Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao năng lực tự học cho học sinh Lớp 3 trong mô hình dạy học VNEN

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao năng lực tự học cho học sinh Lớp 3 trong mô hình dạy học VNEN

Dù trong bất kỳ hoàn cảnh, sự kiện nào của đời sống hàng ngày, luôn có những điều mới mẻ bổ sung vào vốn kiến thức đã có. Chính vì vậy, tự học là việc đi liền với quá trình phát triển và đạt tới sự thành công của mỗi con người. Theo tôi “Dạy học không chỉ đơn thuần là đưa ra kiến thức cho học sinh mà điều thực sự quan trọng là cung cấp cho học sinh phương pháp tự học, để học sinh không chỉ đạt kết quả tốt tại một thời điểm mà luôn có tâm thế cho việc trau dồi và tìm hiểu kiến thức phục vụ cho đời sống hiện tại và công việc sau này”. Xuất phát từ suy nghĩ trên, tôi cố gắng đưa vào bài học nhiều hình thức học tập khác nhau để khuyến khích và phát huy khả năng tự học của học sinh. Trong ba năm gần đây, một hình thức học tập mới tôi đã cố gắng đưa vào trong các môn Toán; Tiếng Việt, Tự nhiên và xã hội cho học sinh lớp 3, đó là để học sinh phát huy tối đa kỹ năng tự học của mỗi cá nhân, mỗi nhóm, thực hiện những dự án nhỏ phù hợp với từng chủ đề môn học, giúp học sinh vận dụng kĩ năng tự học và các kĩ năng mềm khác. Mỗi dự án nhỏ kéo dài trong một tuần, trong đó, các nhóm sẽ chuẩn bị nội dung, chia sẻ với các bạn trong lớp về các chủ đề ở các môn như: Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội. Các công việc chi tiết đều được thảo luận, lập kế hoạch bởi các thành viên trong nhóm; nhóm trưởng sẽ điều phối dưới sự hỗ trợ của giáo viên. Không những thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau như sách báo, internet, các nhóm còn tiến hành phỏng vấn thầy cô bộ môn để trình bày đề tài phong phú hơn. Một số học sinh khối lớp 3 chia sẻ “ Con thấy khả năng tự học của mình được nâng cao, vừa biết được kiến thức rộng hơn vừa hiểu sâu hơn sau khi nghe phần trình bày của các bạn và phần tổng kết của cô”. Được khuyến khích tự do lựa chọn những chủ đề, hình thức khác nhau, sản phẩm dự án đã thể hiện rõ tính sáng tạo của học sinh. Các bản tin đều sinh động, dí dỏm mang lại những điều bất ngờ thú vị cho cô giáo và các bạn trong lớp. Với hoạt động này, học sinh được làm chủ kiến thức, tự thể hiện những kiến thức về các môn học dưới ngôn ngữ và phương pháp của mình. Em Bích Ngọc lớp 3B chia sẻ: “ Qua cách học tập này con thấy mình tự khám phá được nhiều kiến thức, khả năng tiếp nhận thông tin và quản lý nhóm của con ngày càng hoàn thiện hơn”. Với phương châm người học chính là người tự chủ, chủ động trong việc tích lũy kiến thức, tôi cố gắng định hướng và khuyến khích học sinh rèn luyện tinh thần tự học, tự trau dồi. Làm được việc này chính là chúng ta đã dần dần cung cấp và hình thành cho HS những giá trị bền vững, giúp các em thành công trong tương lai.

doc 19 trang hoathepmc36 28/02/2022 33104
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao năng lực tự học cho học sinh Lớp 3 trong mô hình dạy học VNEN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
	MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Mục
Tên đề mục
Trang
1.
Lý do chọn đề tài
2
2.
Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3
3.
Đối tượng nghiên cứu
3
4.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
3
5.
Phương pháp nghiên cứu
3
PHẦN II: NỘI DUNG
Mục
Tên đề mục
Trang
1.
