Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn 9 bằng dạy học tích hợp và đổi mới phương phá

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn 9 bằng dạy học tích hợp và đổi mới phương phá

Tích hợp là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực khoa học giáo dục (GD), khái niệm tích hợp xuất hiện từ thời kì khai sáng, dùng để chỉ một quan niệm GD toàn diện con người, chống lại hiện tượng làm cho con người phát triển thiếu hài hòa, cân đối. Tích hợp còn có nghĩa là thành lập một loại hình nhà trường mới, bao gồm các thuộc tính trội của các loại hình nhà trường vốn có.

Trong dạy học (DH) các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau (Theo cách hiểu truyền thống từ trước tới nay) thành một “môn học” mới hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết vào những nội dung vốn có của môn học, ví dụ: lồng ghép nội dung GD dân số, GD môi trường, GD an toàn giao thông trong các môn học Đạo đức, Tiếng Việt hay Tự nhiên và xã hội xây dựng môn học tích hợp từ các môn học truyền thống.

Tích hợp là một trong những quan điểm GD đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung DH trong nhà trường phổ thông và trong xây dựng chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới. Quan điểm tích hợp được xây dựng trên cơ sở những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình DH.

 

doc 33 trang cuonglanz2a 13393
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn 9 bằng dạy học tích hợp và đổi mới phương phá", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN 
 Để hoàn thành Sáng kiến kinh nghiệm “ Nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn 9 bằng dạy học tích hợp và đổi mới phương pháp”
 tôi đã thường xuyên nhận được sự giúp đỡ của các đồng chí đồng nghiệp trong trường, đặc biệt là sự tạo điều kiện giúp đỡ của các đồng chí trong Ban giám hiệu trường PTDT Nội Trú THCS & THPT Bắc Hà đã giúp tôi hoàn thành Sáng kiến kinh nghiệm này.
Tôi xin được bày tỏ sự biết ơn và gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới các đồng chí trong ban giám hiệu, các đồng chí đồng nghiệp
Do năng lực của người nghiên cứu có hạn nên SKKN chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các đồng chí và bè bạn đồng nghiệp.
 Xin chân thành cảm ơn !
MỤC LỤC
Nội dung Trang
1. Lí do chọn đề tài 3 
2. Nội dung SKKN 5
3. Cơ sở lý luận của vấn đề 5
4. Thực trạng của chất lượng học tập môn Ngữ văn 9 6
5. Phương pháp dạy học “ Nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn 9 bằng dạy học tích hợp và đổi mới phương pháp” 7
5. Kết quả thu được 	 29 
6. Kết luận 29
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Như chúng ta đã biết nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục trong thời kì đổi mới là nhằm xây dựng, đào tạo những con người, những thế hệ có năng lực tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Phát huy tiềm năng dân tộc và tính tích cực cá nhân làm chủ tri thức, có kĩ năng thực hành giỏi, có tư duy sáng tạo, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức, tính kỉ luật, sức khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
 Để đạt được nhiệm vụ trên thì giáo dục phải được coi là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò quan trọng nhất. 
 Với nhà trường phổ thông ngoài việc trang bị cho học sinh những tri thức, phẩm chất của người lao động mới còn phải trang bị cho các em tình yêu thương, tinh thần hợp tác, đoàn kết và lòng nhân ái. Trong đó việc trang bị cho HS những tri thức khoa học cũng là một nhiệm vụ cơ bản vì tri thức là chìa khóa mở cửa cho tất cả các bộ môn khoa học. 
 Mỗi môn học trong nhà trường đều có đặc thù riêng, một phương pháp nhận thức. Đặc điểm bộ môn và phương pháp nhận thức có nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tìm tòi và thiết kế những giải pháp dạy và học bộ môn. 
 Đối với môn Ngữ văn: Là một môn học có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà trường THCS. Góp phần hình thành con người có ý thức tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu cái ác. Bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
 Với các môn học nói chung và môn ngữ văn nói riêng đổi mới dạy học đã trở thành vấn đề cấp thiết và điểm mấu chốt của ngữ văn tập chung trong hai chữ “Tích” : tích hợp và tích cực. Có “tích cực” mới phát huy tốt tính chất tích hợp, qua tích hợp học sinh càng tích cực hơn. Trong cả ba phân môn của ngữ văn: Văn- Tiếng Việt – Tập làm văn. Tích hợp không phải là vấn đề khó, nhưng cũng không hề đơn giản. Nếu người thầy giáo không thực sự chú ý đến hệ thống câu hỏi tích hợp và hệ thống câu hỏi lại đặc biệt cần thiết với phần giảng văn. Bởi cái cốt lõi để người giáo viên có thể hướng dẫn, cùng học sinh tìm hiểu văn bản, cảm nhận được văn bản một phần chủ yếu là thông qua hệ thống câu hỏi. 
