Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy giúp học sinh nhớ kiến thức ngữ pháp để làm tốt bài tập
Về nội dung của sáng kiến
Trong quá trình học tập của các em, khó khăn nhất là khi phải ôn bài để chuẩn bị thi, đặc biệt là thi trung học phổ thông quốc gia vì cùng một lúc các em phải học rất nhiều nội dung, nhiều môn học. Do đó buộc các em cần phải nhớ nhiều thứ trong một khoảng thời gian nhất định, nhất là đối với các em yếu kém thì sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Do vậy cách học như thế nào để dễ nhớ là vấn đề hết sức cần thiết đối với các em nhất là việc các em phải đối diện với quá trình đổi mới thi cử, đổi mới ra đề kiểm tra, đề thi theo hướng trắc nghiệm tổng hợp như hiện nay.
Thế nên, khi giảng dạy hoặc ôn kiến thức, ngoài việc truyền thụ cho các em những kiến thức cơ bản của bài học bao giờ tôi cũng rất chú trọng đến việc hướng dẫn cách học bài cho các em. Mỗi một nội dung bài học, đơn vị bài học cần phải có cách học, cách nhớ khác nhau mà người giáo viên phải phân loại để giúp các em có phương pháp học phù hợp để hiểu và nhớ lâu.
Từ những thực tế như đã nêu trên nên trước khi ôn tập cho các em chuẩn bị dự các kỳ thi thì chúng ta phải nắm được toàn bộ kiến thức. Trong đó kiến thức nào là chủ yếu, kiến thức nào là kiến thức trọng tâm nhất làm nền cho tất cả các dạng kiến thức còn lại. Ví dụ như trong quá trình ôn tập thi cuối cấp đối với lớp 9 hoặc lớp 12 ở bộ môn tiếng Anh thì chúng ta thấy có rất nhiều kiến thức cần phải rèn luyện, nhưng chúng ta phải xác định rằng kiến thức về thì động từ là quan trọng nhất để chúng ta đầu tư nhiều hơn, rèn luyện nhiều hơn bởi nếu hỏng nội dung kiến thức này thì các em sẽ không thể nào làm được những dạng bài tập còn lại dù có rèn luyện đến đâu đi nữa.
Như thế bây giờ chỉ còn lại là cách dạy học sinh biết định hướng, biết tìm ra những phương pháp học hợp lí để dễ hiểu và nhớ lâu nhằm vận dụng kiến thức vào việc làm bài tập đạt kết quả cao nhất.
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Trong những năm gần đây, song song với sự phát triển không ngừng của ngành khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, công nghiệp du lịch việc học ngoại ngữ đã trở thành một nhu cầu thiết yếu với tất cả cộng đồng. Với cơ chế mở cửa, quan điểm “Hội nhập” ngoại ngữ đã trở thành phương tiện tối ưu để chúng ta tiếp cận với thế giới văn minh, trao đổi văn hoá và nối vòng tay hữu nghị toàn cầu. Xuất phát từ mục tiêu đó, việc dạy và học ngoại ngữ trong các trường THPT đã có chuyển biến rõ rệt. Ngoại ngữ đã trở thành một môn học bắt buộc trong các trường THCS và THPT. Tiếng Anh đã được phủ kín các trường ở khắp nơi kể cả vùng sâu vùng xa. Thậm trí đa số trường tiểu học cũng đã đưa môn ngoại ngữ vào để các em sớm được làm quen với môn học và tạo điều kiện thuận lợi cho việc học sau này của các em. Một trong những yếu tố cơ bản tác động trực tiếp đến kết quả học tập của học sinh là phương pháp học và dạy học. Vậy việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học là một công việc cô cùng quan trọng đối với mỗi giáo viên, phương pháp dạy học tích cực là lấy học sinh làm trung tâm, học sinh phải chủ động tham gia vào các