Cơ sở lí luận
3,4
2.
Thực trạng
5,6
3.
Giải pháp, biện pháp
7
PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Mục
Tên đề mục
Trang
1.
Kết luận
17
2.
Kiến nghị
18
	I. MỞ ĐẦU
	1. Lí do chọn đề tài
Bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh là một nhiệm vụ quan trọng, không thể thiếu được của người giáo viên. Nếu không thực hiện tốt nhiệm vụ này, có thể nói người giáo viên chưa hoàn thành được sứ mệnh cao cả của mình là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo đối với HS.
	Trước đây, trong thực tiễn của giáo dục và dạy học ở các nhà trường nói chung và cấp tiểu học nói riêng. Học sinh chịu áp lực rất lớn của nhiều yếu tố. Đó là áp lực của bệnh thành tích, của việc thi cử, của sự học dưới nhiều hình thức khiến cho các em khó có thể phát triển được hứng thú trong học tập. Chỉ khi nào người học không chịu áp lực, được thoải mái, vui vẻ, có nhu cầu cao trong tìm tòi, khám phá thì khi đó hứng thú học tập mới thực sự đựoc phát triển. Trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn và của gia đình là tạo cho học sinh có thật nhiều cơ hội được học tập, trải nghiệm một cách tự nhiên, thoải mái, không bị gò bó với nhiều hình thức, biện pháp học tập đa dạng phát huy tính tích cực nhận thức trong học tập của các em. 
	Trên cơ sở giúp học sinh nắm vững nội dung kiến thức cơ bản của bài học, môn học, giáo viên sẽ tạo cho các em có điều kiện, khả năng tự học một cách cụ thể. Với quan điểm của lý luận dạy học hiện đại, dạy học là khơi gợi, thắp sáng ở HS những tri thức, niềm tin, sự sáng tạo thì trong quá trình dạy học, giáo viên phải loại bỏ kiểu dạy áp đặt, nhồi nhét kiến thức, thuyết giảng một chiều. Học sinh nắm vững, hiểu rõ nội dung kiến thức cơ bản, cốt lõi của bài học, môn học là nền tảng để các em tiếp tục đi sâu, tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá sự sâu sắc, sinh động của bài học; đặc biệt là sự vận dụng các kiến thức của bài học, môn học trong thực tiễn. 
	Trong dạy học hiện đại, vai trò của giáo viên là cực kỳ quan trọng, quyết định đến chất lượng dạy học nhưng như thế không có nghĩa là giáo viên làm thay học sinh. Theo đó, giáo viên chỉ là người thiết kế, tổ chức, điều khiển, hướng dẫn quá trình học tập của học sinh. Trong quá trình học tập của học sinh , đặc biệt là khi học ở nhà, việc giáo viên hướng dẫn học sinh tự học, biết cách học là quan trọng nhất. Học thuộc lòng theo kiểu học vẹt, thiên về ghi nhớ không còn phù hợp. Học ở lớp cũng như học ở nhà, học sinh phải biết cách học để nắm và hiểu được nội dung cơ bản của bài học, môn học.
	Do đó, là một giáo viên đứng lớp và cũng là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn trăn trở và tự nhủ mình nên làm gì đây để học sinh có khả năng tự học, tự có ý thức tìm tòi, khám phá, tự chiếm lĩnh được kiến thức một cách hứng thú là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của người giáo viên. Để điều này tiến hành một cách chu đáo, có kế hoạch, phương pháp thích hợp và mang lại hiệu quả cao nhất. Nhằm xây dựng cho mỗi cá nhân học sinh khả năng tự học và mang tính chất giáo dục toàn diện, phát huy khả năng tự quản, tự giác, tích cực, sáng tạo của học sinh dưới sự chỉ đạo thống nhất về chương trình học. 
