SKKN Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị dạng a : b x c

SKKN Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị dạng a : b x c

Trong giai đoạn đầu của bậc học tiểu học, việc biết giải toán có lời văn đối với các em là rất quan trọng. Nhờ giải toán các em có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới. Qua việc dạy học giải toán có lời văn sẽ gíup các em tự phát hiện vấn đề, giái quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra qui tắc ở dạng khái quát nhất định hay nói một cách khác dạy học giải toán sẽ phát triển khả năng suy luận, lập luận và trình bày các kết quả theo một trình tự hợp lý làm cơ sở cho quá trình dạy học toán ở các lớp cao hơn sau này.

 Đối với học sinh lớp 3, là lớp kết thúc giai đoạn I của bậc tiểu học. Đây là giai đoạn quan trọng giúp các em hình thành các kĩ năng giải toán có lời văn. Ở lớp 3 các em được làm quen với các dạng toán có lời văn như tìm một trong các phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều lần, giảm đi một số lần, và đặc biệt là học sinh biết giải toán có lời văn bằng hai phép tính như dạng bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị. Việc các em nắm vững các kĩ năng giải toán có lời văn ở lớp 3 sẽ là tiền đề, là cơ sở vững chắc để các em giải tốt các dạng toán có lời văn ở giai đoạn II bậc tiểu học.

 Qua thực tế giảng dạy lớp 3, tôi thấy khả năng giải toán có lời văn của học sinh còn nhiều hạn chế nhất là những bài toán hợp giải bằng hai phép tính. Nguyên nhân chính là do các em còn nhầm lẫn giữa các dạng bài toán giống nhau, rập khuôn theo mẫu hoặc công thức mà không hiểu được bản chất của dạng toán nên không giải thích được cách làm; khả năng tư duy của các em còn kém

 Xác định được vị trí, tầm quan trọng trong việc dạy học giải toán có lời văn, tôi xét thấy cần phải tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp nội dung “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị dạng a : b x c”, nhằm khắc phục một số lỗi cho học sinh lớp 3B trường tiểu học Yên Thọ 1 khi học dạng toán này.

 

doc 14 trang thuychi01 6470
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị dạng a : b x c", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TT
Nội Dung
Trang
1
I. MỞ ĐẦU
2
2
Lý do chọn đề tài
2
3
Mục đích nghiên cứu
2
4
Đối tượng nghiên cứu
2
5
Phương pháp nghiên cứu
2
6
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
7
2.1 Cơ sở lý luận
3
8
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
9
* Thực trạng của giáo viên
3
10
* Thực trạng của học sinh
3
11
Kết quả 
4
12
2.3. Các giải pháp thực hiện
4
13
* Các biện pháp tổ chức thực hiện
4
14
1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài nhận dạng bài toán
5-9
15
2. Giáo viên cần vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy trong từng tiết học để hướng dẫn học sinh học tập một cách chủ động, tích cực
9-10
16
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
10-11
17
III KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
18
- Kết luận
11
19
- Kiến nghị và đề xuất
11-12
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU:
- Lý do chọn đề tài:
Trong giai đoạn đầu của bậc học tiểu học, việc biết giải toán có lời văn đối với các em là rất quan trọng. Nhờ giải toán các em có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới. Qua việc dạy học giải toán có lời văn sẽ gíup các em tự phát hiện vấn đề, giái quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra qui tắc ở dạng khái quát nhất định hay nói một cách khác dạy học giải toán sẽ phát triển khả năng suy luận, lập luận và trình bày các kết quả theo một trình tự hợp lý làm cơ sở cho quá trình dạy học toán ở các lớp cao hơn sau này.
 Đối với học sinh lớp 3, là lớp kết thúc giai đoạn I của bậc tiểu học. Đây là giai đoạn quan trọng giúp các em hình thành các kĩ năng giải toán có lời văn. Ở lớp 3 các em được làm quen với các dạng toán có lời văn như tìm một trong các phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều lần, giảm đi một số lần,và đặc biệt là học sinh biết giải toán có lời văn bằng hai phép tính như dạng bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị. Việc các em nắm vững các kĩ năng giải toán có lời văn ở lớp 3 sẽ là tiền đề, là cơ sở vững chắc để các em giải tốt các dạng toán có lời văn ở giai đoạn II bậc tiểu học.
