Sáng kiến kinh nghiệm Những phương pháp dạy Đọc - Hiểu văn bản trong môn Ngữ văn

Sáng kiến kinh nghiệm Những phương pháp dạy Đọc - Hiểu văn bản trong môn Ngữ văn

Cơ sở lý luận và thực tiễn

 1. Cơ sở lý luận

 Môn ngữ văn ở bậc THCS đã khẳng định “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy. “Đọc - Hiểu văn bản” không nhằm diễn đạt hai hoạt động tách rời nhau là Đọc và Hiểu. Khi học môn ngữ văn thì hoạt động đó phải là nghiền ngẫm suy tư thậm chí cả cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng. Đọc ở đây diễn ra theo cách bám sát đi sâu vào văn bản để “giải mã’’ văn bản, nghĩa là xác lập các giá trị của văn bản theo cách cảm nhận và cách hiểu của người đọc. Khả năng đọc hiểu và cảm thụ một tác phẩm văn chương phụ thuộc vào việc học sinh có thể trả lời được hay không những câu hỏi đặt ra ở những cấp độ khác nhau. Mức độ thấp nhất là chỉ cần sử dụng những thông tin có ngay trong văn bản. Đó là trường hợp câu trả lời có sẵn trong bài đó là trình độ mới biết đọc trên dòng.Mức cao hơn là buộc phải suy nghĩ và sử dụng những thông tin trong bài để suy ra câu trả lời từ những đầu mối trong văn bản là trình độ đã biết đọc giữa dòng. Cao hơn nữa là yêu cầu khái quát, liên hệ giữa những cái mà học sinh đã đọc với thế giới bên ngoài, đó là trình độ biết vượt ra khỏi dòng để đọc văn bản. Như vậy giáo viên đã giúp học sinh tìm hiểu, khám phá văn bản một cách tích cực chủ động sáng tạo liên hệ được một cách sinh động, tự nhiên với những vấn đề của cuộc sống xã hội.

2. Cơ sở thực tiễn:

 Đọc - Hiểu văn bản trong bài học Ngữ văn chính là hoạt động tìm tòi phân tích để cảm thụ văn bản theo mục tiêu cụ thể của phần Văn trong mục tiêu chung của bài học Ngữ Văn.

 Để dạy tốt tiết Đọc - Hiểu văn bản trong bài học ngữ văn, chúng ta có nhiều hình thức hoạt động dạy học nhưng đều phải hướng tới mục đích rèn cho học sinh có kỹ năng Nghe - Nói- Đọc - Viết tiếng Việt thành thạo theo các kiểu văn bản, nhấn mạnh phương châm đề cao công việc hoạt động của học sinh, giúp học sinh tiếp cận tác phẩm theo ba hướng Đọc - Hiểu; Suy nghĩ - Vận dụng; Liên tưởng - Tích lũy.

 Đổi mới hoạt động Đọc - Hiểu văn bản hình thành cho học sinh phương pháp Đọc - Hiểu các kiểu loại văn bản nhất là các văn bản ở dạng thức sáng tạo nghệ thuật cả trong và ngoài SGK, để phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức. Qua đó người giáo viên phải có cái nhìn bao quát về các tiết dạy theo nội dung văn bản để xác định được:

* Các kỹ năng Đọc - Hiểu văn bản

* Vận dụng các kiểu loại câu hỏi trong hoạt động dạy Đọc - Hiểu văn bản.

 

doc 25 trang hoathepmc36 01/03/2022 23531
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Những phương pháp dạy Đọc - Hiểu văn bản trong môn Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP DẠY ĐỌC- HIỂU 
VĂN BẢN TRONG MÔN NGỮ VĂN
 Năm học 2015-2016
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài.
 Hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học là yêu cầu đối với tất cả các đồng chí giáo viên ở các môn học. Song đối với môn ngữ văn có một vị trí quan trọng góp phần đào tạo giáo dục thế hệ trẻ thành những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý trọng gia đình,có lòng yêu nước, biết hướng tới những tư tưởng tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải sự công bằng xã hội.
 Thông qua việc học tập môn ngữ văn tôi mong muốn giúp các em rèn luyện tích lũy kiến thức, có tư duy sáng tạo, có tính tự lập, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân - thiện - mĩ trong các tác phẩm văn học cũng như trong cuộc sống. 
 Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học trong môn ngữ văn theo hướng tích hợp ba phân môn: Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn gắn bó với nhau. Chính vì vậy, giờ Đọc - Hiểu văn bản là rất quan trọng. Nó gắn liền việc dạy tiếng Việt với văn bản vừa tìm hiểu, với phân môn Tập làm văn là hoạt động tích hợp tri thức Đọc - Hiểu văn bản - Tiếng Việt vào việc tạo lập các văn bản.
 Bản thân tôi là giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy tôi mạnh dạn nêu một vài ý kiến về NHỮNG PHÁP DẠY “ ĐỌC -HIỂU VĂN BẢN TRONG MÔN NGỮ VĂN’’ làm đề tài cho sáng kiến kinh nghiệm của mình.
II. Cơ sở lý luận và thực tiễn
 1. Cơ sở lý luận
 Môn ngữ văn ở bậc THCS đã khẳng định “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy. “Đọc - Hiểu văn bản” không nhằm diễn đạt hai hoạt động tách rời nhau là Đọc và Hiểu. Khi học môn ngữ văn thì hoạt động đó phải là nghiền ngẫm suy tư thậm chí cả cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng. Đọc ở đây diễn ra theo cách bám sát đi sâu vào văn bản để “giải mã’’ văn bản, nghĩa là xác lập các giá trị của văn bản theo cách cảm nhận và cách hiểu của người đọc. Khả năng đọc hiểu và cảm thụ một tác phẩm văn chương phụ thuộc vào việc học sinh có thể trả lời được hay không những câu hỏi đặt ra ở những cấp độ khác nhau. Mức độ thấp nhất là chỉ cần sử dụng những thông tin có ngay trong văn bản. Đó là trường hợp câu trả lời có sẵn trong bài đó là trình độ mới biết đọc trên dòng.Mức cao hơn là buộc phải suy nghĩ và sử dụng những thông tin trong bài để suy ra câu trả lời từ những đầu mối trong văn bản là trình độ đã biết đọc giữa dòng. Cao hơn nữa là yêu cầu khái quát, liên hệ giữa những cái mà học sinh đã đọc với thế giới bên ngoài, đó là trình độ biết vượt ra khỏi dòng để đọc văn bản. Như vậy giáo viên đã giúp học sinh tìm hiểu, khám phá văn bản một cách tích cực chủ động sáng tạo liên hệ được một cách sinh động, tự nhiên với những vấn đề của cuộc sống xã hội.
2. Cơ sở thực tiễn:
 Đọc - Hiểu văn bản trong bài học Ngữ văn chính là hoạt động tìm tòi phân tích để cảm thụ văn bản theo mục tiêu cụ thể của phần Văn trong mục tiêu chung của bài học Ngữ Văn.
 Để dạy tốt tiết Đọc - Hiểu văn bản trong bài học ngữ văn, chúng ta có nhiều hình thức hoạt động dạy học nhưng đều phải hướng tới mục đích rèn cho học sinh có kỹ năng Nghe - Nói- Đọc - Viết tiếng Việt thành thạo theo các kiểu văn bản, nhấn mạnh phương châm đề cao công việc hoạt động của học sinh, giúp học sinh tiếp cận tác phẩm theo ba hướng Đọc - Hiểu; Suy nghĩ - Vận dụng; Liên tưởng - Tích lũy.