hoạt động học tập từ khâu lĩnh hội kiến thức đến khâu thực hành các kỹ năng giao tiếp còn giáo viên chỉ là người hướng dẫn, chỉ đạo và là trọng tài cho các hoạt động học tập của học sinh. Là giáo viên, nhất là giáo viên ngoại ngữ bất kì ai cũng muốn cho chất lượng dạy và học bộ môn mình luôn đạt hiệu quả cao nhất, tức là học sinh có nhu cầu tiếp thu kiến thức kĩ năng, vận dụng kĩ năng để giao tiếp, hứng thú với nội dung bài học, có tình cảm và đam mê môn học, biết bộc lộ nhận thức và sự hiểu biết của mình ra bên ngoài bằng lời nói, bài viết thông qua ngoại ngữ. Từ đó, học sinh tự hình thành và phát triển những kiến thức và kĩ năng cơ bản về tiếng Anh và những phẩm chất trí tuệ cần thiết để tiếp tục học lên nữa hoặc đi vào cuộc sống lao động. Từ những thực tế đã nêu, nên trong quá trình giảng dạy, nhất là đối với những lớp cuối cấp, tôi tự đặt cho mình mục tiêu phải làm gì để thực hiện được những yêu cầu đổi mới nói chung và giúp các em học sinh có được những cách học hợp lí, hiệu quả, tự tin hơn trong môn học tiếng Anh, đặc biệt là tự tin hơn trong các kì thi tốt nghiệp THPT. Với những lý do trên, tôi đã tìm tòi, đúc rút được những kinh nghiệm nhằm giúp các em học sinh phần nào tháo gỡ bớt những khó khăn và học tập có kết quả cao hơn qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Phương pháp dạy giúp học sinh nhớ kiến thức ngữ pháp để làm tốt bài tập”. 2. Tên sáng kiến: PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÚP HỌC SINH NHỚ KIẾN THỨC NGỮ PHÁP ĐỂ LÀM TỐT BÀI TẬP. 3. Tác giả sáng kiến - Họ và tên: Nguyễn Thị Dung - Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Triệu Thái - Số điện thoại: 0978696809 E mail:nguyenthidung.gvtrieuthai@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Dung 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Sáng kiến được áp dụng với môn tiếng anh phần ngữ pháp, đổi mới phương pháp nhằm nâng cao chất lượng của môn học. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu : Tháng 9 năm 2016 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Về nội dung của sáng kiến Trong quá trình học tập của các em, khó khăn nhất là khi phải ôn bài để chuẩn bị thi, đặc biệt là thi trung học phổ thông quốc gia vì cùng một lúc các em phải học rất nhiều nội dung, nhiều môn học. Do đó buộc các em cần phải nhớ nhiều thứ trong một khoảng thời gian nhất định, nhất là đối với các em yếu kém thì sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Do vậy cách học như thế nào để dễ nhớ là vấn đề hết sức cần thiết đối với các em nhất là việc các em phải đối diện với quá trình đổi mới thi cử, đổi mới ra đề kiểm tra, đề thi theo hướng trắc nghiệm tổng hợp như hiện nay. Thế nên, khi giảng dạy hoặc ôn kiến thức, ngoài việc truyền thụ cho các em những kiến thức cơ bản của bài học bao giờ tôi cũng rất chú trọng đến việc hướng dẫn cách học bài cho các em. Mỗi một nội dung bài học, đơn vị bài học cần phải có cách học, cách nhớ khác nhau mà người giáo viên phải phân loại để giúp các em có phương pháp học phù hợp để hiểu và nhớ lâu. Từ những thực tế như đã nêu trên nên trước khi ôn tập cho các em chuẩn bị dự các kỳ thi thì chúng ta phải nắm được toàn bộ kiến thức. Trong đó