo vệ mình cũng cần được coi trọng khi nhóm thanh niên xấu luôn lấy sức mạnh cơ bắp hoặc đám đông để bắt nạt, ức hiếp các thanh niên hiền ngoan, ít nói
Vì vậy nhiều bậc phụ huynh lo lắng trước tình trạng con của mình thiếu tự tin, luôn tỏ ra rụt rè khi có cơ hội thể hiện mình trước đám đông hoặc các em không biết cách xử lý tình huống dù là thật đơn giản như kêu gọi sự giúp đỡ từ người khác, tìm đường, định hướng Đó cũng là vấn đề mà không ít học sinh trường THPT Tô Hiến Thành – nơi tôi đang công tác, mắc phải.
Trong khi đó, môn Ngữ văn với những đặc trưng và thế mạnh riêng của mình có thể góp phần không nhỏ vào việc giải quyết những vấn đề vừa nêu.
Trước những yêu cầu hết sức thiết thực, tôi chọn đề tài: “Tích hợp giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học Ngữ văn 10 cho học sinh lớp 10C7 trường THPT Tô Hiến Thành, thành phố Thanh Hóa.” với hi vọng chia sẻ cùng đồng nghiệp nhằm góp phần nào kinh nghiệm giáo dục cho lớp thanh niên của nhà trường trở thành những con người toàn diện, năng động, sáng tạo, dễ dàng hòa nhập cùng cộng đồng và có ích cho xã hội.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tôi nghiên cứu đề tài này để:
- Tích hợp kiến thức môn Ngữ văn vào việc giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh lớp 10C7 trường THPT Tô Hiến Thành nhằm phát huy lợi thế đặc trưng riêng của môn học.
- Giáo dục một cách toàn diện cho học sinh lớp 10C7 đồng thời chuẩn bị những kỹ năng mềm cho các em khi bước vào cuộc sống .
- Khắc phục những hạn chế cố hữu của phần đông học sinh: thiếu tự tin, bản lĩnh, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
- Đề tài mong muốn đóng góp một phần kinh nghiệm nhỏ trong công tác giảng dạy môn Ngữ văn và tích hợp với công tác giáo dục thanh niên trong trường THPT hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Việc giáo dục kỹ năng sống cần được tiến hành ở mọi cấp học, tùy theo lứa tuổi, giới tính chúng ta cần có những vấn đề khác nhau để đưa vào nội dung giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh. 
Tuy nhiên, với đề tài này, tôi chỉ áp dụng giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học Ngữ văn với 40 em học sinh lớp 10C7 của trường THPT Tô Hiến Thành.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp tổng hợp tài liệu: Nghiên cứu tổng hợp kiến thức về kỹ năng sống.
1.4.2. Phương pháp quan sát thực tiễn: Quan sát học sinh trong quá trình học tập và hoạt động.
1.4.3. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế thu thập thông tin.
1.4.4. Phương pháp so sánh: Sử dụng số liệu so sánh hiệu quả của đề tài trước và sau khi áp dụng sáng kiến.
 2. NỘI DUNG 
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Theo Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông:
Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường và hướng nghiệp, có điều kiện để phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. [6]
Ngoài ra, Chỉ thị 40/2008/CT-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” có nói:
Rèn kỹ năng sống cho học sinh:
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm.
- Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác.
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử, văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. [7]
Từ các vấn đề có tính pháp lí nêu trên, tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là cần thiết và phù hợp với chủ trương của ngành và toàn xã hội.
2.1.2. Các loại kỹ năng sống
Theo tài liệu tập huấn về Kỹ năng sống của UNICEF( 2014), có những kỹ năng sống sau: [1]
2.1.2.1. Kỹ năng tự nhận thức: Là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu... của bản thân mình, quan tâm và đang ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
2.1.2.2. Kỹ năng xác định giá trị: Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân trong cuộc sống. Giá trị có thể là những chuẩn mực đạo đức, những chính kiến, thái độ, và thậm chí là thành kiến đối với một điều gì đó
2.1.2.3. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc: Kỹ năng kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình hống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với người khác thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một các phù hợp. Kỹ năng xử lý cảm xúc còn có nhiều tên gọi khác như: xử lý cảm xúc , kiềm chế cảm xúc, làm chủ cảm xúc, quản lí cảm xúc. 
2.1.2.4.Kỹ năng giao tiếp: là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần thiết.
2.1.2.5. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông: là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong hoàn cảnh của người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn là những người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ. [1]
2.1.2.6. Kỹ năng tư duy phê phán: là khả năng phân tích một cách khách quan và toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượngxảy ra.