Vậy trước tình hình đổi mới không ngừng, liên tục của đất nước và của thế giới về giáo dục với việc đào tạo ra những con người lao động sáng tạo, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước – có cả đức lẫn tài. Vì vấn đề phát huy tính tích cực, tự giác, tự học cho học sinh là một trong các phương hướng góp phần cải cách giáo dục. 
	Vì thế tôi đã chọn đề tài: Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong Mô hình dạy học VNEN.
	2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
	a. Mục tiêu
	Đánh giá thực trạng về năng lực tự học của học sinh ở lớp cũng như ở nhà. Thông qua đó đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh một cách có hiệu quả.
	b. Nhiệm vụ của của đề tài
	Tìm hiểu thực trạng về năng lực tự học của học sinh ở lớp cũng như ở nhà. Phân tích nguyên nhân, tìm ra những vấn đề liên quan đến về năng lực tự học của học sinh. Từ đó đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3. 
 	3. Đối tượng nghiên cứu
 	Bồi dưỡng và phát huy năng lực tự học cho học sinh khối lớp 3 
 	4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
	Học sinh lớp 3A năm học 2015 – 2016; lớp 3A năm học 2016 – 2017; lớp 3B năm học 2017 - 2018 tại trường TH Lý Tự Trọng.
	5. Phương pháp nghiên cứu
	- Phương pháp quan sát
	- Phương pháp điều tra
	- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. 
	- Phương pháp thử nghiệm.
	II. NỘI DUNG
 	1. Cơ sở lí luận để thực hiện đề tài
	Những năm gần đây nền kinh tế của nước ta có nhiều sự thay đổi nhưng Đảng và nhà nước vẫn đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, để đảm bảo chất lượng dạy và học. Một trong những tư tưởng đổi mới GD& ĐT hiện nay là tăng cường rèn luyện các kĩ năng cho học sinh trong đó có kĩ năng tự học. Trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Luật giáo dục  đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân( Điều 23-Luật giáo dục).
	Tự học hiểu theo đúng bản chất là tự mình động não, suy nghĩ, sử  dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (sử  dụng các phương tiện) cùng các phẩm chất, cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê để  chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
	Tự học là một xu thế tất yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là quá trình biến người học từ khách thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo dục). Tự học giúp nâng cao kết quả học tập của học sinh và chất lượng giáo dục của nhà trường, là biểu hiện cụ thể của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các trường tiểu học. 
	Dù trong bất kỳ hoàn cảnh, sự kiện nào của đời sống hàng ngày, luôn có những điều mới mẻ bổ sung vào vốn kiến thức đã có. Chính vì vậy, tự học là việc đi liền với quá trình phát triển và đạt tới sự thành công của mỗi con người. Theo tôi “Dạy học không chỉ đơn thuần là đưa ra kiến thức cho học sinh mà điều thực sự quan trọng là cung cấp cho học sinh phương pháp tự học, để học sinh không chỉ đạt kết quả tốt tại một thời điểm mà luôn có tâm thế cho việc trau dồi và tìm hiểu kiến thức phục vụ cho đời sống hiện tại và công việc sau này”. Xuất phát từ suy nghĩ trên, tôi cố gắng đưa vào bài học nhiều hình thức học tập khác nhau để khuyến khích và phát huy khả năng tự học của học sinh. Trong ba năm gần đây, một hình thức học tập mới tôi đã cố gắng đưa vào trong các môn Toán; Tiếng Việt, Tự nhiên và xã hội cho học sinh lớp 3, đó là để học sinh phát huy tối đa kỹ năng tự học của mỗi cá nhân, mỗi nhóm, thực hiện những dự án nhỏ phù hợp với từng