Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong tiết đọc văn chương trình Ngữ văn 10

* Quan niệm về văn bản văn học.
- VBVH là văn bản nghệ thuậtđược sáng tạo bằng ngôn từ. Ngoài những đặc điểm chung của văn bản, VBVH có các đặc điểm riêng. Ngôn từ của VBVH được lựa chọn, tổ chức ổn định, chặt chẽ, không thể thay đổi; ngôn từ mang tính đa nghĩa, giàu sức gợi. Hình tượng trong VBVH được tạo nên bởi nghĩa của câu, của từ, của đoạn và là sản phẩm của trí tưởng tưởng, không bị giới hạn bởi không thời gian và các hiện tượng của thực tại bên ngoài. VBVH có nghĩa và ý nghĩa. Nghĩa của VBVH có tính chất đặc thù của loại hình văn bản nghệ thuật. Ý nghĩa của VBVH nảy sinh trong các quan hệ ngữ cảnh khác nhau tùy theo quan hệ với người viết, người đọc. VBVH thể hiện cá tính sáng tạo của người viết ở cách nhìn, cách cảm, cách diễn đạt hiện thực đời sống.
* Quan niệm về đọc- hiểu VBVH.
- Đọc - hiểu VBVH là khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu về phươngpháp dạy- học Văn quan tâm như giáo sư Phan Trọng Luận, tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống, giáo sư- tiến sĩ Đỗ Thanh Hùng,Trần Đình Sử,… Theo tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống: “Đọc-hiểu văn bản bao gồm cả việc thông hiểu nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trò, tác dụng của các hính thức, biện pháp nghệ thuật ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết và cả những giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Đọc văn theo tinh thần đó là toàn bộ quá trình tiếp nhận, giải mã văn bản” (Đỗ Ngọc Thống, 2003, “Chương trình Ngữ văn THPT và việc hình thành năng lực văn học cho học sinh”, Tạp chí giáo dục số 66, trang 26 - 28).
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ GIANG -------- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên sáng kiến: Một số phương pháp sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong tiết đọc văn chương trình Ngữ văn 10 Tác giả sáng kiến: Vũ Thị Hồng Trường Mã sáng kiến: 25.51 Vĩnh Phúc, tháng 2 năm 2019 1 CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT 1. Câu hỏi nêu vấn đề : CHNVĐ 2. Văn bản văn học : VBVH 3. Trung học phổ thông : THPT 4. Sách giáo khoa: SGK 5. Xã hội chủ nghĩa: XHCN 6. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: CNH- HĐH 3 - Trong quá trình dạy và học văn ngày nay thì cả người dạy và người học chưa bao giờ được trang bị nhiều tài liệu, sách tham khảo và nhận được sự hỗ trợ bởi những phương tiện hiện đại như bây giờ. Với nhiều điều kiện thuận lợi như vậy đáng ra chất lượng bộ môn văn sẽ cao hơn, đáng ra tình yêu đối với bộ môn của học trò phải cao hơn bao giờ hết nhưng nghịch lí lại diễn ra hiện nay là: chưa bao giờ học sinh lại chán và ngại học văn như bây giờ. Một trong những lí giải cho việc học sinh ít thích giờ học văn là nhu cầu giải trí của con người càng tăng, sự lên ngôi của của khoa học công nghệ giải trí càng xuất hiện ồ ạt và kéo theo công nghệ cao của nghe và nhìn làm cho văn hóa nghe nhìn chiếm ưu thế, văn hóa đọc bị suy giảm dẫn tới các giờ học văn thực sự chưa đạt kết quả cao. Bên cạnh đó số giáo viên yêu nghề, tâm đắc với nghề, muốn truyền lửa trong các tiết dạy chưa nhiều bởi nhiều lí do khác nhau. Điều