SKKN Vận dụng phương pháp gợi mở qua cách đặt đề mục trong dạy học tác phẩm trữ tình “Bài thơ số 28” của R. Ta - Go

SKKN Vận dụng phương pháp gợi mở qua cách đặt đề mục trong dạy học tác phẩm trữ tình “Bài thơ số 28” của R. Ta - Go

Kích thích tư duy và sự chủ động của học sinh trong quá trình học tập nói chung và tìm hiểu môn Ngữ văn nói riêng là mục đích mà giáo dục đã và đang hướng tới. Có như vậy học sinh mới trở thành trung tâm trong việc chiếm lĩnh, tiếp nhận và làm chủ tri thức.

 Đôi khi giáo viên còn có những sai lầm trong quan niệm lấy học sinh làm trung tâm của hoạt động giáo dục. Cho nên thường hiểu rằng cần phải tạo ra những việc “to tát”, “lớn lao” thì mới có thể đưa học sinh lên vị trí trung tâm. Vì thế vô tình đã tạo nên rào cản của quá trình giáo dục tích cực này.

Mặt khác sức ép về mặt thời gian, dạy- học phải bám sát, kịp tiến độ so với PPCT và mức độ, khả năng tiếp thu kiến thức ở các em học sinh là khác nhau cũng không phải là điều kiện thuận lợi để tiến hành dạy và học theo hướng mở. Đặc biệt xu hướng lựa chọn các môn học tự nhiên là chủ yếu khiến cho tâm lí, thái độ của học sinh khi học các môn xã hội trong đó có bộ môn Ngữ văn khá thờ ơ, thiếu quan tâm, thiếu tinh thần trách nhiệm.

Nhận thức rõ được thực tế trên, người viết quan niệm rằng muốn đạt được mục đích lớn thì phải thực hiện từng mục tiêu nhỏ, ngay ở từng bài học, từng phần, từng mục. Do vậy bản thân đã mạnh dạn vận dụng phương pháp gợi mở, “gợi” để “mở” qua việc lưu ý đến cách đặt đề mục trong dạy học, nhất là dạy học tác phẩm thơ trữ tình nhằm gây ấn tượng, tác động trực tiếp đến giác quan và sau đó là đến nhận thức của học sinh, từ đó các em sẽ chú ý và tự giác hơn với việc tìm hiểu bài học Ngữ văn.

 

doc 22 trang thuychi01 5510
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Vận dụng phương pháp gợi mở qua cách đặt đề mục trong dạy học tác phẩm trữ tình “Bài thơ số 28” của R. Ta - Go", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NGA SƠN
----------***----------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP GỢI MỞ QUA CÁCH ĐẶT ĐỀ MỤC BẰNG HÌNH ẢNH TRONG DẠY HỌC “BÀI THƠ SỐ 28” CỦA R.TA- GO
Họ và tên
Chức vụ
: Mai Thị Tâm
: Giáo viên - TTCM
SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2019
MỤC LỤC
1. Mở đầu.1
	1.1. Lý do chọn đề tài..1
	1.2. Mục đích...2
	1.3. Đối tượng nghiên cứu...2
	1.4. Phương pháp nghiên cứu..2
2. Nội dung...2
	2.1. Cơ sở lý luận2
	2.1.1. Phương pháp gợi mở.............2
	2.1.2. Đề mục..2
	2.1.3. Tác phẩm thơ trữ tình và cách nói bằng hình ảnh trong văn học4
	2.2. Thực trạng5
	2.2.1. Thuận lợi...5
	2.2.2. Khó khăn...6
	2.3. Cách đặt đề mục trong dạy học thi phẩm trữ tình “Bài thơ số 28”..7
	2.3.1. Tính khoa học và tính nghệ thuật của đề mục...7
	2.3.2. Đề mục khái quát và cụ thể...8
	2.3.3. Cấu trúc và ý nghĩa của đề mục.13
	2.3.4. Hệ thống đề mục và sơ đồ tư duy (SĐTD).......13
	2.4. Hiệu quả của SKKN...13
3. Kết luận, kiến nghị14
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Danh mục đề tài SKKN
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
	Kích thích tư duy và sự chủ động của học sinh trong quá trình học tập nói chung và tìm hiểu môn Ngữ văn nói riêng là mục đích mà giáo dục đã và đang hướng tới. Có như vậy học sinh mới trở thành trung tâm trong việc chiếm lĩnh, tiếp nhận và làm chủ tri thức. 