Để hệ thống câu hỏi phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh lại 
cần có tính tích hợp. Vấn đề nghe có vẻ rắc rối nhưng cũng thật dễ hiểu khi bắt tay vào việc. Nếu trong giờ giảng văn người thầy chú ý tích hợp thì học sinh sẽ chú ý đến mọi mặt của vấn đề hơn, các em phát huy mạnh mẽ hơn nữa tư duy của mình. Khi học văn còn phải liên hệ với Tiếng việt, với Tập làm văn, không chỉ có thế còn phải liên hệ chính phần giảng văn trong toàn bộ chương trình đã học với nhau mà rộng hơn là liên hệ giữa văn với kiến thức của các môn học khác như : Sinh, Sử, Địa, GDCD, Ngoại ngữ và tất nhiên để có thể trả lời tốt những câu hỏi tích hợp của thầy, học sinh không thể không “động não”, không thể không nghiên cứu kỹ càng khi soạn bài, luôn chú ý tới mối quan hệ giữa bài học này với bài học kia, môn học này với môn học khác. Nhờ vậy cũng hình thành cho các em khả năng tư duy tích hợp trong tình huống, trong cuộc sống hàng ngày. Thấy rõ tầm quan trọng của hệ thống câu hỏi “Tích hợp” trong giảng dạy ngữ văn, ngay từ đầu năm học được phân công giảng dạy ngữ văn 6, bản thân tôi đã chú đến hệ thống câu hỏi “Tích hợp” ở cả 3 phần: Văn – Tiếng việt – Tập làm văn, đặc biệt chú ý đến hệ thống câu hỏi tích hợp ở phần giảng văn. 
 Qua nghiên cứu tài liệu và thực tế giảng dạy tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm: “ Nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn lớp 9 bằng dạy học tích hợp và đổi mới phương pháp”
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề:
2.1.1. Tích hợp là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực khoa học giáo dục (GD), khái niệm tích hợp xuất hiện từ thời kì khai sáng, dùng để chỉ một quan niệm GD toàn diện con người, chống lại hiện tượng làm cho con người phát triển thiếu hài hòa, cân đối. Tích hợp còn có nghĩa là thành lập một loại hình nhà trường mới, bao gồm các thuộc tính trội  của các loại hình nhà trường vốn có.
Trong dạy học (DH) các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau (Theo cách hiểu truyền thống từ trước tới nay) thành một “môn học” mới hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết vào những nội dung vốn có của môn học, ví dụ: lồng ghép nội dung GD dân số, GD môi trường, GD an toàn giao thông trong các môn học Đạo đức, Tiếng Việt  hay Tự nhiên và xã hội xây dựng môn học tích hợp từ các môn học truyền thống.
Tích hợp là một trong những quan điểm GD đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung DH trong nhà trường phổ thông và trong xây dựng chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới. Quan điểm tích hợp được xây dựng trên cơ sở những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình DH.
2.1.2. Quan điểm về nội dung và phương pháp giáo dục của Nhà nước ta là giáo dục toàn diện.Điều 5 Luật Giáo dục ghi rõ :
“ Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống “ .
 “ Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học.” 
- Quan điểm đó được cụ thể hóa trong việc thiết lập chương trình và biên soạn ở sách giáo khoa theo hướng tích hợp và PPDH tích hợp được Bộ chỉ đạo cho cán bộ quản lí giáo dục và giáo viên trực tiếp đứng lớp học tập và áp dụng.
- Việc vận dụng PPDH tích hợp là một trong những cơ sở đánh giá hiệu quả của một tiết dạy về mặt phương pháp.
- Đặc trưng bộ môn Ngữ văn có khả năng lớn trong việc vận dụng PPDH tích hợp:
+ Nội dung, kiến thức, mục tiêu cần đạt ở ba phân môn Đọc hiểu, Tiếng Việt, Làm văn có quan hệ mật thiết với nhau và đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là nâng cao trình độ sử dụng Tiếng Việt và khả năng cảm thụ văn học cho học sinh.