2.1.2.7. Kỹ năng tư duy sáng tạo: là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một cách mới, với ý tưởng mới, theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ chức mới; là khả năng akhám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan niệm, sự việc; độc lập trong suy nghĩ. 
2.1.2.8. Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin: Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin là một kỹ năng sống quan trọng giúp con người có thể có được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời.
2.1.2.9. Kỹ năng ứng phó với căng thẳng: là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như một phần tất yếu của cuộc sống, là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng thẳng cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi bị căng thẳng
2.1.2.10. Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ: Bao gồm các yếu tố: Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ, biết xác định được những địa chỉ đáng tin cậy, tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó và biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp.
2.1.2.11. Kỹ năng thể hiện sự tự tin: Là có niềm tin vào bản thân, tự hài lòng với bản thân, tin rằng mình có thể trở thành người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thiện các nhiệm vụ.
2.1.2.12. Kỹ năng lắng nghe tích cực: Thể hiện sự tập trung chú ý và sự quan tâm lắng nghe ý kiến vào phần trình bày của người khác. 
2.1.2.13. Kỹ năng thương lượng: Là khả năng trình bày, suy nghĩ, phân tích và giải thích, đồng thời có thảo luận để đạt được một sự điều chỉnh và thống nhất về cách suy nghĩ, cách làm hoặc một vấn đề gì đó.
2.1.2.14. Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn: Là khả năng con người nhận thức được nguyên nhân này sinh mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó với thái độ tích cực, không dùng bạo lực, thỏa mãn được nhu cầu và quyền lợi các bên, các mối quan hệ giữa các bên một cách hòa bình.
2.1.2.15. Kỹ năng hợp tác: Là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm.
2.1.2.16. Kỹ năng ra quyết định: Là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống một cách kịp thời.
2.1.2.17. Kỹ năng giải quyết vấn đề: Là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu và hành động theo các phương án đã chọn để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống.
2.1.2.18. Kỹ năng kiên định: Là khả năng con người nhận thức được những gì mình muốn và lí do dẫn đến sự mong muốn đó.
2.1.2.19. Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm: Là khả năng con người thể hiện sự tự tin, chủ động và ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong nhóm.
2.1.2.20. Kỹ năng đạt mục tiêu: Là khả năng con người biết đặt ra mục tiêu cho bản thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện được mục tiêu đó.
2.1.2.21. Kỹ năng quản lí thời gian: Là khả năng con người biết sắp xếp các công việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một thời gian nhất định.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
Hiện nay, mặc dù Bộ GD&ĐT đã có chủ trương dạy kỹ năng sống cho học sinh ở tất cả các bậc học nhưng vẫn chưa có nội dung chương trình chính thống nào từ Bộ. Điều này vô hình trung khiến một số đơn vị, tung ra đủ loại giáo trình dạy kỹ năng sống, đưa vào các trường học. Các bộ giáo trình này chưa được kiểm định, khiến thị trường sách dạy kỹ năng sống trở nên hỗn loạn.
Từ đó mà việc thực hiện giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh thiếu thống nhất, đồng bộ tại các cơ sở. Trường thì yêu cầu giáo viên tranh thủ lồng ghép những bài học đạo đức, những câu chuyện và văn hóa ứng xử hay đại loại là cách ứng biến với tình huống cuộc sống như thế nào...
Không có giờ học chính khóa nên việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chỉ dừng ở dạng lồng ghép, tích hợp. Tùy từng trường mà cách lồng ghép khác nhau. Có trường lồng ghép vào môn kỹ thuật, hát nhạc, có trường lại lựa chọn môn Văn học, Lịch sử, GDCD... nhằm giúp học sinh tiếp thu kiến thức tốt hơn.
Với bộ môn Ngữ văn THPT nói chung, chương trình Ngữ Văn 10 nói riêng, có thể tích hợp giáo dục kỹ năng sống như thế nào? Mức độ, phương pháp ra sao? Vẫn là điều rất lúng túng.
 Bản thân giáo viên làm công tác giáo dục kỹ năng sống vừa yếu, vừa thiếu vừa chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Do vậy, việc dạy còn khá hời hợt, nhiều khi chiếu lệ tại một số trường. 
 Do đó, hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng sống chưa cao, chưa được đánh giá một cách nghiêm túc, thiếu những tiêu chí cụ thể để đánh giá. Việc lồng ghép kỹ năng sống là việc các trường bắt buộc phải làm. Tuy nhiên, thực hiện ra sao, lồng ghép như thế nào, dựa vào bộ giáo trình và khung chuẩn nào để đánh giá hiệu quả giảng dạy thì chưa có. Vì thế, nói là chúng ta đang tích cực dạy kỹ năng sống cho học sinh nhưng kỳ thực, tính hình thức của nó khá nặng nề.