	Đôi khi giáo viên còn có những sai lầm trong quan niệm lấy học sinh làm trung tâm của hoạt động giáo dục. Cho nên thường hiểu rằng cần phải tạo ra những việc “to tát”, “lớn lao” thì mới có thể đưa học sinh lên vị trí trung tâm. Vì thế vô tình đã tạo nên rào cản của quá trình giáo dục tích cực này. 
Mặt khác sức ép về mặt thời gian, dạy- học phải bám sát, kịp tiến độ so với PPCT và mức độ, khả năng tiếp thu kiến thức ở các em học sinh là khác nhau cũng không phải là điều kiện thuận lợi để tiến hành dạy và học theo hướng mở. Đặc biệt xu hướng lựa chọn các môn học tự nhiên là chủ yếu khiến cho tâm lí, thái độ của học sinh khi học các môn xã hội trong đó có bộ môn Ngữ văn khá thờ ơ, thiếu quan tâm, thiếu tinh thần trách nhiệm.
Nhận thức rõ được thực tế trên, người viết quan niệm rằng muốn đạt được mục đích lớn thì phải thực hiện từng mục tiêu nhỏ, ngay ở từng bài học, từng phần, từng mục. Do vậy bản thân đã mạnh dạn vận dụng phương pháp gợi mở, “gợi” để “mở” qua việc lưu ý đến cách đặt đề mục trong dạy học, nhất là dạy học tác phẩm thơ trữ tình nhằm gây ấn tượng, tác động trực tiếp đến giác quan và sau đó là đến nhận thức của học sinh, từ đó các em sẽ chú ý và tự giác hơn với việc tìm hiểu bài học Ngữ văn.
Khi “thử nghiệm” sáng kiến này, người viết đã nhận được những phản hồi tích cực từ đồng nghiệp và học sinh. Cũng từ đó bản thân có ý thức tìm hiểu về vấn đề đặt đề mục trong dạy học môn Ngữ văn nhưng hiện tại vẫn chưa tìm thấy tài liệu nào đi sâu nghiên cứu vấn đề. Đây vừa là thử thách nhưng cũng là cơ hội, là động lực để người viết chuyển thành đề tài SKKN với hy vọng chia sẻ và nhận được những góp ý khách quan, ý nghĩa.
1.2. Mục đích nghiên cứu
	Với đề tài “Vận dụng phương pháp gợi mở qua cách đặt đề mục trong dạy học tác phẩm trữ tình “Bài thơ số 28” của R. Ta- go”, người viết mong muốn nâng cao tinh thần tự học, tự bồi dưỡng; góp phần truyền cảm hứng học Văn cùng phương pháp tư duy chủ động, khoa học cho học sinh; chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp trong quá trình dạy học bộ môn Ngữ văn ngày càng không dễ dàng ở hoàn cảnh xã hội cụ thể hiện nay.
	Mục đích của đề tài hướng tới những đối tượng có liên quan trực tiếp cùng các mối quan hệ mật thiết: giáo viên- học sinh- người nghiên cứu nhằm cùng thực hiện mục tiêu cuối cùng của giáo dục, lấy học sinh làm trung tâm, tạo dựng nền tảng cho nhận thức và ý thức tự giác, tự chủ của các em trong học tập và cũng như trong cuộc sống sau này.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
	Đối tượng nghiên cứu xuất phất từ việc vận dụng phương pháp gợi mở qua cách thức cụ thể của phương pháp là đặt đề mục trong quá trình dạy học tác phẩm thơ trữ tình, ở đề tài khoa học này là “Bài thơ số 28” của R. Ta- go. Nghĩa là một tác phẩm văn học và con đường để tìm hiểu, khám phá nó đã trở thành đối tượng nghiên cứu chủ yếu của SKKN.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
	Với đề tài này, người viết đã vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp nghiên cứu nhằm phát huy hiệu quả tổng hợp từ ưu thế của từng phương pháp: phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết, phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin, phương pháp tâm lý, phương pháp so sánh và một số thao tác có liên quan.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Phương pháp gợi mở
	Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng- người rất quan tâm đến nền giáo dục nước nhà đã từng khẳng định “Dạy học phải chăng trước hết là dạy suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo”. Trên thế giới, các nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo dục cũng có những ý kiến tương đồng nhằm thúc đẩy hiệu quả tích cực của phương pháp gợi mở. Giáo sư, tiến sỹ I.A.Rez đã nhận thấy ở phương pháp này có những khả năng mà phương pháp khác không thể có: “Sự chiếm lĩnh và phân tích tác phẩm thường gắn liền với việc giải quyết các vấn đề về nghệ thuật, đặc điểm xã hội hoặc triết học do nhà văn đặt ra. Nhiệm vụ của giáo viên là giúp học sinh phát hiện ra các vấn đề đó, tìm thấy con đường giải quyết chúng trong văn bản nghệ thuật dạy các em phân tích tác phẩm, dạy các em suy luận, phát biểu những suy nghĩ của mình bằng một ngôn ngữ nói hoặc viết trôi chảy, nhất quán, có sức thuyết phục. Phương pháp gợi tìm sẽ giúp làm việc đó”.