kiến thức nào là chủ yếu, kiến thức nào là kiến thức trọng tâm nhất làm nền cho tất cả các dạng kiến thức còn lại. Ví dụ như trong quá trình ôn tập thi cuối cấp đối với lớp 9 hoặc lớp 12 ở bộ môn tiếng Anh thì chúng ta thấy có rất nhiều kiến thức cần phải rèn luyện, nhưng chúng ta phải xác định rằng kiến thức về thì động từ là quan trọng nhất để chúng ta đầu tư nhiều hơn, rèn luyện nhiều hơn bởi nếu hỏng nội dung kiến thức này thì các em sẽ không thể nào làm được những dạng bài tập còn lại dù có rèn luyện đến đâu đi nữa. Như thế bây giờ chỉ còn lại là cách dạy học sinh biết định hướng, biết tìm ra những phương pháp học hợp lí để dễ hiểu và nhớ lâu nhằm vận dụng kiến thức vào việc làm bài tập đạt kết quả cao nhất. 7.1.1. Phương pháp thực hiện tiết dạy ngữ pháp Hầu hết các cấu trúc ngữ pháp của Tiếng Anh lớp 11, các em đều được học ở các lớp dưới có là lớp 9, 10, lên lớp 11 các em chủ yếu được học tiếp và mở rộng và ôn lại, cũng có không ít cấu trúc mới hoàn toàn và mặc dầu học sinh đã được giới thiệu qua các cấu trúc và các điểm ngữ pháp ở tiết học Listen and Read. Nhưng đến tiết Language Focus, chúng ta cũng cần phải dạy theo tiến trình của 1 tiết dạy ngữ pháp “P-P-P” mà chúng ta đã được tập huấn và tôi đã thực hiện theo 3 giai đoạn: * Giới thiệu hình thái và ý nghĩa của cấu trúc (presentation) * Rèn luyện (Practice) * Củng cố bằng các bài tập và hoạt động hoặc trò chơi tiếp theo sau rèn luyện (production) - Mỗi giai đoạn có yêu cầu riêng và đặc thù loại bài tập riêng của nó. Như vậy khi nghiên cứu lên kế hoạch giảng dạy giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ dạng bài tập, nhận dạng đúng để lựa chọn kĩ thuật phù hợp trong điều kiện giảng dạy, đối tượng học sinh và hoàn cảnh thực tế để tiết dạy đạt hiệu quả cao. 7.1.2. Giải quyết vấn đề a. Giới thiệu hình thái và nghĩa của cấu trúc: (presentation) Trước khi đi vào bước rèn luyện, giáo viên giới thiệu hình thái và nghĩa của cấu trúc câu cụ thể, rõ ràng lên bảng, mặc dù có một số cấu trúc câu đã được giới thiệu qua ở tiết Listen & Read nhưng chúng ta cần phải giới thiệu lại cụ thể hơn, rõ ràng hơn, và để không bị nhàm chán và đơn điệu khi giới thiệu (vì ngữ pháp thường hay khô khan, cứng nhắc) giáo viên nên dùng nhiều thủ thuật khác nhau phù hợp với từng kiểu câu như: + Dùng tình huống + Dùng thị giác (vật thật, người thật, tranh ảnh) + So sánh đối chiếu các cấu trúc ngữ pháp + Dịch nghĩa + Nêu ví dụ câu chuẩn + Dùng sơ đồ tư duy * Dẫn chứng cụ thể: a. 1. Dùng tình huống: - Giáo viên nêu tình huống để học sinh nhận ra khi nào thì dùng mẫu câu đó, phát huy sự sáng tạo và khả năng suy luận của học sinh. - Khi giới thiệu giáo viên có thể dùng tranh ảnh hoặc hình vẽ để nêu tình huống. Ví dụ: Để dạy cấu trúc “the past simple with wish” ở bài 1, tôi vẽ lên bảng một hình vẽ đơn giản (người thấp) hoặc một bức tranh của một cô gái thấp: I wish I were taller - Giáo viên bắt đầu nêu tình huống: T: Look at him (or her). What does he (she) look like? S: He (she) is short. He (she) isn’t tall T: Is he (she) happy with it? S: No T: What does he (she) have in his (her) mind? S: He (she) minds “I wish I were taller” T: What tense was used in the clause