 Qua thực tế giảng dạy lớp 3, tôi thấy khả năng giải toán có lời văn của học sinh còn nhiều hạn chế nhất là những bài toán hợp giải bằng hai phép tính. Nguyên nhân chính là do các em còn nhầm lẫn giữa các dạng bài toán giống nhau, rập khuôn theo mẫu hoặc công thức mà không hiểu được bản chất của dạng toán nên không giải thích được cách làm; khả năng tư duy của các em còn kém
 Xác định được vị trí, tầm quan trọng trong việc dạy học giải toán có lời văn, tôi xét thấy cần phải tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp nội dung “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị dạng a : b x c”, nhằm khắc phục một số lỗi cho học sinh lớp 3B trường tiểu học Yên Thọ 1 khi học dạng toán này. 
- Mục đích nghiên cứu:
Để nâng cao hiệu quả dạy học môn toán nói chung và dạng toán “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị dạng a : b x c”. Từ đó giáo viên hiểu rõ hơn về các bước tiến hành dạy nhằm khắc phục một số lỗi cho học sinh khi giải dạng toán này. Hình thành cho các em kĩ năng khi giải dạng bài toán này. 
- Đối tượng nghiên cứu:
	Học sinh lớp 3B, trường tiểu học Yên Thọ 1, huyện Như Thanh
- Phương pháp nghiên cứu
	Thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
	Kết hợp phương pháp truyền thống và phương pháp dạy học đổi mới
+ phương pháp thảo luận nhóm.
+ phương pháp đàm thoại.
+ phương pháp nêu vấn đề.
+ phương pháp phân tích tổng hợp.
+ phương pháp trò chơi
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
+ Môn toán là một trong những môn học đặc trưng của chương trình tiểu học. Nó xuyên suốt và hỗ trợ các môn học khác. Nó hỗ trợ phát triển tư duy và rèn cho các em những đức tính tốt đẹp của người lao động mới, giáo dục cho các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận chu đáo làm việc có kế hoạch. Từ lớp 1 đến lớp 5 môn toán được cấu trúc theo chương trình từ thấp đến cao theo đặc điểm tâm lý lứa tuổi, từ những bài toán đơn giản đến những bài toán cần có tư duy trừu tượng. Ở các lớp từ lớp 1 đến lớp 2 các em đã được học bài toán giải có lời văn dạng cơ bản từ 1-2 phép tính ....vv. Đến lớp 3 việc hướng dẫn dạy giải toán dạng rút về đơn vị 
a : b x c cho học sinh là phần mở rộng và tinh tế hơn làm tiền đề cho các em khi học bài toán về quan hệ tỉ lệ ở lớp 5. Nên chúng ta cần nắm vững được cơ sở để giải bài toán dạy cho các em khi gặp bài toán này không còn bối rối và khó khăn để tìm ra kết quả.
 	Tìm hiểu và đưa ra các cách giải dạng toán ““Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị dạng a : b x c” sao cho tiết học phong phú, dễ hiểu. gần gũi với các em. Từ đó tạo hứng thú cho các em nắm vững và học tốt dạng toán này.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
*Thực trạng của giáo viên:
`	Qua thực tế giảng dạy, dự giờ thăm lớp của các đồng nghiệp tôi thấy giáo viên thường tiến hành như sau:
 * Đối với bài hình thành kiến thức mới (tiết 122 trang 128 SGK Toán 3)
Bài toán 1: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong?
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu đề, phân tích bài toán, lựa chọn phép tính thích hợp và ghi bài giải như sách giáo khoa.
Bài toán 2: Giáo viên tiến hành tương tự như bài toán 1 và rút ra các bước giải của dạng toán. 
Phần bài tập giáo viên tổ chức cho học sinh làm lần lượt các bài tập trong sách giáo khoa sau đó chữa bài và nêu cách làm đúng.
Qua dự giờ tiết này tôi thấy: Khi hướng dẫn học sinh hình thành kiến thức mới qua hai bài toán mẫu giáo viên:
 + Chưa giải thích cho học sinh rõ các thuật ngữ, các khái niệm toán học có trong bài toán. 
+ Chưa khắc sâu được đặc điểm dạng toán thông qua các thuật ngữ toán học có trong bài .
+ Hình thức tổ chức dạy học còn chưa linh hoạt, gây nhàm chán trong tiết học, học sinh chưa hứng thú học tập. 
* Dự giờ tiết luyện tập ( tiết 123 trang129 SGK Toán 3)
Giáo viên đã tổ chức cho các làm các bài tập theo các hình thức phong phú hơn nhưng học sinh còn làm sai nhiều do chưa hiểu được bản chất của dạng toán và sau mỗi bài tập giáo viên chưa củng cố và khắc sâu đặc điểm của từng bài cụ thể.