	Phát triển các quan điểm trên, tiến sỹ Nguyễn Văn Đường khẳng định: “Phương pháp gợi mở là phương pháp chủ công, cốt lõi và hữu hiệu của đổi mới phương pháp dạy học từ cải cách giáo dục”.
	Đi sâu vào các biện pháp của phương pháp này, chúng ta có kỹ năng đàm thoại với hệ thống câu hỏi “biết hỏi là biết dạy”, các bài làm độc lập (bài tập)
	Tuy vậy cho đến nay, việc vận dụng phương pháp này vẫn chưa đồng bộ và hiệu quả vì gần như chúng ta vẫn đang ở trong quá trình tìm đường cho nền giáo dục nói chung, dạy học bộ môn Ngữ văn nói riêng, ở đây là giới hạn trong phạm vi tìm hiểu tác phẩm thơ trữ tình. Với cách thức, biện pháp đặt đề mục trong bài học cụ thể, người viết mong muốn góp phần làm sáng rõ, gần gũi, hiệu quả hơn cho phương pháp gợi mở vốn vẫn “khiêm tốn” ẩn mình trên lý thuyết mà chưa được vận dụng sâu rộng trong thực tế dạy- học.
2.1.2. Đề mục 
	Cần phân biệt rõ khái niệm tiêu đề, đề mục để tránh nhầm lẫn. “Tiêu đề” là lời đề ở đầu một tác phẩm, nêu nội dung chủ yếu; cũng có thể là phần in sẵn ở bên trên các giấy tờ hành chính, giấy tờ giao dịch thương mại, ghi tên cơ quan, thường có kèm địa chỉ. “Đề mục” là tên gọi từng phần lớn trong một bài viết, một công trình nghiên cứu.
Linh hoạt vận dụng khái niệm “đề mục” vào bài học Ngữ văn thì đề mục chính là tên gọi từng phần của nội dung bài học, ở đây chủ yếu là ở phần đọc hiểu văn bản. Nếu tích hợp tri thức từ phân môn Làm văn, chúng ta hoàn toàn có quyền coi đề mục là các luận điểm, luận cứ hay ý lớn, ý nhỏ trong bài học. Quan sát nhanh các đề mục này sẽ kịp thời nắm được nội dung cơ bản của bài học. Như vậy đề mục có vai trò khá quan trọng trong việc gợi mở, thể hiện và chuyển tải ý tưởng của bài học.
2.1.3. Tác phẩm thơ trữ tình và cách nói bằng hình ảnh trong văn học
	Tác phẩm văn học nào cũng biểu hiện tư tưởng, tình cảm, nhưng tác phẩm loại trữ tình lại bộc lộ, biểu hiện tình cảm theo cách riêng. Khi nói đến tác phẩm trữ tình thì không phải chỉ có thơ trữ tình, còn có tùy bút, thơ văn xuôi Nhưng trong đề tài này người viết muốn nhấn mạnh thơ trữ tình- trữ tình tâm tình như một thể loại tiêu biểu nhất của phương thức sáng tác trữ tình. Mọi sự phân loại chỉ mang tính tương đối và đôi khi có sự chồng chéo. Do vậy cần căn cứ vào tác phẩm cụ thể để có cách thức tìm hiểu phù hợp, đảm bảo đặc thù bộ môn với tư duy hình tượng.