+ Cả ba phân môn là những môn học có tính chất công cụ và có tính nghệ thuật, liên quan đến việc sử dụng tiếng Việt.
- Cả ba phân môn đều do một giáo viên dạy trên một đơn vị lớp.
2.1.3. Cơ sở khoa học của phương pháp dạy tích hợp trong môn Ngữ văn:
Tích hợp là một khái niệm rộng, ở mỗi lĩnh vực khoa học khác nhau cũng được hiểu và ứng dụng khác nhau. 
Trong dạy học, tích hợp được hiểu là sự phối kết hợp các tri thức một số môn học có những nét chính, tương đồng vào một lĩnh vực chung, thường là quanh những chủ đề, những kiến thức nguồn.
Để vận dụng quan điểm tích hợp vào việc giảng dạy môn Ngữ văn 7, chúng ta cần chú ý đến ba hình thức tích hợp sau: Tích hợp ngang; Tích hợp dọc; Tích hợp liên môn (Tích hợp ngoài văn) 
2.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề:
2.2.1. Thực trang của việc dạy học trước đây:
Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy phương pháp giảng dạy truyền thống giữa các phân môn chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau tách rời từng  phương diện kiến thức, học sinh hoạt động chưa tích cực, hiệu quả đem lại cũng chưa cao. Học sinh không nhận ra được sự gắn kết của các đơn vị kiến thức trong SGK, một vấn đề mà người biên soạn sách rất lưu tâm; Học sinh không cảm nhận được chiêu sâu, những vẻ đẹp riêng của mỗi tác phảm văn học trong hệ thống thể loại, đề tài, chủ đề.
Ảnh hưởng đến chất lượng viết bài làm văn ở học sinh .Đó là sự vận dụng kết hợp các kiến thức Tiếng Việt, Văn học vào Làm văn và sự vận dụng 
kiến thức không phong phú.Tức là ảnh hưởng đến chất lượng học tập; Ảnh hưởng đến phương pháp và năng lực cảm thụ văn học của học sinh.
 Chính vì lẽ đó, dạy học theo quan điểm tích hợp là một xu hướng tất yếu của dạy học hiện đại, là biện pháp để tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách
 có hệ thống và lôgic. Qua đó học sinh cũng thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến thức được học trong chương trình, vận dụng các kiến thức
 lí thuyết và các kĩ năng thực hành, đưa được những kiến thức về văn, Tiếng Việt vào quá trình tạo lập văn bản một cách hiệu quả. 
 Theo tinh thần đổi mới SGK Ngữ văn cấp học THCS nói chung và ngữ văn 9 nói riêng gồm ba phân môn: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn. Đây chính là việc xây dựng chương trình theo tinh thần tích hợp. Nội dung kiến thức, kĩ năng và mục tiêu cần đạt ở ba phân môn này có quan hệ mật thiết với nhau và đều hướng đến mục đích cuối cùng là nâng cao trình độ sử dụng tiếng mẹ đẻ và năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.
2.2.2. Kết quả khảo sát thực tế:
Lớp
Sĩ số
Số bài khảo sát trên trung bình
9A
35 em
15/35
2.3. Phương pháp dạy học “ Nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn lớp 9 bằng dạy học tích hợp và đổi mới phương pháp”
2.3.1. Xác định dung nội dung, mục tiêu tích hợp
Để vận dụng PPDH tích hợp có hiệu quả, người dạy cần phải xác định chính xác, đúng đắn mục tiêu, nội dung, nguyên tắc, phương pháp tích hợp trong bài dạy.Theo kinh nghiệm của tôi, các nội dung trên sẽ là :
a.Mục tiêu: ( Trả lời câu hỏi : sử dụng PPDH tích hợp 
trong bài dạy để làm gì ? )
+ Khắc sâu kiến thức bài học.
+ Thể hiện tính liên kết, mối quan hệ hữu cơ của chương trình
+ Rèn luyện kĩ năng tiếp nhận văn học cho HS 
b. Nội dung : ( Trả lời câu hỏi : Trong bài dạy, nội dung nào cần phải dạy theo lối tích hợp ? ) Đó là :
+ Các nội dung kiến thức có những điểm liên quan, tương đồng với các bài đã học. 