 Đổi mới hoạt động Đọc - Hiểu văn bản hình thành cho học sinh phương pháp Đọc - Hiểu các kiểu loại văn bản nhất là các văn bản ở dạng thức sáng tạo nghệ thuật cả trong và ngoài SGK, để phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức. Qua đó người giáo viên phải có cái nhìn bao quát về các tiết dạy theo nội dung văn bản để xác định được: 
* Các kỹ năng Đọc - Hiểu văn bản 
* Vận dụng các kiểu loại câu hỏi trong hoạt động dạy Đọc - Hiểu văn bản.
III. Mục đích nghiên cứu đề tài:
- Nâng cao năng lực đọc hiểu cảm thụ văn chương, năng lực tạo lập văn bản.
- Nâng cao hiệu quả giờ dạy môn ngữ văn 
- Giúp học sinh củng cố hệ thống hóa các kiến thức đã và đang học, khai thác triệt để kiến thức bài dạy gây hứng thú học tập cho học sinh.
- Khơi dậy năng lực thẩm mĩ của học sinh để các em biết yêu cái đẹp, trân trọng cái đẹp.
- Qua các bài học giáo dục cho học sinh lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước, giữ gìn, nâng niu trân trọng những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta.
IV. Đối tượng nghiên cứu:
- Áp dụng một số phương pháp đổi mới kết hợp với những kinh nghiệm của bản
thân trong các tiết dạy học môn Ngữ văn cho học sinh THCS 
V. Phương pháp nghiên cứu:
1. Tìm hiểu bằng cách đọc, nghiên cứu tài liệu về phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại. Các bài viết có tính chất khoa học và đã thành giáo trình giảng dạy.
2. Tổng kết kinh nghiệm sáng kiến của đồng nghiệp.
3. Thực nghiệm sư phạm thông qua các bài dạy ngữ văn cụ thể.
B. NỘI DUNG 
I. Các biện pháp và hình thức dạy học “Đọc - Hiểu văn bản trong bài học ngữ văn”
1. Các phương pháp dạy Đọc- Hiểu văn bản.
 Hoạt động dạy và hoạt động học bao gồm toàn bộ các biện pháp và hình thức dạy của thầy và học của trò theo tinh thần thầy tổ chức hướng dẫn, trò chủ động tích cực trong quá trình Đọc - Hiểu văn bản và lĩnh hội tri thức. Đọc văn bản là một kỹ năng học sinh cần phải rèn luyện và phát triển trong suốt quá trình học tập môn ngữ văn. Đọc văn bản có nhiều hình thức: đọc thầm, đọc lướt, đọc tóm tắt, đọc diễn cảm. Quan trọng nhất là việc Đọc- Hiểu văn bản, nếu học sinh không có kỹ năng đọc hiểu thì không thể tiến hành các bước tiếp theo là phân tích, đánh giá, cảm thụ văn bản.
a. Biện pháp đọc diễn cảm: 
 Muốn hiểu tác phẩm văn chương cần phải đọc, đọc là một cách phân tích tác phẩm bằng giọng điệu ngôn ngữ. Đọc diễn cảm phương pháp dạy học đặc trưng của môn ngữ văn. Đọc diễn cảm có khả năng tái hiện một cách trọn vẹn đời sống và hình tượng tác phẩm, không khí thời đại cũng như ý đồ tư tưởng của nhà văn. Đọc diễn cảm được xem như hình thức biểu hiện nghệ thuật. Vì thế có khả năng liên tưởng và tưởng tượng sáng tạo dựa trên đặc điểm hình thức của cấu trúc ngôn ngữ và thể loại tác phẩm để đọc phân vai, nhập vai. Hoạt động này được coi là thao tác đầu tiên của việc phân tích, cảm thụ “văn”. Đọc đúng là biểu hiện đúng hướng thâm nhập tác phẩm.