chủ đề môn học, giúp học sinh vận dụng kĩ năng tự học và các kĩ năng mềm khác. Mỗi dự án nhỏ kéo dài trong một tuần, trong đó, các nhóm sẽ chuẩn bị nội dung, chia sẻ với các bạn trong lớp về các chủ đề ở các môn như: Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội. Các công việc chi tiết đều được thảo luận, lập kế hoạch bởi các thành viên trong nhóm; nhóm trưởng sẽ điều phối dưới sự hỗ trợ của giáo viên. Không những thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau như sách báo, internet, các nhóm còn tiến hành phỏng vấn thầy cô bộ môn để trình bày đề tài phong phú hơn. Một số học sinh khối lớp 3 chia sẻ “ Con thấy khả năng tự học của mình được nâng cao, vừa biết được kiến thức rộng hơn vừa hiểu sâu hơn sau khi nghe phần trình bày của các bạn và phần tổng kết của cô”. Được khuyến khích tự do lựa chọn những chủ đề, hình thức khác nhau, sản phẩm dự án đã thể hiện rõ tính sáng tạo của học sinh. Các bản tin đều sinh động, dí dỏm mang lại những điều bất ngờ thú vị cho cô giáo và các bạn trong lớp. Với hoạt động này, học sinh được làm chủ kiến thức, tự thể hiện những kiến thức về các môn học dưới ngôn ngữ và phương pháp của mình. Em Bích Ngọc lớp 3B chia sẻ: “ Qua cách học tập này con thấy mình tự khám phá được nhiều kiến thức, khả năng tiếp nhận thông tin và quản lý nhóm của con ngày càng hoàn thiện hơn”. Với phương châm người học chính là người tự chủ, chủ động trong việc tích lũy kiến thức, tôi cố gắng định hướng và khuyến khích học sinh rèn luyện tinh thần tự học, tự trau dồi. Làm được việc này chính là chúng ta đã dần dần cung cấp và hình thành cho HS những giá trị bền vững, giúp các em thành công trong tương lai.
	2. Thực trạng 
	Là giáo viên trực tiếp giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm trong nhiều năm qua, bản thân tôi nhận thấy rằng: Sản phẩm giáo dục mà chúng ta tạo ra không thấy trước mắt như bao sản phẩm của các ngành nghề khác. Đặc biệt là sự hình thành năng lực tự học của học sinh không phải một ngày, một buổi là có được mà phải trải qua một thời gian dài rèn luyện, cho nên để đảm nhận công việc này chúng ta phải thật sự kiên trì, nhẫn nại, chịu khó và phải tốn nhiều thời gian công sức để tìm hiểu. lắng nghe tâm tư nguyện vọng của từng đối tượng học sinh trong lớp. Bình tĩnh, nhẫn nại trước những tình huống xảy ra trong cũng như ngoài lớp học. Từ đó đề ra kế hoạch, phương pháp giáo dục thích hợp cho từng trường hợp đặc biệt bằng cả tấm lòng yêu thương, nhân ái, bao dung của người thầy.
	Đầu năm 2015 - 2016, tôi được ban Lãnh đạo nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 3A, năm học 2016 – 2017 chủ nhiệm lớp 3C, năm học 2017 – 2018 chủ nhiệm lớp 3B. Dù 3 lớp khác nhau nhưng khi tiếp nhận tôi đều gặp những thuận lợi và khó khăn chung như sau:
	 a. Thuận lợi
	- Trường đã và đang thực hiện dạy và học theo Mô hình mới VNEN. Đây là một thuận lợi lớn đối với bản thân tôi và kể cả học sinh trong quá trình rèn luyện ý thức tự giác, năng lực tự học cho HS.
	- Hầu hết học sinh có ý thức tốt trong học tập. Tích cực tham gia các phong trào của lớp. Hầu hết các em có những kĩ năng cơ bản trong họat động nhóm như: kĩ năng lãnh đạo nhóm, kĩ năng hợp tác; giải quyết tình huống,....
	- Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, ban lãnh đạo nhà trường, đội ngũ giáo viên bộ môn có chuyên môn vững, nhiệt tình trong giảng dạy.
	- Được sự nhiệt tình phối hợp chặt chẽ giữa các cha mẹ học sinh cũng như các đoàn thể cộng đồng trong và ngoài nhà trường với giáo viên chủ nhiệm lớp.