	Thơ trữ tình tâm tình bắt nguồn từ tình cảm qua các mối quan hệ của con người trong cuộc sống hằng ngày: tình yêu trai gái, tình cảm vợ chồng, tình cha con, bè bạn Giá trị của loại trữ tình tâm tình giúp cho người đọc ý thức sâu sắc hơn những tình cảm gần gũi, thông thường.
	Đặc điểm cơ bản của tác phẩm trữ tình là sự thổ lộ ý nghĩ, cảm xúc trước thế giới, trong đó tình cảm là mạch phát triển then chốt của tác phẩm. Mà tình cảm, cảm xúc không phải là yếu tố đơn giản, dễ dàng để gọi tên theo kiểu “vật chất hóa”. Như vậy phải có phương pháp gợi mở hợp lí bắt nguồn từ nhận thức đúng đắn của chúng ta về đặc trưng thể loại tác phẩm văn học.
	Cơ sở của phương pháp này xuất phát từ đặc trưng của văn học mà không một bộ môn khoa học nào cần có, là vấn đề nói bằng hình ảnh, mô tả, diễn đạt, minh họa và cả lí luận nữa, cũng phải bằng hình ảnh. Đúng như giáo sư Vũ Ngọc Khánh từng khẳng định: “Không có hình ảnh là không có văn chương”. Chúng ta có thể lấy dẫn chứng về cách diễn đạt bằng hình ảnh của nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc:
	Ở đâu u ám quân thù
	Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
	Ở đâu đau đớn giống nòi
	Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
	Trong bốn câu thơ trên, có hai chữ thật là quan trọng: chữ “về” và chữ “lên”. Chữ “về” gợi ra chiều dài trong không gian. Chữ “lên”, lại gợi ra một chiều cao: từ đáy thung lũng hay đáy biển sâu lên đến những đỉnh núi ngất thiêng của đất nước. “Trông về” là cái thế đứng của người từ xa, xuyên suốt đường muôn dặm dài theo đất nước. “Nhìn lên” lại là cái thế đứng của những người ở dưới đáy, vươn lên đến những tầm cao bay bổng tuyệt vời. Câu thơ đã bao quát cả không gian, có bề rộng, bề sâu, chiều dài, chiều sâu. Đó mới là cái lớn lao, cái sâu sắc của hình tượng Việt Bắc trong tấm lòng người dân Việt Nam ở khắp mọi miền. Còn “u ám quân thù” là quang cảnh hiện hữu, “đau đớn giống nòi” lại là một hình ảnh sâu lắng, thấm thía cả một nỗi niềm. Chỉ bằng một số hình ảnh, nhà thơ đã đưa ta vào cả một thế giới vừa bao la, vừa sâu rộng, có cả cuộc sống bên ngoài và cuộc sống bên trong. Cần nhận thức được sự thật: sức mạnh kì diệu của thơ thuộc về hình ảnh thơ mà không phân biệt đó là thơ xưa hay thơ nay, thơ Việt Nam hay thơ thế giới.
2.2. Thực trạng vấn đề 
2.2.1. Thuận lợi
	Mặc dù theo xu hướng hiện nay, đa số học sinh muốn hoặc bị bắt buộc theo ý muốn của cha mẹ và đã lựa chọn học các môn tự nhiên là chủ yếu nhưng vẫn còn có những học sinh yêu thích và học tốt môn Ngữ văn với những phát hiện độc đáo, thông minh, tinh tế; với những bài kiểm tra xuất sắc; với những bài thi học sinh giỏi khiến cho thầy cô phải khâm phục, ngưỡng mộ, tự hào. Chừng ấy thôi cũng đủ lí do để chúng tôi vẫn quan tâm đến văn học, đến thơ trữ tình.
	Ngoài ra Ngữ văn cũng là một trong ba môn thi bắt buộc trong kì thi THPT Quốc gia cho nên dù ít hay nhiều học sinh không thể bỏ qua để chạy theo thời thế một cách thực dụng.
	Văn học, trong đó có thơ trữ tình mang lại cho học sinh và cả giáo viên, những bạn đồng nghiệp dự giờ không ít giây phút thoải mái, sống có cảm xúc với cả những nhận thức mới mẻ, thú vị. Do đó mà Ngữ văn là bộ môn giúp cho mọi người có được sự cân bằng trong tri thức và ý thức; trong học tập và cuộc sống.