này dẫn tới một hệ lụy là khi làm văn, học sinh viết những câu văn, bài văn nghèo nàn, ngô nghê về ý tứ, lủng củng trong diễn đạt thậm chí hiểu sai vấn đề. Hiệu quả dạy học Ngữ văn, vì thế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có nhiều: nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan, nguyên nhân từ phía giáo viên, nguyên nhân từ phía học sinh. Vì vậy tôi mạnh dạn viết chuyên đề: “Một số phương pháp sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong tiết đọc văn chương trình Ngữ văn 10” với mong muốn sẽ mang đến những giờ học bổ ích và có ý nghĩa với học sinh THPT và từng bước thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực của người học. Từ đó thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, đặc biệt là nghị quyết TW số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu caaug CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định ướng XHCN và hội nhập quốc tế, giáo dục phổ thông trong phạm vi cả nước đang thực hiện đổi mới đồng bộ các yếu tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị và đánh giá chất lượng giáo dục. 2. SÁNG KIẾN: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ TRONG TIẾT ĐỌC VĂN CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10. - Qua hoạt động giảng dạy và thăm lớp một cách nghiêm túc, tôi nhận thấy một trong rất nhiều lý do khiến học sinh không mấy hứng thú và mặn mà với các tiết đọc - hiểu VBVH là khá nhiều giáo viên chưa sử dụng được hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài đủ sức lôi cuốn học sinh tham gia giờ học với tinh thần chủ động, tích cực và say mê. Cá biệt, có giáo viên thường xuyên nêu những câu hỏi không đạt yêu cầu về tính khoa học, tính sư phạm khiến học sinh và đôi khi cả giáo viên dự giờ cũng không biết phải trả lời như thế nào. Ở trường THPT Nguyễn Thị Giang một phần do chất lượng đầu vào của học sinh chưa cao nên dù chương trình sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn mới, trong đó 5 6. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU: - Thời gian: từ tháng 9/2013 đến tháng 2/2019 7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN 7.1. Cơ sở lý luận: * Quan niệm về văn bản văn học. - VBVH là văn bản nghệ thuật được sáng tạo bằng ngôn từ. Ngoài những đặc điểm chung của văn bản, VBVH có các đặc điểm riêng. Ngôn từ của VBVH được lựa chọn, tổ chức ổn định, chặt chẽ, không thể thay đổi; ngôn từ mang tính đa nghĩa, giàu sức gợi. Hình tượng trong VBVH được tạo nên bởi nghĩa của câu, của từ, của đoạn và là sản phẩm của trí tưởng tưởng, không bị giới hạn bởi không thời gian và các hiện tượng của thực tại bên ngoài. VBVH có nghĩa và ý nghĩa. Nghĩa của VBVH có tính chất đặc thù của loại hình văn bản nghệ thuật. Ý nghĩa của VBVH nảy sinh trong các quan hệ ngữ cảnh khác nhau tùy theo quan hệ với người viết, người đọc. VBVH thể hiện cá tính sáng tạo của người viết ở cách nhìn, cách cảm, cách diễn đạt hiện thực đời sống. * Quan niệm về đọc- hiểu VBVH. - Đọc - hiểu VBVH là khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu về phương pháp dạy- học Văn quan tâm như giáo sư Phan Trọng Luận, tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống, giáo sư- tiến sĩ Đỗ Thanh Hùng,Trần Đình Sử, Theo tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống: “Đọc-hiểu văn bản bao gồm cả việc thông hiểu nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trò, tác dụng của các hính thức, biện pháp nghệ thuật ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết và cả những giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Đọc văn theo tinh thần đó là toàn bộ quá trình tiếp nhận, giải mã văn bản” (Đỗ Ngọc Thống, 2003, “Chương trình Ngữ văn THPT và việc hình thành năng lực văn học cho học sinh”, Tạp chí giáo dục số 66, trang 26 - 28). Giáo sư - tiến sĩ Trần Đình Sử khi chia việc đọc văn thành các khâu đọc thông, đọc thuộc, đọc kỹ, đọc sâu, đọc hiểu, đọc sáng tạo và đọc sử dụng đã khẳng định: “Trong các khâu đó, đọc - hiểu là khâu cơ bản nhất” (Trần Đình Sử, 2004, “Đọc- hiểu văn bản- một khâu đột phá trong việc dạy học văn hiện nay”, Tạp chí giáo dục số 102, trang 16-18). Như vậy, đọc - hiểu là thang độ cao của việc đọc văn bản, đọc- hiểu chính là tìm ra ý nghĩa của một thông điệp được tổ chức bằng một hệ thống ký hiệu. Trong dạy học Ngữ Văn, đọc- hiểu VBVH thực chất là tiếp nhận, giải mã văn học nhìn từ phương diện con đường- hiệu quả (đọc - hiểu) phương diện quan tâm đến vai 7 Với nguồn sử dụng chính là SGK, giáo viên có thể sử dụng những câu hỏi sẵn có trong phần hướng dẫn học bài hoặc xử lý những CHNVĐ của phần hướng dẫn học bài bằng cách cụ thể hóa và điều chỉnh yêu cầu của các câu hỏi theo hướng vừa bám sát mục tiêu dạy học vừa phù hợp với đối tượng học sinh của mình để đưa vào sử dụng. - Trong SGK Ngữ văn 10 (Văn học Việt Nam), nhiều câu hỏi hướng dẫn học bài giáo viên có thể sử dụng ngay mà không cần phải gia công xử lý. Với nhiều VBVH khác (Văn học Việt Nam), CHNVĐ của phần hướng dẫn học bài trong SGK thường đặt ra những vấn đề quá lớn, có tính khái quát, tổng hợp cao mà hầu hết các học sinh không dễ tìm ra câu trả lời. Trong trường hợp này, giáo viên phải sử dụng hệ thống CHNVĐ có tính dẫn dắt, gợi mở để các em tìm hiểu từng khía cạnh cụ thể của vấn đề được nêu, sau đó tổng hợp lại dưới dạng câu trả lời khái quát. Ngoài những CHNVĐ có sẵn trong SGK Ngữ văn, giáo viên có thể sử dụng những CHNVĐ do bản thân thiết kế, tự xây dựng bằng kinh nghiệm giảng dạy, vốn kiến thức văn học, đời sống, xã hội hoặc dựa vào tư liệu tham khảo các loại. * Các dạng câu hỏi nêu vấn đề tiêu biểu - Việc sử dụng nhiều loại câu hỏi (câu hỏi tái hiện kiến thức, CHNVĐ) và nhiều dạng câu hỏi khác nhau là điều tất yếu trong quá trình thiết kế và tổ chức giờ đọc - hiểu của người giáo viên. Việc làm này chẳng những đem lại không khí sinh động cho giờ học mà còn làm cho quá trình đọc- hiểu VBVH đạt hiệu quả cao bởi các vấn đề liên quan sẽ được xem xét, nhìn nhận, phân tích, đánh giá toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Đối với CHNVĐ, chúng tôi thường sử dụng 2 dạng tiêu biểu là: Câu hỏi “Vì sao” và câu hỏi “Như thế nào?”