 Đọc diễn cảm của thầy là đọc mẫu, với trò là tập đọc diễn cảm. Từ khi giáo viên đọc mẫu đến khi tập đọc diễn cảm sẽ là biện pháp hướng dẫn đọc. Trong các bài soạn trước đây giáo viên chúng ta gần như đã bỏ qua biện pháp dạy học này, trong giáo án chỉ ghi một chữ “đọc” và sau ghi lên bảng chỉ là một thông báo biện pháp chứ chưa phải là dạy học bằng biện pháp đó. Nhưng trong giáo án mới thực hiện chương trình thay sách giáo khoa ngữ văn THCS, biện pháp đọc diễn cảm và hướng dẫn đọc sẽ được giáo viên thiết kế trong hoạt động “Đọc - Hiểu chú thích văn bản”. Đọc diễn cảm được xem như hình thức biểu hiện nghệ thuật. Đọc đúng là biểu hiện đúng hướng thâm nhập tác phẩm. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn đề cao hoạt động đọc kỹ văn bản và phần chú thích để nắm được nội dung ý nghĩa, từ đó học sinh chủ động tiếp cận văn bản.
 * Ví dụ khi dạy bài học “ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê ’’- Ngữ văn Lớp 7, tôi đã áp dụng vào bài dạy của mình
Thao tác 
 Hoạt động dạy 
 Hoạt động học 
 1
 2
 3
 4
 GV hỏi: Bài thơ “Hồi hương ngẫu thư” diễn tả cảm xúc của một con người con sau bao năm xa quê vừa đặt chân tới làng. Vậy theo con cần đọc bài thơ này với giọng điệu như thế nào?
Yêu cầu: Hãy đọc bài thơ bằng giọng điệu đó!
Ở bản phiên âm các dấu câu đòi hỏi cách ngắt nhịp như thế nào khi đọc?
Hãy đọc diễn cảm bài thơ “Hồi hương ngẫu thư” theo các yêu cầu trên.
 HS trả lời:
 Tình cảm
 Chậm rãi
 Sâu lắng
 HS đọc 
(Mỗi học sinh đọc một dạng văn bản)
- Ngắt nhịp 4/3 ở các câu 1, 2, 3.
- Ngắt nhịp 2/5 ở câu cuối.
Đọc
(Một học sinh đọc diễn cảm bản phiên âm của bài thơ)
 Đối với từng loại văn bản giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc để cảm nhận được nội dung và nghệ thuật của từng văn bản đó.
 Đọc văn bản bao giờ cũng gắn liền với tiếp nhận, nó mang đậm dấu ấn cá nhân người đọc trong những cảm xúc của mình về tác phẩm. Đọc không chỉ là việc phát âm thông thường mà là quá trình“ thức tỉnh cảm xúc”. Đối với từng loại văn bản giáo viên cần hướng dẫn đọc diễn cảm để cảm nhận được nội dung và nghệ thuật của loại văn bản đó. Cụ thể khi giảng dạy truyện dân gian tôi đã linh hoạt tổ chức cho các em đọc diễn cảm và hướng dẫn các em thao tác để kể diễn cảm đạt hiệu quả.
* Trích ngang thiết kế bài học “Lợn cưới, áo mới” – Ngữ Văn 6 
Thao tác 
 Hoạt động dạy 
 Hoạt động học 
 1 
 2 
GV Giảng: Lợn cưới áo mới là một chuyện kể dân gian mang ý nghĩa giễu cợt tật xấu. Ở đây tật khoe của được kể và tả qua hành động lời nói của nhân vật .
Hỏi: Từ nội dung trên khi đọc truyện này cần phải đọc như thế nào ? 
GV hỏi: Hãy kể truyện “Lợn cưới áo mới ” theo các yêu cầu đó 
 HS: Nghe 
HS: Trả lời dùng giọng kể để đọc.
- Giọng giễu cợt, mỉa mai.
- Nhấn mạnh những ngôn từ chỉ hành động và lời nói khác thường của nhân vật.