	Phương pháp gợi mở đã tạo cơ hội thực sự cho học sinh được đàm thoại, được hỏi, được trả lời, được thể hiện mình và là chính mình. Điều này đã kích thích niềm hứng khởi, nguồn năng lượng tích cực ở mỗi học sinh trong giờ học môn Ngữ văn.
2.2.2. Khó khăn
	Sức ép về thời gian của một tiết học, mức độ tiếp nhận không đồng đều của học sinh, quan niệm sai lầm về vai trò môn học, tâm lí khi học, phương pháp chưa phù hợp là những khó khăn có thực, đã và đang tồn tại trong môi trường giáo dục.
	Khi tìm ra phương pháp phù hợp thì việc vận dụng còn nửa vời, chưa có “sức bền”. Bên cạnh đó áp lực cuộc sống cũng tác động không nhỏ tới thời gian và tâm huyết mà giáo viên dành cho một dung lượng kiến thức, bài học, tiết học, môn học.
	Theo CTGD, thi phẩm “Bài thơ số 28” là một bài thuộc tiết đọc thêm, là thơ nước ngoài. Ngay cả giáo viên chứ chưa nói đến học sinh vẫn thường cho rằng bài đọc thêm không quan trọng nên không chú ý, lại là thơ nước ngoài nên lại “ngại” tìm hiểu. Vì thế dạy và học đôi khi còn sơ sài theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”. Riêng “Bài thơ số 28” về hình thức thuộc thể thơ tự do- mà những gì được coi là “tự do” thì khó nắm bắt. Khi cái “tự do” ấy lại được kết hợp với tính triết lý sâu sắc, thâm thúy thì dường như thi phẩm đã vượt qua ngoài tầm kiểm soát của người dạy và người học.
	Tất cả những khó khăn đó là trở ngại không nhỏ khiến cho giáo viên Ngữ văn nói chung và bản thân người viết nói riêng chưa thành công thực sự trong nhiều bài giảng. Nhưng những trở ngại đó, cũng chính là động lực thúc đẩy mỗi người cầm phấn cần cố gắng hơn nữa để chinh phục tri thức, vượt qua chính mình, đem đến cho học sinh cảm hứng, tình yêu dành cho văn học. Khi đã yêu thì sẽ tìm cách để hiểu, nghĩa là các em chủ động khám phá.
2.3. Cách đặt đề mục trong thi phẩm trữ tình “Bài thơ số 28”
2.3.1. Tính khoa học và tính nghệ thuật của đề mục
	* Văn học cũng là một bộ môn khoa học nghiên cứu về thế giới tinh thần, cảm xúc, tư tưởng, tình cảm, tâm lí bên trong con người với tất cả sự bí ẩn, phức tạp. Vậy phương pháp, cách thức tìm hiểu về nó cũng phải khoa học, phù hợp, chính xác. Tính khoa học được thể hiện qua tri thức được truyền tải (nội dung), qua cấu trúc câu ở đề mục.
	Nhưng văn học trong đó có thơ trữ tình cũng là một loại hình nghệ thuật với những đặc thù riêng như cảm xúc- tình cảm, tư duy hình tượng, tính thẩm mỹ trong câu từ, hình ảnh
	Riêng với thơ trữ tình, trước tiên giáo viên phải gợi mở để học sinh xác định được nhân vật trữ tình- nhân vật trong thơ trữ tình trong tác phẩm sau khi đã chỉ ra cảm xúc chủ đạo của thi phẩm.
 Kết hợp cơ sở khoa học và nghệ thuật, chúng ta xác định được trong “Bài thơ số 28” những “từ khóa” quan trọng được thống kê ở bảng dưới đây:
Từ khóa
Nội dung
Cảm xúc chủ đạo
Cảm nhận, suy nghĩ, quan niệm về tình yêu
Nhân vật trữ tình- nhân vật trong thơ trữ tình
“Anh” và “Em”
Hình ảnh biểu trưng
Đôi mắt em và trái tim anh
Tính chất hình ảnh
- Đôi mắt – băn khoăn- buồn
- Trái tim- vô biên- trường cửu- ở gần
	* Khi đã tìm được từ khóa quan trọng, chúng ta phải phát hiện và chỉ ra mối quan hệ giữa chúng cũng như mối quan hệ tồn tại bên trong, tức là tìm ra các tiểu đề mục (ý nhỏ).