after WISH? S: past tense - Tiếp theo giáo viên giới thiệu cấu trúc và mục đích sử dụng của WISH a.2. Dùng thị giác: Giáo viên dùng đồ vật, hình vẽ hoặc tranh ảnh có thể kết hợp với nét mặt, điệu bộ giúp gây ấn tượng về hình ảnh để học sinh liên hệ trực tiếp với ý nghĩa của câu. Ví dụ: ôn lại modals: may/might Giáo viên có thể sử dụng 1 vật thật là 1 hộp quà để ôn lại modals: may/might. T: This is a present. Do you know what it is? S: No T: However, you can guess. What may it be? S1: It may be a pen S2: It may be a doll/ a box of cookies (etc) Giáo viên có thể để cho thêm 1 vài học sinh nữa đoán tiếp với cách sử dụng may/might để đoán. Giáo viên ghi một trong các câu các em đoán lên bảng “It may be a pen It might be a doll” rồi giúp học sinh ôn lại hai động từ này bằng công thức và cách dùng của chúng: Form: may/might + V (Bare –infinitive) Use: - may/might is used to talk about present or future possibility - Might is normal a little/less sure than May a.3. Dùng cách so sánh đối chiếu các cấu trúc ngữ pháp: - Việc đối chiếu cấu trúc mới với cấu trúc học sinh đã biết giúp cho học sinh củng cố lại những mẫu câu khác nhau trên cơ sở cái đã biết, do đó học sinh không bị nhầm lẫn giữa cách sử dụng các mẫu câu khác nhau. Ví dụ: T: Who can remind what Mrs Mi suggests Mrs Ha doing to save water? (in section Listen and Read) S: I suggest taking showers T: Now, listen to me, I give you other suggestion to save water “I suggest that you should take showers” Tell me the difference between these two sentences “I suggest taking showers” and “I suggest that you should take showers” S: Sentence 1: “........suggest + V-ing Sentence 2: “........suggest + that –clause” T: that’s right Sau đó giáo viên chốt ý và giúp học sinh nắm mục đích sử dụng và cấu trúc câu đề nghị trước khi bước vào giai đoạn rèn luyện. a.4. Dịch nghĩa - Giáo viên dùng cách này để diễn đạt ý nghĩa của cùng một mẫu câu bằng 2 ngôn ngữ khác nhau, giúp học sinh phân biệt sự khác nhau nhau giữa cách diễn đạt ý nghĩa của câu trong tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh, tránh được sự chuyển di tiêu cực từ tiếng mẹ đẻ. - Một số cấu trúc câu giáo viên có thể dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh và ngược lại. Ví dụ 1: - Cấu trúc này học sinh được học “Adverb clause of reason” dùng với “as/because/since” và ở bài 3 – section Language Focus 4/page 31 học sinh được học “Adverb clause of result” dùng với “so”. Vậy 2 cấu trúc này có liên kết là “Bởi vì – nên” “Because – so” - Theo ngôn ngữ mẹ đẻ: “Bởi vì tối qua Ba thức khuya xem TV nên bây giờ cậu ấy mệt”. Nhưng khi diễn đạt bằng tiếng Anh thì: “Because Ba stayed up late watching TV, he is tired now” - Sau đó giáo viên chốt ý lại cho học sinh cách sử dụng các liên từ trong tiếng Anh. Ví dụ 2: - Ở phần này các em được học cấu trúc ngữ pháp “Adverb clause of concession” dùng với “although/though/eventhough”- với tiếng mẹ đẻ thì có nghĩa là “mặc dầu – nhưng mà”. - Giáo viên giới thiệu sau đó yêu cầu học sinh dịch nghĩa: T: Thu Ha is not satisfied with her preparations for Tet. Thu Ha has decorated her house and made plenty of cakes. * Combine two sentences into one by using a