HS Kể lại chuyện “Lợn cưới áo mới ” 
bằng giọng mỉa mai, giễu cợt, hài hước...nhấn mạnh vào những ngôn từ chỉ hành động và lời nói khác thường của nhân vật.
Kể: 2 học sinh dùng giọng đọc để kể chuyện theo SGK.
b. Biện pháp đọc kết hợp với giảng và bình văn 
 Biện pháp giảng và bình văn vốn là công cụ chính của người thầy trong các giờ giảng văn truyền thống đã không còn đảm nhiệm chức năng thống soái trong các giờ học văn theo tinh thần đổi mới. Tuy nhiên giảng văn và bình văn vẫn nằm trong số các biện pháp dạy học tích cực trong hoạt động Đọc - Hiểu văn bản. Muốn hiểu sâu sắc tác phẩm văn chương cần phải tiến hành các thao tác tư duy cảm xúc đó là kỹ năng đọc kết hợp với giảng bình.
 Việc giảng giải để làm rõ hoặc mở rộng kiến thức khó trong văn bản cũng thể hiện sự cảm thụ sâu sắc tinh tế của thầy được áp dụng phát huy đúng lúc, đúng chỗ sẽ có tác dụng gây lòng tin và sự hứng thú thẩm mỹ cho học sinh trong khi đọc - hiểu văn bản đồng thời góp phần rèn kỹ năng cảm thụ văn chương, kỹ năng nghe những lời hay ý đẹp, từ đó làm nảy sinh nhu cầu viết văn của học sinh trong những bài tự luận văn học sau này. 
 Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng kỹ năng đọc kết hợp với giảng và bình văn một cách linh hoạt tùy theo kiểu văn bản. Sự tham gia của các lời giảng bình có thể cần rất ít trong khi hướng dẫn đọc - hiểu văn bản các truyện dân gian, các câu tục ngữ nhưng lại rất cần thiết và quan trọng trong khi hướng dẫn đọc - hiểu các văn bản tự sự hiện đại hoặc biểu cảm vì thế loại văn bản này phức tạp hơn so với năng lực tiếp nhận của học sinh. Nhưng trong trường hợp này lời giảng bình của giáo viên cũng chỉ giới hạn trong vai trò hướng dẫn chứ không làm thay, cảm thụ thay học sinh.
 Nghe giảng say sưa trước những lời bình văn sâu sắc của giáo viên không thể là cách tốt nhất của học sinh khi các em chủ thể tiếp nhân văn bản.
 Qua tiết dạy ngữ văn và tôi đã thiết kế bài học Đọc - Hiểu văn bản “Trong lòng mẹ”.
Trích ngang thiết kế bài học Tiết 5- 6 “Trong lòng mẹ”(Trích những ngày thơ ấu) Nguyên Hồng.
*Tình cảm của Hồng đối với mẹ.
Thao tác 
 Hoạt động dạy 
 Hoạt động học 
1
2 
3 
4 
5 
 6 
 Hỏi: Bằng giọng đọc diễn cảm, em hãy tái hiện phần văn bản kể về tình yêu thương mẹ của bé Hồng ? 
Hỏi: Hình ảnh người mẹ hiện lên qua những chi tiết nào trong văn bản ? 
Hỏi: Cách gọi mẹ tôi trong mọi chi tiết ấy có ý nghĩa gì ? 
Giảng: Cách gọi mẹ tôi liên tục trong đoạn văn trên cho người đọc thấy được hình ảnh người mẹ luôn in đậm trong trái tim của bé Hồng. Người mẹ là trung tâm của mọi sự cảm nhận của bé Hồng rất sâu nặng và không có gì có thể chia cắt được tình cảm thiêng liêng đó.
- Ở đây nhân vật người mẹ được kể qua cái nhìn và cảm xúc tràn ngập yêu thương của người con. Điều đó có tác dụng gì ? 