	- Luôn có ý thức tự trau dồi, luôn cố gắng phát huy vai trò là người cố vấn cho học sinh trong mọi thời điểm dù cho đó là ở lớp hay ở nhà. Cố gắng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Vì vốn các em thích học theo người lớn đặc biệt đó là thầy cô giáo của các em, thích bắt chước nên trong tư duy các em cũng có những suy luận nhất định. Các em sẽ phân vân, nghi ngờ khi người thầy nói lý thuyết suông mà không thực hành. Nên chính vì thế bản thân giáo viên cũng phải cho HS thấy mặc dù đã là giáo viên, đã là cô giáo nhưng cô cũng vẫn đang tích cực rèn luyện, tích cực tự học và khám phá những điều mới mẻ xung quanh. Làm đựoc như thế vừa là tấm gương cho HS noi theo cũng là để tích lũy thêm vốn hiểu biết cho bản thân nhằm phục vụ cho công tác dạy và học. 
	- Tìm kiếm, trao đổi kinh nghiệm với các bạn đồng nghiệp, xây dựng nên phương pháp giáo dục thích hợp, kịp thời động viên khuyến khích khi các em tự khám phá ra những điều mới mẻ cho dù là nhỏ nhất. Việc khuyến khích, động viên kịp thời nhằm giúp các em có động lực phấn đấu, xác định được mục đích của việc đến trường là để học và hiểu được “vì sao cần phải học, học để làm gì ?” 
	b. Khó khăn
	Mặc dù các em đã được học tập, trải nghiệm, làm quen Mô hình trường học mới nhưng một số em vẫn còn rất rụt rè, thiếu chủ động, tự tin , chưa có năng lực tự giải quyết các tình huống có vấn đề, chưa có khả năng tự học, chưa phát huy hết vai trò của tất cả thành viên trong các nhóm học tập theo Mô hình trường học mới VNen. 
	Một số học sinh có biểu hiện ỷ lại, ý thức tự giác chưa cao vì các em chưa được hình thói quen tự học ngay từ bé. Mặc khác do nhiều yếu tố tác động khác nhau như: ở nhà bố mẹ không tạo điều kiện cho con tự học mà hay cho xem phim hoạt hình, cha mẹ dành phần lớn thời gian để kiếm tiền nên không có thời gian quan tâm chăm sóc con cái, gia đình có kinh tế không ổn định, sự quan tâm đến việc học của con còn hạn chế, nhiều phụ huynh dành sự quan tâm đến con cái chưa phù hợp, không phải phụ huynh nào cũng sẵn sàng hợp tác với giáo viên nên giáo viên khó thỏa thuận, khó liên hệ với gia đình để phối hợp giáo dục. Dẫn đến kết quả học tập – năng lực tự học ở lớp cũng như ở nhà của một số em vẫn còn hạn chế.
	Hơn nữa, trong xu thế phổ cập học sinh trong lứa tuổi này được xã hội ưu ái nên các em thường có nhiều yêu sách với giáo viên khi không hoàn thành nhiệm vụ học tập. Còn nhiều em kiến thức cơ bản chưa hoàn thành, nói gì đến những kiến thức xung quanh cần khám phá để phục vụ cho đời sống hiện tại, cho tương lại.
	Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã nâng cao chất lượng cuộc sống, nhưng các em hay bị cuốn hút theo những trò chơi không có lợi, làm lãng phí thời gian khi ở nhà mà không biết cách tìm tòi, khám phá những kiến thức rất bổ ích qua phương tiện hiện đại để tích lũy cho bản thân
	Nếu giáo viên từ chối lắng nghe học sinh bày tỏ cho dù đó là môi truờng trong lớp học hay ngoài lớp học thì chắc chắn trong lớp vẫn còn những học sinh có biểu hiện thiếu hứng thú, thiếu tích cực tìm tòi khám phá trong quá trình tự học.