Bên cạnh đó, đối với học sinh trường THPT Tô Hiến Thành, điểm đầu vào thuộc nhóm trường thấp nhất khu vực thành phố, có nhiều học sinh có hoàn cảnh đặc biệt: cha mẹ li hôn hoặc vướng vào lao lí hoặc quá nghèo khổ, bệnh tật nên việc chăm sóc dạy dỗ từ phía gia đình còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, khối 10 năm học 2017 – 2018 có điểm đầu vào thấp nhất so với những năm gần đây. Lớp 10 C7 lại có nhiều học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
2.3. Tích hợp giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học Ngữ Văn 10
Trên cơ sở nội dung chương trình môn Ngữ văn 10 và tình hình thực tế của học sinh lớp 10C7, vừa bước vào một cấp học mới, bậc học cuối cùng của GD phổ thông, trước khi bước vào giai đoạn học nghề, lao động ., trong đề tài này tôi tập trung vào rèn luyện cho học sinh một số kỹ năng như sau: kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tìm kiếm, xử lí thông tin và kỹ năng tư duy sáng tạo.
2.3.1. Kỹ năng xác định giá trị.
2.3.1.1. Mục tiêu
Mỗi người đều có một hệ thống giá trị riêng. Kỹ năng xác định giá trị là khả năng con người hiểu rõ được những giá trị của bản thân mình. Kỹ năng xác định giá trị có ảnh hưởng lớn đến quá trình ra quyết định của mỗi người. Kỹ năng này còn giúp người khác biết tôn trọng người khác, biết chấp nhận rằng người khác có những giá trị và niềm tin khác.
Giá trị không phải là bất biến mà có thể thay đổi theo thời gian, theo các giai đoạn trưởng thành của con người. Giá trị phụ thuộc vào giáo dục vào nền văn hóa, vào môi trường sống, học tập và làm việc của cá nhân.
Kỹ năng này giúp học sinh biết cái gì là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân. Từ việc xác định giá trị cụ thể của bản thân cũng như định hướng cho cuộc sống của mình, phải nỗ lực hết mình để đạt được ước mơ đó.
2.3.1.2. Ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Khi giảng dạy đoạn trích “Chí khí anh hùng” (Ngữ văn 10 trập 2, Tr112) có thể chỉ ra cho học sinh thấy, giá trị mà Từ Hải cho là quan trọng đó là gì? Nó có giá trị định hướng hay suy nghĩ, hành động như thế nào? 
Giáo viên có thể định hướng trả lời: Giá trị mà Từ Hải cho là quan trọng đó chính là lí tưởng anh hùng. Từ đó mà chàng thể hiện khát khao được vùng vẫy, tung hoành bốn phương.
Ví dụ 2: Khi học “Truyện An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy” (Ngữ văn 10 trập 1, Tr39), học sinh tự nhận thức được tinh thần cảnh giác được gửi gắm qua truyền thuyết.
Ví dụ 3: Qua tác phẩm “Tấm Cám” (Ngữ văn 10 trập 1, Tr65), học sinh tự nhận thức, xác định giá trị của cái tốt, cái thiện và có ý thức đấu tranh bảo vệ cái tốt, cái thiện, chống lại cái ác, cái xấu trong cuộc sống.Tự nhận thức là kỹ năng sống cần có của mỗi thanh niên- học sinh trong thời kỳ hội nhập. Qua tác phẩm văn học kỹ năng sống sẽ đến gần hơn với học sinh.
Ví dụ 4: Khi giảng dạy bài Khái quát lịch sử tiếng Việt (Ngữ văn 10 trập 2, Tr33), sau khi tôi đã giúp học sinh nắm bắt được nguồn gốc, các mối quan hệ họ hàng, quan hệ tiếp xúc, tiến trình phát triển của tiếng Việt và hệ thống chữ viết của tiếng Việt...Tôi đi đến nhấn mạnh: Trân trọng tiếng mẹ đẻ, sử dụng chuẩn mực, trong sáng tiếng Việt cũng là trân trọng những giá trị truyền thống mà cha ông ta để lại.
2.3.2. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc
2.3.2.1. Mục tiêu
Một người biết kiểm soát cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng giúp giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa và mang tính xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn.
Kỹ năng quản lý cảm xúc cần sự kết hợp với kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng ứng xử với người khác và kỹ năng ứng phó với căng thẳng, đồng thời góp phần củng cố các kỹ năng này.