- Theo con bé Hồng đã có một người mẹ như thế nào ? 
GV bình 
Bé Hồng đã có một người mẹ khác hoàn toàn với lời dèm pha của người cô: 
- Không hề xa lạ (Vì mẹ đã trở về với con) 
- Không thay đổi mẹ vẫn ôm con vào lòng, vẫn lấy vạt áo nâu thấm nước mắt cho con.
- Không tiều tụy đói khổ gương mặt mẹ vẫn tươi sáng, đôi mắt trong, nước da mịn, hai gò má vẫn hồng. Mẹ vẫn đẹp đẽ sang trọng với hơi thở thơm tho ở khuôn miệng xinh xắn đang nhai trầu. Người mẹ thật đẹp đẽ, cao quý và kiêu hãnh đáng để bé Hồng tự hào.
 Một học sinh đọc diễn cảm 
Học sinh trả lời : 
“ Mẹ về một mình....
Mẹ tôi cầm nón.....
Mẹ không còm cõi xơ xác như lời cô tôi kể ...
Gương mặt mẹ tôi 
Hơi quần áo của mẹ tôi ....
=> Khẳng định đó là người mẹ của riêng bé Hồng.
- Thể hiện tình cảm mẹ con gắn bó sâu sắc.
 HS nghe 
HS: trả lời 
- Hình ảnh người mẹ hiện lên thật cụ thể gần gũi thân thương.
Lời giảng bình của giáo viên vừa đảm bảo yêu cầu định hướng tiếp nhận, vừa định hình kiến thức thông qua khả năng liên tưởng tích cực, làm nổi bật ý nghĩa sâu sa của văn bản làm sáng tỏ một yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Ví dụ trong bài “Lượm” - Ngữ văn 6 tập II khi phân tích xong đoạn thơ thứ 13 “Lượm ơi, còn không?” trước khi chuuyển đoạn, giáo viên dành ít phút để giảng bình; sau đoạn thơ xúc động miêu tả sự hi sinh anh dũng của Lượm, tác giả dành đúng một dòng thơ với hình thức câu hỏi tu từ thể hiện tâm trạng đau xót của mình. “Lượm ơi còn không?” câu thơ đồng thời là một tiếng kêu nghẹn ngào đau đớn, niềm cảm phục sâu sắc trước tấm gương một thiếu niên quên mình vì Tổ quốc. Lượm hi sinh, nhưng hình ảnh một chú bé liên lạc hồn nhiên nhí nhảnh và giàu lòng yêu nước đã trở nên bất tử.
 Hoặc dạy Đọc - Hiểu văn bản “Qua Đèo Ngang” Ngữ văn 7 – Tập I.
 Sau khi tìm hiểu hai câu thơ cuối giáo viên có thể bình:
 “Dừng chân đứng lại trời non nước
 Một mảnh tình riêng ta với ta”
 Nỗi niềm chất chứa ngày một thêm sâu nặng khiến nữ sĩ phải thốt lên phơi trải tấm lòng. Con người nhỏ bé bỗng sững lại trước một không gian rộng lớn, rợn ngợp (chỉ có trời - non nước) để nhận ra sự cô đơn của chính mình “ta với ta” là một mình đối diện với chính mình. Cả một cảnh ngộ, một tâm tư, một tấm lòng không biết chia sẻ cùng ai! Phải chăng đây là nét đặc trưng của nỗi buồn xưa, nỗi buồn trước cảnh non sông biến đổi, triều đại hưng phế nhưng tình riêng vẫn còn bất biến với chính mình. Hai câu thơ vừa kết thúc bài thơ vừa mở ra một chân trời cảm xúc mới. 
c. Biện pháp tổ chức các hoạt động học tập của học sinh trong giờ 
Đọc - Hiểu văn bản:
 Ở mỗi tiết dạy đọc hiểu văn bản giáo viên có thể tổ chức lớp học thành các nhóm học tập và phát phiếu học tập, yêu cầu các nhóm thảo luận về một vấn đề nào đó trong quá trình Đọc- Hiểu văn bản sẽ tạo được hứng thú cho học sinh. Một mặt hoạt động nhóm có thể khắc phục những khó khăn trong cảm thụ, suy nghĩ tình cảm của cá nhân về kiến thức văn bản, mặt khác rèn được kỹ năng nói trước tập thể lớp, rèn luyện sự tự tin trong học tập của các em học sinh.