* Thực trạng của học sinh:
Qua thực tế giảng dạy và qua dự giờ thăm lớp tôi thấy:
+ Khi tìm hiểu đề toán các em còn lúng túng trước những khái niệm, những thuật ngữ toán học.
+ Các em chưa nắm được bản chất của dạng toán nên đưa ra cách giải sai hoặc rập khuôn máy móc theo bài mẫu.
+ Học sinh còn lúng túng khi gặp những bài toán có cấu trúc giống nhau về nội dung nhưng câu hỏi khác nhau.
+ Học sinh chưa tham gia tích cực vào hoạt động học tâp, kĩ năng trình bày bài chưa tốt.
* Kết quả :
Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành ra đề bài khảo sát, từ đó biết những lỗi mà học sinh thường mắc để có biện pháp giúp đỡ.
Đối tượng khảo sát : Học sinh lớp 3B Trường Tiểu học Yên Thọ 1
Số học sinh tham gia khảo sát : 25 em
Lớp
Tổng số
HTT
HT
CHT
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
3B
25
3
12
17
68
5
20
Nhận xét kết quả khảo sát:
 Chất lượng làm bài của học sinh còn thấp. Cụ thể nhiều em còn chưa xác định được cái cần tìm nên giải sai phép tính, sai câu lời giải hoặc câu lời giải chưa chính xác, chưa phù hợp với phép tính.
2.3 Các giải pháp thực hiện
Từ thực trạng, nguyên nhân của thực trạng nói trên, soi rọi vào cơ sở lí luận để dạy các “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị”. Để dạy học có hiệu quả, tôi xin đề xuất các giải pháp sau:
* Giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy để hiểu được dụng ý của sách giáo khoa, nội dung và yêu cầu trọng tâm của tiết học. Từ đó tìm ra được phương pháp dạy học phù hợp để giờ học đạt hiệu quả cao.
* Giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết tìm hiểu đề, tóm tắt nội dung bài toán từ đó nắm được đặc điểm bản chất của dạng toán cũng như nắm được các bước giải của dạng toán “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị”.
* Giáo viên cần có những hình thức tổ chức dạy học phù hợp để hướng dẫn học sinh giải dạng toán “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị” một cách chủ động, sáng tạo.
* Các biên pháp tổ chức thực hiện:
Để giúp học sinh nắm vững dạng toán và biết cách giải các bài toán dạng “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị” người giáo viên cần nắm được mối quan hệ giữa dạng toán với các kiến thức liên quan đó là:
 Trước khi học dạng toán này, học sinh đã được các dạng: Tìm một phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều lần, bài toán giải bằng hai phép tính
 Dạng bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị được đề cập ở sách giáo khoa Toán 3 qua 1 tiết hình thành kiến thức mới (tiết 122) sau đó là 2 tiết luyện tập (tiết 123,124).
 Khi đã xác định được vị trí của dạng toán “Bài toán toán liên quan đến việc rút về đơn vị” trong chương trình Toán 3 tôi đã áp dụng một số biện pháp sau:
1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài nhận dạng bài toán.
a- Đối với bài hình thành kiến thức mới:
Khi tiến hành giải bài toán có lời văn việc đầu tiên phải làm là đọc và tìm hiểu kĩ đề bài. Song trình độ ngôn ngữ của các em còn hạn chế hơn nữa để hiểu đúng các thuật ngữ, khái niệm toán học lại càng khó hơn nên các em thường bị lúng túng dẫn đến việc tìm hiểu đề bài còn mơ hồ sai lệch không đúng bản chất của dạng toán.
 Vì vậy khi hướng dẫn học sinh giải toán cần hướng dẫn đọc kĩ đề bài hiểu được cách diễn đạt bằng lời của bài toán, xác định được các yếu tố đã cho và yêu cầu cần tìm.
* Tìm hiểu đề bài:
Đối với tiết hình thành kiến thức mới tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề như sau:
Bài toán 1: (trang128 SGK Toán3)
Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong?
Đây là bài toán đơn học sinh đã biết cách làm ở các tiết học trước nên khi học sinh đã đọc đề bài nhiều lần, tôi yêu cầu học sinh bằng các lệnh:
 + Hãy gạch một gạch dưới cái đã cho biết.