Mối quan hệ lớn
Mối quan hệ nhỏ
Em và anh hay đôi mắt và trái tim
- Đời- trái tim
- Trái tim- tình yêu
- Tình yêu- anh
* Cuối cùng chúng ta có hệ thống đề mục tương đối hoàn chỉnh, mang tính khoa học và nghệ thuật, vừa thể hiện được đầy đủ các mối quan hệ, vừa tạo nên sợi dây liên kết giữa các đề mục trong toàn bài, kích thích và khơi gợi sự tò mò, hứng thú của học sinh.
2.3.2. Đề mục khái quát và cụ thể
BÀI THƠ SỐ 28
Hoạt động của GV và HS
Nội dung
1. Tiểu dẫn
2. Đọc hiểu văn bản
2.1. Từ đôi mắt em
2.2.  Đến trái tim anh
2.2.1. Đời anh là gì?
2.2.2. Có gì trong trái tim anh?
2.2.3. Thế nào là tình yêu?
3. Tổng kết
Sơ đồ đề mục khái quát
Hoạt động CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
HS phỏng vấn và trả lời phỏng vấn những nét khái quát về tác giả, tác phẩm.
Sao anh tin lời nói
Mà không nhìn mắt em?
Qua hình ảnh đôi mắt và NT so sánh, tác giả muốn thể hiện điều gì?
Tại sao không phải là người con trai băn khoăn?
Hiểu dược điều đó chứng tỏ “anh”- NVTT là người ntn? Anh đã làm gì để giải tỏa nỗi băn khoăn?
Chỉ có thể giải thích bản chất, ý nghĩa của nghịch lí qua việc tìm hiểu bản chất cuộc sống- trái tim- tình yêu. Hành trình khám phá tình yêu cũng chính là hành trình khám phá chính mình.
Giả định để làm gì?
Thực tế đã làm được chưa?
Người ta chỉ thực sự quan tâm đến trái tim mình khi nào?
Làm sao hiểu được trái tim của anh?
Cần biết trong trái tim anh có gì?
Có ai định nghĩa được đầy đủ, trọn vẹn về tình yêu chưa? Vấn đề đặt ra có vẻ vô lí.
Sóng- Xuân Quỳnh
Sử dụng SĐTD hệ thống hóa ND và NT bài thơ?
Nguyễn Bính; Pus- kin
1. Tiểu dẫn
1.1. Tác giả
- Nhà văn, nhà văn hóa lớn của Ấn Độ
- Sáng tác ở nhiều lĩnh vực và thể loại
- Người châu Á đầu tiên nhận giải thưởng Nô ben văn học
1.2. Tập thơ “Người làm vườn”
- Thi nhân là người hát ca, chăm sóc, vun xới cho vườn hoa cuộc đời
- Tiêu biểu cho giọng thơ trữ tình- triết lí; thể hiện tâm hồn Ấn Độ và tinh thần nhân loại.
1.3. Bài thơ số 28
- Xuất xứ: Người làm vườn
- Nhan đề: Đánh số- 28
- Vị trí: Là một trong những bài thơ tình hay nhất
2. Đọc- hiểu văn bản
* Cảm xúc chủ đạo: Cảm nhận và suy nghĩ về tình yêu
* Bố cục: Hai phần
2.1. Từ đôi mắt em (em nhìn anh)
- Hình ảnh đôi mắt: băn khoăn, buồn, muốn nhìn sâu và cách so sánh: trăng- biển
Khao khát tìm hiểu, khám phá về tình yêu, về người yêu của người con gái.
- Nhân vật trữ tình là người tinh tế, biết quan tâm, biết yêu; có khao khát được giãi bày, chia sẻ “trần trụi”, “không giấu”.
Xảy ra nghịch lí “em không biết gì”. Và nghịch lí chính là vẻ đẹp và quy luật của tình yêu.
2.2.  Đến trái tim anh (anh nhìn vào chính mình)
a. Đời anh là gì?
- Lối cấu trúc đặc biệt: A không chỉ là B mà lại là C (Giả định- phủ định- khẳng định):
ĐỜI ANH- NGỌC, HOA- TRÁI TIM
 ? ? ? ?
Giả định là một cách để chỉ ra vẻ đẹp, sự quý giá của tình yêu
Giả định là cách khẳng định đặc biệt ước muốn, khát khao của NVTT: dâng hiến, hy sinh cho tình yêu, làm đẹp cho người yêu.