+ Các nội dung kiến thức cần đến việc sử dụng kiến thức của các bộ môn khác, phân môn khác để làm phương tiện, công cụ khai thác.
c. Nguyên tắc: ( Trả lời câu hỏi : Sử dụng PPDH tích hợp trong bài dạy xuất phát từ những cơ sở nào ? ) Đó là :
+ Căn cứ vào mục tiêu cần đạt của tiết học.
+ Căn cứ vào nội dung chương trình ( các bài học trước hoặc sau bài cần dạy có liên quan )
d. Phương pháp : ( Trả lời câu hỏi : Cách thức sử dụng PPDH tích hợp như thế nào ?). Đó là: + Xác định nội dung, phạm vi kiến thức cần tích hợp.
+ Lựa chọn dữ liệu tích hợp. 
2.3.2. Chuẩn bị các dữ liệu để tích hợp:
Một trong những yếu tố quyết định thành công của việc vận dụng PPDH tích hợp là việc chuẩn bị dữ liệu để tích hợp.( dữ liệu được hiểu là các đơn vị kiến thức cần có để tích hợp ). Như trên đã nói, giáo viên sẽ lúng túng và dễ mất uy trước học sinh. Để việc chuẩn bị dữ liệu tích hợp có hiểu quả, tôi xác định mục tiêu, nguyên tắc, và phương pháp chuẩn bị như sau:
a. Mục tiêu: ( Trả lời câu hỏi : sử dụng dữ liệu tích hợp trong bài dạy để làm gì ? )Đó là:
+ Giúp giáo viên chủ động trong việc sử dung PPTH
+ Giúp vận dụng PPDH tích hợp đúng mục tiêu và có hiệu quả.
b. Nguyên tắc: ( Trả lời câu hỏi: Các dữ liệu tích hợp trong bài dạy phải đáp ứng những tiêu chí nào ? )Đó là :
+ Các dữ liệu phải có điểm tương đồng ( đề tài, chủ đề, loại, thể, kiểu)
+ Các dữ liệu phải phù hợp với đơn vị kiến thức cần tích hợp
c. Phương pháp : ( Trả lời câu hỏi : Cách thức chuẩn bị dữ liệu tích hợp như thế nào ?).Đó là: 
+ Các dữ liệu nằm trong tác phẩm của chương trình ngữ văn đã học.
+ Các dữ liệu phải được viết ra, phải được đối chiếu, so sánh.
Ví dụ minh họa: Khi dạy trích bài “ Đồng chí ” , tôi thực hiện việc chuẩn bị các dữ liệu tích hợp như sau :
- Về mục tiêu ( như đã xác định ở trên )
- Về nguyên tắc và phương pháp : 
+ Tôi tiến hành lựa chọn các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 9 có cùng đề tài, chủ đề với trích đoạn bài dạy Đồng chí đã nêu. Đó là các bài thơ : Bài thơ về tiểu đội xe không kính ( Phạm Tiến Duật ), Những ngôi sao xa xôi ( Lê Minh Khuê )
+ Tiến hành xác định nội dung tích hợp. Đối với bài dạy này, tôi xác định lựa chọn nội dung tích hợp là ở đề tài, nội dung cảm hứng, chủ đề, cách thể hiện ở mỗi tác phẩm.
+ Tiến hành tạo các dữ liệu : Viết sẵn ý đồ vào thiết kế bài dạy hay các thẻ tư liệu cầm tay. Sau đây là một dạng thẻ dữ liệu cầm tay :Các bài thơ Đồng chí ( Chính Hữu ) , Bài thơ về tiểu đội xe không kính ( Phạm Tiến Duật ), Những ngôi sao xa xôi ( Lê Minh Khuê ) có những điểm chung sau :
* Viết cùng một đề tài quê hương đất nước. Phần lớn viết trong bối cảnh đất nước bị ngoại xâm.
* Cảm hứng : bày tỏ lòng yêu quê hương đất nước, tự hào, ngợi ca đất nước, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
* Cách thể hiện : Thơ trữ tình.