 + Hãy gạch hai gạch dưới yêu cầu của bài.
 Sau đó tôi yêu cầu học sinh diễn đạt bài toán bằng lời theo cách hiểu của mình.
 	Bước tiếp theo cần làm sau khi các em tìm hiểu đề bài là cho các em hiểu rõ một số khái niệm, thuật ngữ là “mấu chốt” để giải bài toán bằng cách đặt câu hỏi:
 	 + Em hiểu “chia đều” ở bài toán này là chia như thế nào?
 	 + Bài toán yêu cầu tìm “mỗi can” tức là tìm mấy can?
 Nếu học sinh chưa hiểu đúng được khái niệm này tôi sẽ giải thích để các em rõ “chia đều”ở bài toán này là chia vào các can mà mỗi can có số lượng mật ong như nhau, “mỗi can” ở đây cần hiểu là một can.
Tương tự, khi cho học sinh giải các bài tập trong tiết hình thành kiến thức mới hoặc các bài toán cùng dạng nhưng nội dung câu hỏi khác nhau tôi đều cho học sinh tự giải thích để hiểu rõ thêm về các khái niệm, thuật ngữ có trong bài. Như vậy, khi gặp các bài toán dạng này các em không còn cảm thấy bỡ ngỡ hay lúng túng nữa.
Cụ thể: Đối với các bài tập phần luyện tập trang 128 của tiết hình thành kiến thức mới:
Bài 1: Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc có bao nhiêu viên thuốc?
Bài 2: Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó bao nhiêu kg gạo?
Khi cho học sinh làm các bài toán trên tôi đều cho các em tìm hiểu các khái niệm “chứa đều”, “đựng đều” tất cả các khái niệm này đều cho ta biết số lượng thuốc ở mỗi vỉ, số kg gạo ở mỗi bao đều bằng nhau.
* Tóm tắt bài toán
Nhiều giáo viên khi dạy học sinh giải toán có lời văn thường xem nhẹ hoặc không chú ý đến việc hướng dẫn học sinh tóm tắt đề. Theo tôi, khi học sinh biết tóm tắt đề toán tức là các em đã hiểu được nội dung của bài toán là bài toán cho biết gì, bài toán yêu cầu tìm gì.
Có nhiều cách tóm tắt nội dung bài toán: tóm tắt bằng lời, tóm tắt bằng hình vẽ, tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng,Đối với dạng toán liên quan đến việc rút về đơn vị, chủ yếu tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng lời.
Ở bài toán 1 phần hình thành kiến thức mới tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt như sau:
7 can : 35 l mật ong
1 can : ? l mật ong
Với bài toán 2 học sinh tóm tắt tương tự:
7can : 35l mật ong
2 can : ? l mật ong
Lưu ý học sinh khi tóm tắt bằng lời thì các giá trị của cùng một đại lượng phải trình bày thẳng cột.
 	 Với bài toán 1, bài toán 2 phần luyện tập của tiết hình thành kiến thức mới, các bài toán này không có tóm tắt mẫu nên sau khi tìm hiểu đề bài xong tôi yêu cầu học sinh tự tóm tắt bài toán. Đa số các em tự tóm tắt được bài toán trước khi giải, xong cũng có một số học sinh tóm tắt như sau:
 Với bài toán 1:
 7 bao có : 28 kg
 ? kg : 5 bao
 Hay với bài toán 2:
 4 vỉ thuốc : 24 viên
 ? viên : 5 vỉ thuốc
 Với những trường hợp học sinh tóm tắt như trên giáo viên phải hướng dẫn học sinh sửa luôn như sau:
 7 bao : 28 kg
 5 bao : ? kg
 Hay:
 4 vỉ thuốc : 24 viên
 5 vỉ thuốc : ? viên
Đối với những em học sinh chưa hoàn thành, sau khi tóm tắt xong, tôi yêu cầu các em diễn đạt lại nội dung bài toán thông qua tóm tắt để các em nắm vững hơn nội dung bài toán.
* Hướng dẫn học sinh giải bài toán
Sau khi học sinh đã tìm hiểu và nắm vững các khái niệm, thuật ngữ trong đề bài, tóm tắt được bài toán tôi cho học sinh giải bài toán 1 vào giấy nháp và gọi 1 học sinh lên bảng trình bày bài giải
 Bài giải :
 Số lít mật ong trong mỗi can là :
: 7 = 5 ( l )
 Đáp số : 5 l mật ong
Bài toán này là bước đệm để các em giải bài toán 2 trong tiết học nên khi học sinh giải xong tôi hỏi lại để củng cố cách giải :
+ Muốn tìm mỗi can hay một can có mấy lít mật ong ta làm thế nào? (ta làm tính chia: lấy số lít mật ong chia cho số can).