 Trong cuộc sống của chúng ta, có nhiều lúc chúng ta phải kiểm soát cảm xúc nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình huống đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với người khác thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một cách phù hợp.
2.3.2.2. Ví dụ minh họa
Ví dụ: Khi giảng dạy đoạn trích “Chí khí anh hùng” (Ngữ văn 10 trập 2, Tr112), giáo viên có thể đặt vấn đề: Vì sao Từ Hải chia tay Thúy Kiều không quyến luyến, bịn rịn?
Giáo viên có thể hướng dẫn trả lời: Vì Từ Hải là người anh hùng phi thường có khả năng kiểm soát cảm xúc là khả năng nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình huống đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với Thúy Kiều thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một cách phù hợp.
2.3.3. Kỹ năng giao tiếp 
2.3.3.1. Mục tiêu
Kỹ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kỹ năng khác như bày tỏ sự cảm thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn, kiếm soát cảm xúc. Người có kỹ năng giao tiếp tốt biết dung hòa đối với mong đợi của những người khác, có cách ứng xử khi làm việc cùng và ở cùng với những người khác trong một môi trường tập thể, quan tâm đến những điều người khác quan tâm và giúp họ có thể đạt được những điều họ mong muốn một cách chính đáng.
Kỹ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác. Kỹ năng này giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình- nguồn hỗ trợ quan trọng cho mỗi chúng ta, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây là yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui cuộc sống. Kỹ năng này cũng giúp kết thúc các mối quan hệ khi cần thiết một cách xây dựng.
2.3.3.2. Ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Khi dạy bài Văn bản, (Ngữ văn 10 trập 1, Tr23) phần I, mục 3, ngữ liệu:
LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm! 
 Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946
 HỒ CHÍ MINH [4]
Câu hỏi 1: Văn bản trên được người nói (người viết) tạo ra trong loại hoạt động nào? Để đáp ứng nhu cầu gì? Dung lượng (số câu) ở mỗi văn bản như thế nào?
Câu hỏi 2: Văn bản trên đề cập đến vấn đề gì? Vấn đề đó được triển khai nhất quán trong toàn bộ văn bản như thế nào?
Câu hỏi 3: Nội dung của văn bản được triển khai mạch lạc qua từng câu, từng đoạn như thế nào và có kết cấu mấy phần?
Câu hỏi 4: Về hình thức, văn bản có dấu hiệu mở đầu và kết thúc như thế nào?
Sau khi hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi nhằm hướng tới nắm bắt được khái niệm và đặc điểm của văn bản, giáo viên lồng ghép để giảng dạy kỹ năng sống: Cuộc sống của chúng ta có muôn vàn câu hỏi cần chúng ta phải trả lời. Qua cách phát biểu của các bạn thì phần nhiều các bạn chưa có kỹ năng giao tiếp.Ngoài việc học các kiến thức trong sách vở, việc rèn luyện các kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp là vô cùng cần thiết. Kỹ năng giao tiếp giúp chúng ta có thể đưa ra những chính kiến, trình bày suy nghĩ của mình một cách tốt hơn. 
Ví dụ 2: Khi dạy bài: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, (Ngữ văn 10 trập 1, Tr113), phần I, mục 1, ngữ liệu:
Hãy thể hiện đúng giọng điệu ghi chép sau đây:
(Buổi trưa, tại khu tập thể X, hai bạn Lan và Hùng gọi bạn Hương đi học)
- Hương ơi đi học đi!
(im lặng)
- Hương ơi! Đi học đi! (Lan và Hùng gào lên)
- Gì mà ầm ầm lên thế chúng mày! Không cho ai ngủ ngáy nữa à! (tiếng một người đàn ông nói to)
- Các cháu ơi, khẽ chứ! Để cho các bác ngủ trưa với !... Nhanh lên con, Hương! (tiếng mẹ Hương nhẹ nhàng, ôn tồn)
- Đây rồi, ra đây rồi! (tiếng Hương nhỏ nhẹ)
- Gớm, chậm như rùa ấy! Cô phê bình chết thôi! (tiếng Lan càu nhàu)
- Hôm nào cũng hậm. Lạch bà lạch bạch như vịt bầu!... (tiếng Hùng tiếp lời) [4]
Sau khi phân tích để học sinh nắm được khái niệm và các đặc trưng của ngôn ngữ sinh hoạt, giáo viên lồng ghép dạy kỹ năng: T

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tich_hop_giao_duc_mot_so_ky_nang_song_qua_mon_hoc_ngu_v.doc
  • docMỤC LỤC skkn.doc
  • docBÌA skkn.doc