. Ngoài ra nó còn được phối kết hợp linh động, sáng tạo với một số các thao tác khác. Cụ thể: a) Dạng câu hỏi “Vì sao?” - Dạng câu hỏi này yêu cầu học sinh giải thích, tìm hiểu nguyên nhân, từ đó tìm ra bản chất của vấn đề. Đây là dạng câu hỏi khá khó vì để trả lời, học sinh phải nắm thật chắc vấn đề đang tìm hiểu. Ngoài ra, các em phải có vốn kiến thức sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau; có tư duy lôgic và đôi khi phải có cả sự nhạy cảm văn học nhất định. Với dạng câu hỏi này học sinh có thể bám sát VBVH đang được tìm hiểu hoặc có thể vận dụng những kiến thức bên ngoài văn bản để tìm câu trả lời. Ví dụ, với giờ đọc-hiểu VBVH bài: “Chiến thắng Mtao-Mxây”, tôi sử dụng dạng câu hỏi như sau: + Trong cảnh mở màn khiêu chiến, vì sao Đăm Săn không múa khiên trước mà lại khích cho Mtao-Mxây múa trước? Theo em, tài nghệ của tù trưởng sắt có đúng như lời hắn khoe khoang hay không? 9 nêu quan điểm cá nhân xuất phát từ những ý kiến thuận chiều hoặc ngược chiều về VBVH được đọc - hiểu. Việc làm này có tác dụng mở rộng, khắc sâu kiến thức cho học sinh hoặc định hướng để học sinh hiểu và tiếp nhận VBVH một cách phù hợp. Để thiết kế và đưa vào sử dụng những câu hỏi này, giáo viên phải tích cực nghiên cứu về VBVH được đọc - hiểu; tìm hiểu các nguồn tài liệu liên quan; sàng lọc, chọn lựa những tư liệu tin cậy để sử dụng. Tuy nhiên, đây không phải là dạng câu hỏi có thể sử dụng rộng rãi với hầu hết các VBVH như kiểu câu hỏi yêu cầu học sinh nêu quan niệm cá nhân xuất phát từ bản thân VBVH được đọc- hiểu. Ví dụ: - Trong câu chuyện về cuộc đời nhân vật Tấm, có ý kiến đồng tình với cách trả thù của cô Tấm đối với mẹ con Cám, cho rằng đó là điều hợp lí, là công bằng. Ý kiến của em về nhận xét đó? * Cách sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc - hiểu một VBVH. - Thông thường, đọc - hiểu VBVH được tổ chức theo tiến trình: + Tìm hiểu chung về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của đoạn trích hoặc văn bản. + Phân tích đoạn trích hoặc văn bản trên nhiều phương diện, nhiều khía cạnh khác nhau như: bố cục, nhan đề, tình huống truyện, các nhân vật, các nội dung chính. + Rút ra chủ đề, tổng kết đánh giá chung về VBVH. - Vì vậy ở mỗi giai đoạn khác nhau của tiến trình đọc- hiểu, giáo viên đều có thể sử dụng các dạng CHNVĐ cho từng bài. Cụ thể: a. Sử dụng CHNVĐ cho phần tìm hiểu về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của VBVH hoặc đoạn trích. - Với phần xuất xứ và hoàn cảnh ra đời của VBVH hoặc đoạn trích, giáo viên thường có xu hướng sử dụng câu hỏi tái hiện và học sinh chủ yếu dựa vào sách giáo khoa để giới thiệu. Tuy nhiên có những trích đoạn, những văn bản mà tự thân hoàn cảnh ra đời và xuất xứ của nó đã chứa đựng rất nhiều ý nghĩa, hoặc có giá trị gợi mở đối với việc tìm hiểu, khám phá về nội dung, tư tưởng của toàn văn bản. Đối với những trường hợp này, việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề không chỉ cần thiết mà còn rất hữu ích. Ví dụ với bài “Tỏ lòng” (Phạm Ngũ Lão) ta có thể dẫn dắt học sinh tìm hiểu hoàn cảnh ra đời, nhan đề bài thơ và qua đó giúp cho học sinh hiểu được chủ đề bài thơ: Tỏ lòng là tỏ ý chí của đấng nam nhi thời Trần. b. Sử dụng CHNVĐ cho phần tìm hiểu về bố cục VBVH. - Trong SGK Ngữ văn lớp 10, ngoài một số VBVH được phân chia bố cục sẵn bởi tác giả hoặc người biên soạn (Ví dụ: Đại cáo bình Ngô- Nguyễn Trãi) vẫn có những văn bản mà người học phải phân chia bố cục phù hợp dựa trên những hiểu 11
Tài liệu đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_su_dung_cau_hoi_neu.docx
skkn_2019_-_truong_van_28420207.pdf