Giáo viên nhấn mạnh: Muốn tìm mỗi can hay một can có bao nhiêu lít mật ong ta phải thực hiện phép tính chia.
Sau khi học sinh giải xong bài toán thứ nhất tôi yêu cầu cả lớp đọc và giải bài toán thứ hai.
 Do đã được hiểu rõ các khái niệm, các bước giải ở bài toán 1 nên khi tìm hiểu bài toán 2 tôi đã hướng dẫn học sinh giải bài toán bằng các câu hỏi gợi mở:
+ Muốn tìm hai can có mấy lít mật ong ta phải biết gì? (Phải biết số lít mật ong ở mỗi can hay một can)
+ Số lít mật ong ở mỗi can đã cho biết chưa?(chưa cho biết)
Giáo viên nhấn mạnh: Vậy ta phải tìm số lít mật ong ở một can. Sau đó ta mới tìm số lít mật ong trong 2 can.
 Giáo viên khẳng định trình tự giải bài toán:
 1.Tìm số lít mật ong ở một can.
2.Tìm số lít mật ong ở 2 can.
Giáo viên hỏi tiếp: Tìm số lít mật ong ở một can có tìm được không? (tìm được như cách làm ở bài toán 1)
Giáo viên yêu cầu học sinh giải bài toán. 
Bài giải:
1 can đựng số lít mật ong là:
35 : 7 = 5 ( l )
2 can đựng được số lít mật ong là:
5 x 2 = 10 ( l )
Đáp số : 10 l mật ong
Học sinh giải xong bài toán 2, tôi cho học sinh tìm các câu lời giải khác cho bài toán. 
Học sinh nêu các câu lời giải khác cho bài toán như:
Số lít mật ong ở mỗi can là:
35 : 7 = 5 ( l )
Số lít mật ong trong 2 can là:
5 x 2 = 10 ( l )
Đáp số : 10 l mật ong
Tôi lưu ý cho học sinh trong bài toán không chỉ có một câu lời giải mà có thể có nhiều câu lời giải khác nhau ta có thể chọn câu lời giải ngắn gọn và phù hợp nhất.
Sau khi hướng dẫn học sinh giải xong bài toán 2 giáo viên củng cố cho học sinh về dạng toán. 
Giáo viên nhấn mạnh :
+ Đây là bài toán thuộc dạng toán “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị”, khi giải bài toán này ta giải qua mấy bước? (2 bước)
+ Đó là những bước nào? ( bước 1: Tìm giá trị của 1 phần).
 (bước 2: Tìm giá trị của nhiều phần).
+ Bước 1 ta phải thực hiện phép tính gì? (Thực hiện phép chia).
+ Bước 2 ta phải thực hiện phép tính gì? (Thực hiện phép tính nhân).
+ Trong 2 bước giải trên bước nào là bước rút về đơn vị? (Bước 1 là bước rút về đơn vị)
Hình thành cho học sinh cách giải và các bước giải của dạng toán này tôi cho học sinh làm bài tập 1 và bài tập 2 phần luyện tập để học sinh được luyện tập và củng cố cách giải.
Bài 1: Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu viên thuốc?
 Bài 2: Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó có bao nhiêu kg gạo? 
 Hai bài tập này tôi cho học sinh tự tóm tắt bài toán và giải vào vở. Tôi cho một vài em lên bảng trình bày bài làm của mình và tôi cho học sinh nhận xét bài làm của nhau rồi kết luận cách làm đúng.
Đến phần củng cố bài tôi cho học sinh nhắc lại một lần nữa cách giải dạng toán này như sau: 
 + Bài toán liên quan đến rút về đơn vị phải giải qua mấy bước? Đó là những bước nào? Bước nào là bước rút về đơn vị? Và vì sao bước này gọi là bước rút về đơn vị?
 Giáo viên nhấn mạnh: Bước tìm một can mật ong chứa bao nhiêu lít, một vỉ thuốc có bao nhiêu viên thuốc, một bao gạo đựng được mấy kg (tức là tìm 1 đơn vị) là bước rút về đơn vị. Khi giải dạng toán này bao giờ ta cũng phải thực hiện bước tìm 1 đơn vị .
b. Đối với tiết luyện tập :
 Khi học sinh đã hình thành được cách giải bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị ở tiết hình thành kiến thức mới, sang tiết luyện tập học sinh tiếp tục được luyện tập củng cố để các em nắm vững hơn về cách giải dạng toán này. Cụ thể:
 	* Phần tìm hiểu đề : Các bài tập của tiết luyện tập có những khái niệm nào các em chưa gặp tôi dều cho các em tìm hiểu và nắm vững .