Điểm khác biệt:
 Chính Hữu viết về hình ảnh những người lính nông dân áo vải trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; Phạm Tiến Duật viết về
 những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ; Lê Minh Khuê viết về ba cô gái thanh niên xung phong 
Tất cả góp phần làm phong phú thêm gương mặt đất nước trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
2.4. Sử dụng linh hoạt các hình thức tích hợp : Có ba hình thức tích hợp cơ bản sau : 
2.4.1. Tích hợp ngang : 
 Tích hợp ngang là kiểu tích hợp giữa ba phân môn Văn - Tiếng Việt -Tập làm văn. Điều này thể hiện trong việc bố trí các bài học giữa ba phân môn một cách đồng bộ và sự liên kết với nhau trên nhiều mặt nhằm hỗ trợ nhau, bổ sung làm nổi bật cho nhau. Phân môn này sẽ củng cố, hệ thống hóa lại kiến thức cho phân môn khác.
Ví dụ: Khi dạy bài: Mùa xuân nho nhỏ - Ngữ văn 9- tập 2 - trang 
Để phân tích mục 1. Hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, tôi sử dụng tích hợp như sau: 
STT
C©u hái
H­íng tr¶ lêi
H­íng tÝch hîp
1
2
3
4
5
Tác giả đã phác hoạ hình ảnh thiên nhiên 
Mùa xuân như thế nào ?
- Cấu tạo ngữ pháp trong 2 câu đầu có gì đặc biệt ?Có tác dụng gì khi xây dựng cấu tạo đặc biệt đó ?
Ngoài ra ở những câu tiếp theo, tác giả sử dụng kiểu câu gì? Thể hiện cảm xúc gì?
(GV bình chuyển)
Thử phỏng đoán trong hai câu thơ tiếp theo “giọt long lanh” là giọtgì?
Hãy xác định biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong hai câu thơ?
Nói rõ điều gì?
-Tả cảnh thiên nhiên mùa xuân với những hình ảnh quen thuộc, dòng sông xanh ,bông hoa tím biếc ,tiếng chim chiền chiện 
- Đảo vị ngữ trong hai câu đầu ;
“Mọc giữa dòng sông xanh 
Một bông hoa tím biếc”
Động từ “mọc”làm vị ngữ đặt trước bộ phận chủ ngữ ,ở đầu khổ thơ ,đầu đoạn thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Nó không chỉ tạo cho người đọc ấn tượng đột ngột bất ngờ, mới lạ, mà còn làm cho hình ảnh sự vật trở nên sống đông như đang diễn trước mắt. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xoè nở trên mặt nước xanh sông xuân.
- Kiểu câu cảm
“Ơi con chim chiền chiện
 Hót chi mà vang trời”
Tiếng chim chiền chiện hót ríu ra trong bầu trời xuân, càng làm cho không khí trở nên vui tươi, rộn ràng, ấm áp và náo nức.
Thể hiện cảm xúc say sưa trước cảnh vật mùa xuân thiên nhiên của tác giả
- Không rõ là giọt gì. Giọt sương sớm, giọt mưa xuân, giọt long lanh hay là giọt nước trong suốt phản ánh bình minh
- Nếu liên hệ với hai câu trên thì có thể là giọt sương long lanh của tiếng chim chiền chiện đang hót vang trờiHay rộng hơn là giọt cảm xúc của nhà thơ trước thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng
- Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác tiếng chim thông thường được cảm nhận bằng thính giác , giọt sương có thể cảm nhận bằng thính giác, giọt cảm xúc bằng cảm giác nhưng lại được cảm nhận bằng xúc giác nhưng lại được cảm nhạn bằng xúc giác “đưa tay hướng về”
Cảm hứng say sưa đến bất tận của con người trước mùa xuân, sử dụng mọi giác quan để thâu tóm, để đón nhận mùa xuân
-Tích hợp ngang
(phần Tiếng việt) 
Tích hợp ngang
(phần Tiếng Việt)
Tích hợp ngang
(phần Tiếng Việt)
 Thông qua hệ thống câu hỏi tích hợp, giáo viên đã cùng học sinh cảm nhận được bức tranh mùa xuân thiên nhiên của bài thơ, đảm bảo đặc trưng của một văn bản nghệ thuật qua những biểu hiện nghệ thuật để thể hiện nội dung của văn bản, hơn nữa còn góp phần mở rộng cho học sinh những kiến thức văn học có liên quan khi các em cảm nhận thơ văn.
Những kiến thức của ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Tập Làm Văn tách rời độc lập nhưng khi vận dụng quan điểm tích hợp vào làm cho ba phân môn này có mối liên hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau dựa vào nhau và làm sáng tỏ cho nhau.