 	Hình thành ý thức tự học cho học sinh là một công tác khó khăn, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian, công sức cho công tác này, nhưng thực tế giáo viên chưa có nhiều thời gian đầu tư.
Một số giáo viên bộ môn không cùng quan điểm nên gặp khó khăn trong xử lí một số tình huống giáo dục học sinh. Ở lớp một số thầy cô có thói quen làm thay cho học sinh.
	c. Kết quả khảo sát 
	Theo kết quả khảo sát của HS lớp 3B, trường TH Lý Tự Trọng năm học 2017 – 2018 nêu lên thực trạng về hoạt động tự học của học sinh có 81,8 % HS chọn hình thức học một mình, 33,3 % HS chọn nhóm bạn để cùng học tập và chỉ có 6.1 % HS chọn hình thức học với người thân. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, về kỹ năng tự học, có khoảng 27, 2 % - 54,5 % HS còn lúng túng khi sử dụng các kỹ năng tự học. Mức độ sử dụng thành thạo các kỹ năng tự học của HS còn quá thấp ( chỉ từ 6,1 – 12,1 %).
	Về ý kiến của GV bộ môn đối với thời gian tự học của HS, có khoảng 34,8 % - 38,9 % ý kiến GV cho rằng HS chỉ tự học một ngày từ 1 giờ đến 2 giờ và có 6,5 % - 15,7% ý kiến GVcho rằng HS tự học 3 giờ và trên 3 giờ mỗi ngày. Ý kiến của các HS về thời gian tự học cũng tương đối tương tự với các ý kiến của các GV về vấn đề này khi có  24,2% - 45,1% cho rằng các em chỉ tự học từ 1 giờ đến 2 giờ trong một ngày và có 9,1 % - 15, 2 % HS cho biết đã tự học 3 giờ và trên 3 giờ mỗi ngày.
	Qua kết quả khảo sát, có thể thấy rằng thực trạng về hoạt động tự học của HS vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Theo kết quả trên, tỉ lệ HS tự học từ 1 đến 2 giờ chiếm khá cao. Bên cạnh đó, nhiều HS vẫn còn lúng túng khi sử dụng các kỹ năng tự học. Nguyên nhân một phần là do các em chưa có ý thức tự giác trong quá trình học tập, một phần khác là do các em chưa được định hướng một cách cụ thể trong hoạt động tự học của bản thân. Do vậy, vai trò của người GV trong việc phát triển kỹ năng tự học của HS nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học là hết sức quan trọng.
	3. Giải pháp, biện pháp 
	a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
	Những giải pháp được nêu trong đề tài đã giúp tôi có nhiều kinh nghiệm, phương pháp, biện pháp để nâng cao năng lực tự học cho HS. Khi vận dụng biện pháp này, tôi thấy kĩ năng, năng lực tự học của học sinh được nâng lên rõ rệt.
	b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp và biện pháp
	 b.1. Tạo động lực và hứng thú để phát triển kỹ năng tự học cho HS
	Muốn học sinh có ý thức tự học thì trước hết các em phải yêu thích môn học đó. Vì vậy cần tạo cho HS niềm say mê môn học. Tôi đã dùng tiết dạy để giới thiệu về môn học, về những giá trị của môn học trong thực tiễn bằng những ví dụ minh họa cụ thể nhằm kích thích động cơ học tập ở các em. Trong quá trình dạy học, tôi đã lồng ghép một số kiến thức các môn học một cách tự nhiên ở hoạt động khởi động hoặc hoạt động kết thúc tiết học. Ví dụ: Ở môn Tự nhiên & Xã hội, có thể làm được điều này thông qua cách đặt vấn đề bằng những câu chuyện hay đơn giản chỉ là những câu hỏi thú vị như: Tại sao nước làm tắt lửa ?; Tại sao đồng hồ chạy từ trái sang phải? Câu hỏi vừa đặt ra tưởng chừng rất đơn giản nhưng để trả lời được câu hỏi này đòi hỏi HS  cần phải có những hiểu biết nhất định. Hay như câu hỏi: “Băng phẳng và băng mấp mô, thứ nào trơn hơn? ”. Trên thực tế, đa số HS khi được hỏi thường trả lời là băng phẳng trơn hơn, nhưng sự thật lại không phải như vậy. Đó chính là điểm hấp dẫn, thú vị khi giáo viên đưa ra câu trả lời và giải thích.
 Hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ ban đầu. Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, tôi không dạy ngay mà giới thiệu sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát nhất để khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh và từ đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù hợp. GV phải làm cho HS hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể và HS hoàn toàn có thể phấn đấu thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế hoạch thời gian được xây dựng chi tiết. Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy mỗi chủ đề, tôi đã cung cấp cho HS nội dung và thời gian học và kiểm tra để HS nắm rõ. Đồng thời, có thể cho HS đánh dấu vào trong sách bài nào học ngày nào, đến tiết nào sẽ kiểm tra. Muốn HS tự xây dựng kế hoạch học tập thì GV phải là người cung cấp đầy đủ kế hoach dạy và học của các môn học.
 	Hướng dẫn cho HS cách tìm và đọc sách hoặc tài liệu liên quan đến môn học. GV cần nhấn mạnh cho HS thấy rằng, kiến thức môn học không chỉ gói gọn trong nội dung Sách HD, trong bài giảng của cô mà đến từ nhiều nguồn khác nhau. Do đó, tôi đã tìm hiểu và giới thiệu cho HS những cuốn sách hay, những tài liệu bổ ích liên quan đến môn học như: Hàng vạn câu hỏi vì sao ? Cây ơi bạn đến từ đâu ? Những bài toán vui; Người dân tộc Khơ- mú sống như thế nào ?........ và khuyến khích các em tự tìm kiếm, tự phân tích và tổng hợp kiến thức. GV cũng có thể giới thiệu địa chỉ một số trang web, hoặc các trang diễn đàn trao đổi kinh nghiệm học tập để HS tham khảo thêm. Ví dụ: Để được tư vấn trực tiếp về các phương pháp tự học hãy truy cập vào website: hanoiacademy.com.vn hoặc gọi vào hotline: 0986.94.0909 để được giúp đỡ hoặc tìm kiếm những thông tin hữu ích khác qua mạng Inrnet của trường hoặc tại gia đình.
 Dạy cho HS cách ghi chép và nghe giảng vì đây là những kỹ năng học tập vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập của HS. Dù được học ở bất kì chương trình nào, cấp học nào đi nữa thì khi các em đã có đủ khả năng ghi chép thì hãy rèn luyện cho các em ghi chép lại một vài điều cảm thấy bổ ích, thích thú đối với bản thân qua các giờ học. Điều này phải được thực hiện một cách tự nguyện nhờ vào quá trình rèn luyện của GV. Trình độ nghe và ghi chép của học sinh ở mỗi môn học khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào đặc thù của từng môn học và phương pháp giảng dạy của từng giáo viên. Vì thế tôi đã phối hợp với các giáo viên bộ môn để rèn cho HS kĩ năng này. Khi học tập HS thường mang lối học thụ động, quen tách việc nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí nhiều HS chỉ chờ GV đọc mới có thể ghi chép được nội dung bài học, nếu ngược lại thì bỏ trống vở. Điều này khiến HS có tâm lí ức chế, ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức. Để khắc phục vấn đề này, tôi xây dựng cho HS thói quen ghi chép, bên cạnh nội dung của bài học có chừa khoảng trắng cho HS ghi chép hoặc ghi vào sổ tay những vấn đề mà GV mở rộng hoặc những điều các em thấy thích thú trong giờ học. Đối với các vấn đề mà HS còn chưa rõ, có thể đánh dấu để hỏi lại GV hoặc tìm hiểu thêm. Rèn luyện cho HS cách ghi chép nhanh bằng các hình 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_nang_luc_tu_hoc_cho_hoc_sinh.doc