- Nhưng khát vọng tình yêu không dễ dàng hiện hữu để anh dễ dàng bày tỏ lòng mình; mà nó là những gì sâu kín nhất, bí ẩn nhất (trái tim).
Khó cảm nhận (với em) và khó giãi bày (với anh)
b. Trái tim anh có gì?
- Có em- nữ hoàng (chủ nhân)-> Khẳng định tình yêu của anh
- Tiếp tục sử dụng cấu trúc giả định:
TRÁI TIM- LẠC THÚ, KHỔ ĐAU- TÌNH YÊU
Trái tim có nhiều cung bậc cảm xúc: tức thì- vĩnh cửu
Phức tạp, khó hiểu
- Trái tim là tình yêu, có tình yêu, vì tình yêu.
c. Thế nào là tình yêu?
- Từ ngữ chỉ sự vĩnh viễn, không giới hạn: Vô biên, trường cửu
Tình yêu là thế giới không có biên giới với nhiều cung bậc, mâu thuẫn, với những khát khao khám phá và dâng hiến.
- Nghịch lí: ở gần- chẳng bao giờ biết trọn
Tình yêu- trái tim chỉ là chính nó khi nó mang những điều phi lí, bất thường, bí ẩn thôi thúc người đang yêu khám phá, kiếm tìm. 
3. Tổng kết
3.1. Nội dung
- Quan niệm về tình yêu: 
+ Là tình cảm chân thành
+ Mang vẻ đẹp bí ẩn, tế vi
+ Chứa đựng khát khao khám phá- dâng hiến hướng tới sự hòa hợp thấu hiểu của hai tâm hồn nhằm đạt đến cái vĩnh hằng, duy nhất, tuyệt đối.
+ Làm cho con người trở nên đẹp hơn và đáng sống hơn.
- Ta- go là thi nhân, tình nhân và triết nhân
3.2. Nghệ thuật
- Hình ảnh đẹp, đầy sức gợi; mang tính biểu tượng: đôi mắt, viên ngọc, đóa hoa, đời, trái tim
- Cách nói giàu chất triết lí: nếu nhưng
- Cách bày tỏ tình yêu kín đáo, sâu sắc, mãnh liệt
- Biện pháp đối lập qua các nghịch lí; so sánh
NT mang đậm chất phương Đông
Đề mục và giáo án cụ thể
Trước khi xây dựng được hệ thống đề mục theo phương pháp gợi mở, bản thân người thực hiện sáng kiến đã từng lúng túng khi dạy thi phẩm “Bài thơ số 28”. Sau mỗi lần kết thúc bài, cảm giác không thỏa mãn vẫn chi phối tâm lí, cho đến khi người viết nhìn thấy mối quan hệ giữa tính khoa học và tính nghệ thuật của văn học cũng như đặc trưng cảm xúc, tình cảm của thơ trữ tình; nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Ta- go được thể hiện trong áng thơ tình nổi tiếng này.
	Mặt khác tập thơ “Người làm vườn” trong đó có “Bài thơ số 28” rất tiêu biểu cho giọng thơ giàu chất trữ tình và chất triết lý của Ta- go, vừa thể hiện tâm hồn Ấn Độ, vừa bao quát tinh thần nhân loại. Văn hóa phương Đông với vẻ đẹp tiềm ẩn, kín đáo, sâu sắc, với lối “nói vòng” bằng hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, với chiều sâu hướng nội trong tư duy, cảm xúc, tình cảm khiến người viết sáng kiến cũng phải cố gắng nỗ lực để tìm ra hình thức biểu đạt phù hợp mang màu sắc văn hóa Đông phương. Dấu chấm hỏi (?) và dấu ba chấm () được sử dụng và phát huy tối đa ưu thế, vừa là thách thức vừa là gợi ý để học sinh suy nghĩ. Dấu ba chấm ở cuối đề mục 2.1. Từ đôi mắt em đến đầu đề mục  2.2. Đến trái tim anh là một sự kết nối tinh tế giữa các cặp quan hệ cũng là tạo nên tính lôgic chặt chẽ của hệ thống ý trong bài học.
	Mục 2.2. Có gì trong trái tim anh? cũng khiến người viết phải băn khoăn l

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_van_dung_phuong_phap_goi_mo_qua_cach_dat_de_muc_trong_d.doc