connective – EVEN THOUGH S1: Thu Ha is not satisfied with her preparations for Tet, eventhough She has decorated her house and made plenty of cakes S2: Eventhough Thu Ha has decorated her house and made plenty of cakes, she is not satisfied with her preparations for Tet. T: Viet namese? S1: Thu Hà không hài lòng với việc chuẩn bị tết của mình mặc dầu cô ấy đã trang hoàng nhà cửa và làm rất nhiều bánh. S2: Mặc dù Thu Hà đã trang hoàng nhà cửa và làm rất nhiều bánh, nhưng cô ấy không hài lòng với việc chuẩn bị tết của mình. - Với cách nói của học sinh thứ 2 (S2 thì các em dễ bị nhầm lẫn cách sử dụng theo lối “Mặc dù – nhưng mà” => “Eventhough – but”. - Tiếp theo sau giáo viên phân tích và chốt lại điểm ngữ pháp cho học sinh nắm chắc để rèn luyện. a.5. Dùng sơ đồ tư duy (Mindmap): Khi giới thiệu ngữ liệu mới về từ vựng hoặc về chủ đề nào đó ta có thể sử dụng sơ đồ tư duy thuận tiện và có hiệu quả hơn. Tuy nhiên trong việc giới thiệu ngữ pháp ta cũng có thể áp dụng được. Ví dụ: khi ta dạy về câu bị động hay câu điều kiện ta có thể sử dụng sơ đồ tư duy sau: S + is /am/are + Vpp S + was/were + Vpp S + will/shall (modal) +be + Vpp S + has/have + been + Vpp - Câu bị động : Passive voice - Câu điều kiện 2. If +S + V-ed/cột 2/were + O, S + would/could + V+O 3. If +S +had +P2 + O, S + would/could/might have + P2 4 . If +S +had +P2 + O, S + would/could + V+O 1. If +S + V(s/es) + O, S + will/can+ V+ O Conditional sentences b. Cách thực hiện các kỹ thuật rèn luyện ngữ pháp: (practice) Việc cung cấp cấu trúc ngữ pháp cho học sinh nắm được ở phần giới thiệu ngữ liệu là bước cần thiết và bắt buộc trong việc dạy ngữ pháp và bước tiếp theo không thể thiếu được đó là giúp các em biết vận dụng mẫu câu mình đã học vào bài tập cụ thể. (practive) Các bài tập rèn luyện mẫu câu đã được biên soạn trong SGK – phần Language Focus, ở nhiều dạng khác nhau nhằm thông qua kiến thức ngôn ngữ để rèn luyện các kỹ năng cho học sinh. Tuy nhiên các bài tập đó là những công cụ mà giáo viên phải biết cách hướng dẫn học sinh sử dụng chúng để hoàn thiện mục tiêu học tập bộ môn. Để thực hiện bước này tôi sử dụng một số kỹ thuật trong quá trình hướng dẫn học sinh rèn luyện. b.1. Bài tập thay thế: (substitution drill): Dạng bài tập này học sinh luyện nghe-nói theo bài mẫu trên cơ sở sử dụng cấu trúc đã được học. Giáo viên tạo điều kiện cho học sinh luyện tập về không gian, thời gian và các phương tiện hỗ trợ dạy học như: tranh ảnh, posters,...... và tổ chức rèn luyện theo cặp, nhóm...Dạng bài tập này thường được thực hiện dưới dạng một đoạn đối thoại giữa 2 hoặc 3 nhân vật do vậy giáo viên cần phải hướng dẫn bài mẫu một cách cụ thể, rõ ràng để học sinh luyện tập dễ hơn và khắc sâu được kiến thức ngôn ngữ đã đựơc học. Khi đã được giới thiệu và cung cấp đủ thông tin của bài tập hỗ trợ cho hoạt động luyện tập như đã nêu, học sinh dễ dàng và tự tin để luyện theo cặp. Khi học sinh đang luyện giáo viên nên nhẹ nhàng, yên lặng đi vòng quanh lớp lắng nghe các em luyện tập, nếu cặp học sinh nào gặp khó khăn, giáo viên kịp thời giúp đỡ và sửa riêng tại chỗ cho các em. b.2. Bài tập lặp lại: ( Repetition drill) Với dạng bài tập này thì cách rèn luyện mang