 Ở tiết 124 tiết luyện tập :
Bài 1: Có 4500 đồng mua được 5 quả trứng. Hỏi nếu mua 3 quả trứng như thế thì hết bao nhiêu tiền ?
Bài 2: Muốn lát nền một căn phòng như nhau cần 2550 viên gạch . Hỏi muốn lát nền 7 căn phòng như thế cần bao nhiêu viên gạch?
Các bài toán này các em chưa hiểu khái niệm “như thế” tôi phải giải thích cho học sinh hiểu “ như thế” ở đây là mỗi quả trứng được mua với giá tiền như nhau hay mỗi căn phòng được lát số viên gạch như nhau.
 	 Sau khi học sinh tìm hiểu đề bài xong, tôi cho học sinh tiếp tục các bước tiếp theo của quy trình giải bài toán có lời văn mà các em vẫn thường làm.
 	Đối với các bài tập ở tiết luyện tập ngoài việc củng cố cách giải dạng toán, giáo viên cần chú trọng đến việc giúp các em nâng cao kĩ năng giải toán như kĩ năng tóm tắt bài toán, kĩ năng trình bày bài giải, kĩ năng đặt đề toán 
2. Giáo viên cần vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy trong từng tiết học để hướng dẫn học sinh học tập một cách chủ động, tích cực.
Trong giờ dạy học sinh giải toán nhiều giáo viên còn giữ vai trò là người truyền thụ, cung cấp cho học sinh. Vì thế kiến thức mà học sinh tiếp thu được còn thụ động, máy móc, chủ yếu là làm theo khuôn mẫu hay bắt chước nên các em dễ quên. Nhiều giáo viên khi tiếp cận với phương pháp mới đang còn lúng túng nên ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Hình thức tổ chức dạy học của nhiều giáo viên còn đơn điệu nên giờ học nhàm chán, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Vì thế, khi dạy học sinh giải toán tôi luôn chú trọng đến việc đổi mới phương pháp trong từng bài dạy lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng phần nội dung kiến thức của tiết học. Với giờ học toán các hình thức mà tôi thường sử dụng là học cá nhân, nhóm, trò chơi,...Các hình thức tổ chức dạy học linh hoạt phù hợp trong từng tiết học sẽ đem lại cho học sinh bầu không khí học tập vui vẻ, sôi nổi khiến các em cảm thấy thoải mái tự tin hơn trong học tập.
 Cụ thể trong khi dạy học sinh giải toán dạng “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị” 
 * Đối với bài hình thành kiến thức mới: 
 Tôi đã lựa chọn các hình thức dạy học khác nhau như cá nhân, nhóm, cả lớp.
Bài toán 1: Có 35 l mật ong đựng đều trong 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong?
 Đây là bài toán đơn các em có thể tự giải được nên sau khi cho các em tìm hiểu một số khái niệm trong bài toán tôi yêu cầu các em làm việc cá nhân.
Bài toán 2: Có 35 l mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy l mật ong?
 Bài toán này là bài toán mẫu, thông qua cách giải bài toán này để hình thành cách giải của dạng toán có yêu cầu cao hơn, phức tạp hơn nên sau khi cho học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tôi tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn để tìm các bước giải sau đó học sinh sẽ giải cá nhân.
Với 2 bài tập phần luyện tập, tôi cho học sinh tự giải theo hình thức cá nhân, 1 học sinh lên bảng trình bày bài giải sau đó học sinh dưới lớp đối chiếu kết quả nhận xét cách giải đúng.
* Đối với tiết luyện tập:
Bài 1: Trong vườn ươm, người ta đã ươm 2032 cây giống trên 4 lô đất, các lô đều có số cây như nhau. Hỏi mỗi lô đất có bao nhiêu cây giống?
Bài 2: Có 2135 quyển vở được xếp đều vào 7 thùng. Hỏi 5 thùng có bao nhiêu quyển vở?
Bài 3: Lập đề toán theo tóm 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_bai_toan_lien_quan_den_viec_rut_ve_don_vi_dang_a_b_x_c.doc