 Biện pháp này có nhiều ưu điểm cần được vận dụng nhưng giáo viên cũng cần chú ý vì hoạt động nhóm chỉ phát huy được hiệu quả tích cực nếu sử dụng đúng lúc, đúng chỗ trong giờ Văn.
 Cảm thụ văn bản thuộc về khả năng của mỗi cá nhân học sinh, do vậy hoạt động cá nhân tự bộc lộ suy nghĩ là hình thức dạy học thường xuyên và hàng đầu. Chỉ những phạm vi kiến thức mang tính khái quát và những tình huống có vấn đề trong bài học vượt qua khả năng cá nhân cần tới mức tư duy tập thể thì hình thức hoạt động nhóm sẽ xuất hiện. Hình thức phiếu học tập và thảo luận nhóm cần được thiết kế ở phần đọc hiểu ý nghĩa văn bản ở cấp độ giữa dòng, nhất là vượt ra khỏi dòng để tiến tới các mục tiêu đọc hiểu văn bản sẽ cần tới sự nỗ lực cảm và hiểu không chỉ của cá nhân mà của cả lớp học.
Ví dụ: Thiết kế bài học “ Sau phút chia li ” 
Thao tác 
 Hoạt động dạy 
 ( Phiếu học tập) 
 Hoạt động học (Thảo luận nhóm) 
 1 
 2 
 3 
 Câu hỏi 1 : Em cảm nhận được trong văn bản “Sau phút chia ly” những nỗi niềm ly biệt nào ? 
 Câu hỏi 2: Theo em, có cách nào để giải thoát người chinh phụ khỏi nỗi sầu ly biệt này ? 
Câu hỏi 3: Ở đây nỗi niềm ly biệt được diễn tả sinh động, chân thực và truyền cảm nhờ những nét nghệ thuật nào em cho là đặc sắc nhất?
- Nỗi trống trải xót xa và buồn thương
- Nỗi oán giận chiến tranh
- Khát khao hạnh phúc lứa đôi 
-Không còn có những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
- Thể thơ song thất lục bát giàu nhạc điệu.
- Điệp ngữ.
- Đối.
- Dùng các hình ảnh để bộc lộ cảm xúc của lòng người.
2. Vận dụng hệ thống câu hỏi trong hoạt động dạy học “ Đọc - Hiểu văn bản”
 Chúng ta có nhiều hình thức hoạt động dạy học “ Đọc - Hiểu văn bản” . Giảng văn, bình văn cũng là đọc - hiểu, đọc diễn cảm văn bản cũng là đọc - hiểu như ở mức độ cảm tính. Còn đọc - hiểu ở mức độ sâu sắc, đối với người học sẽ là chiếm lĩnh văn bản bằng đối thoại, lấy câu hỏi do thầy thiết kế làm phương tiện. Đây là hình thức dạy học văn quan trọng hàng đầu, bởi hệ thống câu hỏi cảm thụ phân tích văn có khả năng khơi dậy năng lực cảm và hiểu văn theo nỗ lực và kinh nghiệm riêng của mỗi học sinh. Sự đa dạng hóa của hệ thống câu hỏi “Đọc - Hiểu văn bản” trong SGK Ngữ văn mới là minh chứng cho một quan niệm đúng đắn về bản chất “Đọc - Hiểu văn bản” ở môn ngữ văn. 