       Trong một bài học ngữ văn, để tích hợp ngang được tốt, cần phải có kĩ năng nghiên cứu cấu trúc tích hợp của các phân môn trong một đơn vị bài học tuần. Muốn vậy cần có sự hiểu biết sâu sắc, chặt chẽ về mục tiêu cần đạt của mỗi phân môn, đồng thời phải thoát ra khỏi tiết dạy của từng phân môn để có cái nhìn bao quátcả đơn vị bài học tuần. Từ đó xác định mục tiêu chung của bài học, mục tiêu riêng của từng phân môn trong bài học đó. Khi thực hiện bài dạy, giáo viên phải bắt đầu ý thức về mục tiêu chung để dạy kiến thức và kĩ năng cụ thể, quy về kết quả cần đạt để hình thành năng lực tổng hợp cho học sinh.
2.4.2. Tích hợp dọc:  
           Tích hợp dọc là cách vận dụng quan điểm tích hợp trong cùng một phân môn với nhau tức là giữa Văn bản với Văn bản, giữa TV với TV, giữa TLV với TLV trong cùng một khối (lớp) hoặc khác khối (lớp) theo chiều dọc từ trên xuống .
  Thực chất, tích hợp theo chiều dọc là hệ thống hóa các kiến thức  có liên quan với nhau ở những thời điểm thích hợp sao cho học sinh có thể nắm bắt vấn đề một cách hệ thống. Khi thực hiện tích hợp dọc, các kiến thức được nhắc lại, được liên hệ với nhau giúp học sinh khắc sâu, nhớ lâu nội dung bài học. 
* Tích hợp dọc trong một phân môn cùng khối (lớp)
STT
C©u hái
H­íng tr¶ lêi
H­íng tÝch hîp
1
Em có liên hệ với bức tranh mùa xuân thiên nhiên nào trong quá trình tìm hiểu các văn bản đã học?
GV bình chú thêm.
- Mùa xuân trong “Truyện Kiều”- đoạn trích “Cảnh ngày xuân”:
 “Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành Lê trắng điểm một vài bông hoa”
Cảnh đẹp kiêu sa, trong sáng với những hình ảnh ước lệ tuyệt đẹp.
Khác với mùa xuân nho nhỏ với những hình ảnh mùa xuân thiên nhiên thật gần gũi, bình dị mà đáng trân trong biết bao.
- Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân dễ dàng liên hệ với những cảm xúc của nhà thơ Xuân Diệu trước mùa xuân:	
“Hỡi xuân hồng ta muốn căn vào ngươi”
Thể hiện sự khát khao tưởng như muốn ngấu nghiến, muốn “nuốt chửng” lấy mùa xuân của đất trời
 Còn với Thanh Hải, một động tác nhẹ nhàng nhưng cũng rất trân trọng mùa xuân. “Đưa tay hứng về” cũng là tình yêu với mùa xuân nhưng đó là một tình yêu dịu nhẹ mà sâu sắc biết nhường nào
Tích hợp dọc
* Tích hợp dọc trong cùng một phân môn nhưng khác khối (lớp)  
                         Đây là kiểu tích hợp theo chiều dọc từ dưới lên.
 Bậc Trung học phổ thông
Lớp 9
Lớp 8
Lớp 7
Lớp 6
Bậc Trung học cơ sở
Bậc Tiểu học
Giảng dạy theo quan điểm tích hợp này giúp học sinh củng cố, hệ thống lại kiến thức có liên quan với nhau từ các lớp dưới lên, nhằm khắc sâu, mở rộng, cung cấp thêm kiến thức cao hơn dựa trên những kiến thức đã học ở lớp dưới.
  Ví dụ: Khi dạy phân môn TLV “Các yếu tố tự sự, miêu tả trong văn bản biểu 
cảm” (Ngữ văn 7 - Tập 1 - Trang 137), giáo viên tích hợp phần văn Tự sự và văn Miêu tả ở lớp 6.
- Giáo viên đặt câu hỏi:  - Thế nào là văn tự sự? Văn miêu tả được hiểu như thế nào ?
  - Học sinh trả lời: - Tự sự là trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_hoc_tap_mon_ngu_va.doc
  • docBao cao tom tat hieu qua SKKN- Vũ Thủy.doc