tính máy móc vì có một số cấu trúc câu, học sinh không cần hiểu nghĩa vẫn làm được. Vì vậy giáo viên cần phải quan tâm đến sự khác biệt về tính chất của bài tập để phát huy ưu điểm của bài tập này là học sinh sẽ được làm quen với hệ thống trọng âm, tiết tấu và ngữ điệu của tiếng Anh qua đó nghĩa của câu được thể hiện, đồng thời học sinh làm quen với hệ thống âm thanh tiếng Anh qua nghe –nói Khi rèn luyện dạng bài tập này giáo viên nên chú ý đến từng loại đối tượng học sinh để khỏi gây nhàm chán đối với một số học sinh giỏi, có thể là chúng ta yêu cầu các học sinh giỏi về ngữ điệu, trọng âm, cách diễn đạt cao hơn so với các bạn khác. c. Thủ thuật củng cố, kiểm tra sau khi rèn luyện: Phần lớn các kiến thức ngữ pháp Tiếng Anh lớp 11 là ôn tập, hệ thống lại, củng cố lại kiến thức đã học từ lớp 9, 10. Do đó phần lớn bài tập trong các bài LANGUAGE FOCUS nhằm mục đích củng cố, kiểm tra kiến thức ngữ pháp đã được học. Để giúp HS tiếp thu tốt nội dung kiến thức và rèn luyện kĩ năng vận dụng, ngoài việc hướng dẫn các em làm bài tập, tôi nghĩ GV chúng ta cũng phải cần tạo cho các em cảm giác hưng phấn và hứng thú cho các em tích cực tham gia vào bài học cũng như tiếp thu kiến thức. Muốn vậy, cách tốt nhất là GV áp dụng các thủ thuật phù hợp, đồng thời dạng các trò chơi sẽ có tác dụng tích cực trong việc kích thích sự hưng phấn cho HS. Với những thủ thuật thông thường có thể áp dụng cho mục đích bài học này là: Dialogue build, Dictation, Gap fill, Matching, Network, Finding friends, Find someone who, Ordering words, Write-it-up, Language games, Mindmap. Chúng tôi quan tâm đến việc sử dụng hiệu quả và hợp lí thủ thuật Language games, tất nhiên trên cơ sở có sự chuẩn bị kế hoạch tiết dạy kĩ càng để chủ động thời gian và không quá lạm dụng khiến có thể " cháy giáo án ". Thủ thuật này bao gồm các trò chơi như : Chain game, Noughts & crosses, Pelmanism, Guessing game, Rub out and remember, Lucky numbers, Mindmap . d. Một số dạng bài tập cụ thể Thứ nhất, tôi xin nói về cách làm bài tập thì động từ. Một trong những vấn đề đau đầu nhất mà các em học sinh gặp phải khi làm bài tập chia thì và nếu không nắm rõ cách thức làm các em sẽ rất dễ dàng làm sai. Qua quá trình nghiên cứu tôi rút ra những cách thức sau đây vừa đơn giản vừa dễ sử dụng nhằm giúp các em, cũng như các đồng nghiệp có cách thức tiếp cận vấn đề một cách ngắn gọn nhất. Đa số các em còn lúng túng không biết biết lúc nào động từ chia thì hoặc không chia thì (to inf, nguyên mẫu ..v..v ) do vậy trước khi vào nội dung chính chúng ta hướng dẫn cho học sinh cần nắm vững một nguyên tắc căn bản nhất trong tiếng Anh là : Có chủ từ thì động từ chia thì, không có chủ từ thì động từ không chia thì mà phải chia dạng. Xem ví dụ sau: When he saw me he (ask) me (go) out. Xét động từ ask: nhìn phía trước nó có chủ từ he vì thế ta phải chia thì - ở đây chia thì quá khứ vì phía trước có saw; xét đến động từ go, phía trước nó là me là túc từ nên không thể chia thì mà phải chia dạng - ở đây là to go ,cuối cùng ta có câu đúng: When he saw me he asked me to go out. Ngoài ra để làm được dạng bài tập này thì thông thường các em phải nhớ cùng một lúc khoảng 6, 7 thì động từ và đi kèm