 Là giáo viên dứng lớp dạy môn ngữ văn theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, tôi nghĩ rằng hệ thống câu hỏi vô cùng quan trọng, những câu hỏi cảm thụ có khả năng khơi dậy năng lực cảm và hiểu tác phẩm của mỗi học sinh. Chính vì vậy hệ thống câu hỏi phải được thiết kế theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và tích hợp kiến thức, kĩ năng của môn học. Chẳng hạn trong mỗi tiết dạy tôi luôn cố gắng đưa ra những câu hỏi tạo cơ hội nhiều nhất cho học sinh được làm việc, được tự mình cùng bạn và thầy tiếp nhận tiếp nhận trực các kiểu, loại văn bản, cảm thụ văn bản một cách sáng tạo.
 Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học cần lưu ý đến việc đổi mới hệ thống câu hỏi. Hỏi là khơi dậy năng lực cảm hiểu văn bản của học sinh. Nhưng giáo viên chúng ta nắm vững sự khác nhau của các loại câu hỏi, các hình thức hỏi để học sinh khám phá được giá trị của văn bản, nhất là các văn bản nghệ thuật. Cần có các câu hỏi tư duy sáng tạo vượt lên hình thức hỏi phát hiện – tái hiện ( đọc trên dòng ) để đi sâu vào các câu hỏi sáng tạo (đọc giữa dòng và vượt ra khỏi dòng) kích thích năng lực cảm thụ văn chương của học sinh.Trong quá trình giảng dạy tôi luôn chú ý đến hình thức hỏi nêu vấn đề và lựa chọn kết luận có nhiều khả năng nhất trong việc khơi dậy “ Hoạt động tư duy bên trong của học sinh”.
 Ví dụ khi soạn giảng văn bản “ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê” Ngữ văn lớp 7 tập I, tôi đã đặt câu hỏi “ Tại sao tác giả trở về quê lại vừa mừng vừa ngậm ngùi ”. Đối với câu hỏi này học sinh cần phải tư duy để trả lời đó là mừng vì sau bao nhiêu năm xa cách nay nhà thơ mới có dịp trở về quê hương. Nhưng ngậm ngùi xót xa vì mình vốn là người ở đây mà khi trở về lại chẳng có ai nhận ra! Bọn trẻ đón nhà thơ như đón khách lạ! Khách lạ ngay giữa quê hương của mình. Dù rằng biết đó là quy luật tự nhiên của thời gian trôi chảy, những người bạn cùng trang lứa với nhà thơ chắc đều đã quy tiên cả rồi. Nhưng trong đáy lòng ông, vẫn nhói lên nỗi tủi buồn vì tình yêu, nỗi nhớ quê hương tích tụ, dồn nén trong trái tim nhà thơ đã hơn nửa thế kỷ, mà đâu ngờ lại được đền đáp như thế này ư? 
 Gặp nhau mà chẳng biết nhau 
 Hỏi rằng : Khách ở chốn nào lại chơi ? 
 Khi soạn giáo án để có được hệ thống câu hỏi đáp ứng được yêu cầu nhận biết, vận dụng, sáng tạo là rất khó chứ không dễ dàng gì. Có điều khả năng chiếm lĩnh tác phẩm không chỉ ở bản thân câu hỏi mà phụ thuộc vào cách thiết kế câu hỏi và vận dụng của người giáo viên hư thế nào cho thật nhiệu quả. Đối với câu hỏi sáng tạo, nêu vấn đề không phải áp dụng thế nào cũng được mà phải căn cứ vào tình hình thực tế của học sinh trong lớp mình giảng dạy, cụ thể đối với học sinh ở trường tôi đang giảng dạy tỷ lệ học sinh khá giỏi chưa cao vì thế mà một tiết dạy giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi này thì học sinh sẽ không cảm thụ được tất cả và dẫn đến các em rất trầm, không hào hứng phát bi

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nhung_phuong_phap_day_doc_hieu_van_ban.doc