theo chúng là 6, 7 công thức, cách sử dụng Như thế sẽ rất khó nhớ và rất dễ nhằm giữa các cấu trúc với nhau. Thế nên chúng ta phải hướng cho các em biết xác định thời gian xảy ra của các hành động hoạt động trong câu và chia ra làm ba cụm thì: Hiện tại, quá khứ và tương lai. Khi ấy các em sẽ chỉ còn đối phó với 1,2 hoặc 3 công thức mà thôi. Ví dụ cho bài tập: Hoàn thành câu sau với dạng đúng của động từ trong ngoặc: He (go)_________ to the zoo with his family yesterday. Như trên đã nói, để bớt khó khăn ta định hướng cho các em học sinh xác định được câu trên phải là ở thì quá khứ do có dấu hiệu chỉ thời gian “yesterday”. Như vậy các em sẽ chỉ nhớ cụm thì quá khứ gồm có 3 thì: quá khứ đơn, quá khứ tiếp diễn hoặc quá khứ hoàn thành. Thay vì phải nhớ rất nhiều thì động từ cùng một lúc. Tương tự như vậy chúng ta định hướng cho các em làm tất cả các dạng bài tập về thì động từ khác sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và tránh được những sai sót trong quá trình làm bài kiểm tra hoặc bài thi. Thứ hai, là tôi xin nói cách dạy các em làm bài tập và nhớ công thức về câu điều kiện. Thường thì loại bài tập này các em cũng phải chia thì động từ ở hai mệnh đề (main clause và If clause) trong câu. Trước hết cho các em nắm được cấu trúc của các loại câu điều kiện (Ba loại). If (1) + Simple present + main clause: Simple present / simple future. If (2) + Ved/2/were + main clause: Would / should/ could + V(o) If (3) + had + Ved/3 + main clause: Would / should/ could + have + Ved/3 Từ các cấu trúc trên chúng ta hướng cho các em nắm được qui luật của ba loại câu điều kiện chứ không nên học thuộc lòng các cấu trúc đó. Thứ nhất, nếu xuất hiện câu điều kiện mà mệnh đề if (mệnh đề điều kiện) động từ ở thì hiện tại đơn (simple present) thì mệnh đề chính dứt khoát phải có cấu trúc động từ ở dạng tương lai đơn (future simple) hoặc hiện tại đơn (present simple) và ngược lại cũng từ đây chúng ta dễ dàng xác định đấy là câu điều kiện loại 1. Thứ hai, nếu xuất hiện câu điều kiện mà mệnh đề if (mệnh đề điều kiện) động từ ở thì quá khứ đơn, thì động từ ở mệnh đề chính dứt khoát phải có cấu trúc: would/ should/ could + bare infinitive và ngược lại và cũng từ đây chúng ta dễ dàng xác định đấy là câu điều kiện loại 2. Chúng ta cũng thực hiện như thế với câu điều kiện loại 3. *Ví dụ cho bài tập: Chia động từ đúng trong ngoặc của câu sau: If I (see) ________ him, I will give him this present. Như trên đã nói, ta thấy will give trong mệnh đề chính là ở thì tương lai vậy chắc chắn mệnh đề điều kiện (If-clause) động từ sẽ ở thì hiện tại đơn. Vậy ta có câu đúng: If I see him, I will give him this present. *Ví dụ tiếp: Chia động từ đúng trong ngoặc của câu sau: If I had enough money, I (buy) __________a new car. Đối với câu này, ta thấy động từ had ở mệnh đề điều kiện (If-clause) ở dạng quá khứ (V2), vậy chắc chắn nó sẽ là câu điều kiện loại 2. Thế ta có câu đúng là: If I had enough money, I would buy a new car. Như thế chúng ta lại tiếp tục dùng qui lực này cho tất cả các câu điều kiện loại 1, 2, 3 giúp học sinh rất dễ dàng trong việc làm bài
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_day_giup_hoc_sinh_nho_kien.docx