Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi trường xung quanh

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi trường xung quanh

 *Thuận lợi:

 - Được sự quan tâm và chỉ đạo của các cấp lãnh đạo như Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT Lệ Thủy, đặc biệt là Ban giám hiệu nhà trường luôn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên. Hai giáo viên đứng lớp đều có trình độ Đại học, nhiệt tình, yêu trẻ, nắm được tâm lý của trẻ ở từng lứa tuổi mẫu giáo

- Bản thân được tham dự lớp tập huấn, các tiết thao giảng của cụm, của trường tổ chức nên nắm chắc phương pháp về MTXQ khá vững vàng, luôn trau dồi kiến thức học hỏi kinh nghiệm của chị em trong trường để nâng cao trình độ chuyên môn, có ý thức phấn đấu và rèn luyện tác phong s¬ư phạm của một ng¬ười giáo viên.

 - Các cháu ở lớp khoẻ mạnh, nhanh nhẹn có tính tìm tòi khám phá .

- Phụ huynh ở đây luôn quan tâm đến con em mình đưa đón trẻ thường xuyên tạo điều kiện cho việc tuyên truyền phối kết hợp với gia đình-nhà trường trong việc chăm sóc giáo dục trẻ tốt hơn. Luôn ủng hộ nhiệt tình các hoạt động, phong trào của trường, lớp. Kết hợp với giáo viên để giúp trẻ học tập tốt.

 * Khó khăn:

 - Do trường thuộc xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên cơ sở vật chất còn hạn chế.

 - Con em trong độ tuổi đến trường thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo cao. Cụ thể ở lớp học 3/30 hộ nghèo. 3/30 hộ cận nghèo.

- Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, một số trẻ chưa hứng thú vào giờ học.

- Một số trẻ còn rụt rè, nhút nhát, khả năng diễn đạt về ngôn ngữ và giao tiếp

còn hạn chế.

 - Một số cháu thuộc diện con đông, kinh tế khó khăn, phòng học còn thiếu . nên đa số các cháu chưa qua đào tạo 3-4 tuổi.

- Đồ dùng tự tạo để trẻ khám phá còn nghèo nàn, trường chưa xây dựng khu vui chơi để trẻ khám phá, trải nghiệm, quan sát.

- Một số cháu có bố mẹ đi làm ăn xa, sống với ông bà nên việc đến lớp còn gặp nhiều trở ngại.

 

doc 13 trang hoathepmc36 28/02/2022 8764
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi trường xung quanh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
"Một số giải nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi trường xung quanh”
Họ và tên: Ngô Thị Nhung- GV MN Hưng Thủy
1. PHẦN MỞ ĐẦU
	1.1. Lý do chọn sáng kiến:
	 Hồ Chí Minh từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có trở nên sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ phần lớn ở công học tập của các cháu”.
 	Đúng như thế, non sông Việt Nam có lớn mạnh hay không, xã hội Việt Nam có phồn vinh hay không điều đó phụ thuộc phần lớn vào sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Trẻ em là người trực tiếp được giáo dục, là chủ nhân của tương lai đất nước. Do đó, sự nghiệp “trồng người” đã và đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, coi trọng hàng đầu. Giáo dục Mầm non là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục. Đây chính là nền tảng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của con người mới trong xã hội mới. Hơn ai hết, bản thân tôi là một giáo viên Mầm non, tôi rất hiểu vai trò của mình trong sự nghiệp “trồng người”, tôi nguyện đem hết khả năng và tâm huyết của mình để chăm sóc, giáo dục và giúp trẻ phát triển hài hòa, cân đối về mọi mặt.
	Thế giới xung quanh luôn là điều mới lạ, chúng luôn muốn được tìm tòi, được quan sát, tiếp xúc, được hiểu biết nhiều hơn về mối quan hệ đơn giản giữa các sự vật xung quanh từ đó vốn từ của trẻ ngày càng phong phú và phát triển năng lực hoạt động trí tuệ và tư duy của trẻ. Từ những mục tiêu trên tôi đã có suy nghĩ cần tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh như thế nào và làm quen những gì để tạo hứng thú kích thích sự chú ý của trẻ, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Chính vì thế ở trường Mầm non môn học Làm quen với môi trường xung quanh vô cùng quan trọng đối với trẻ 5 - 6 tuổi, nó là phương tiện rèn luyện cho trẻ phát triển ngôn ngữ nói, nó có tác dụng to lớn trong việc hình thành nhân cách cho trẻ Mầm non. Đó là mục tiêu chính của việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh là giúp trẻ phát triển về kỹ năng, thẩm mỹ, hình thành tình yêu đối với thiên nhiên cuộc sống con người xung quanh trẻ.
 	Môi trường xung quanh trong trường mầm non là quá trình cho trẻ nhận thức về thế giới xung quanh, những quy tắc ứng xử với mọi người. Hình thành cho trẻ những kiến thức về chính bản thân mình như: giới tính, tên, tuổi....các thành viên trong gia đình trẻ, một số nghề phổ biến trong xã hội và những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sữ, các ngày lễ hội sự kiện văn hóa của quê hương đất nước, hay các hiện tượng tự nhiên, các hiện tượng thời tiết mà trẻ cần nhớ để giúp trẻ chính xác hóa các biểu tượng mà trẻ thu nhận, lĩnh hội được.  Khi  trẻ được  làm  quen  với  thế  giới  xung  quanh  sẽ  giúp  trẻ  tích  lũy được  kiến thức,  kĩ năng về tự nhiên và xã hội,  giúp trẻ phát triển một cách toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mĩ - Lao động.
 Với tầm quan trong trong việc tổ chức cho trẻ làm quen với Môi trường xung qanh (LQMTXQ) và xuất phát từ trách nhiệm và lòng nhiệt huyết với nghề, từ mục tiêu giáo dục con người mới phát triển toàn diện đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội. Đối với trẻ việc LQMTXQ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ nên tôi chọn đề tài "Một số giải nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi trường xung quanh” làm đề tài nghiên cứu cho năm học này.
 1.2. Điểm mới và phạm vi áp dụng của đề tài: 
* Điểm mới của đề tài.
	Trên thực tế có rất nhiều đồng nghiệp đã viết về đề tài này, tuy nhiên mỗi đề tài đề cập đến những khía cạnh khác nhau của việc nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi trường xung quanh, phù hợp với tình hình thức tế của từng trường. Đối với sáng kiến kỹ thuật của Tôi, điểm mới của đề tài là đã sử dụng một số biện pháp mới có tính khả thi cao, phù hợp với tình hình của nhà trường, tác động và có hiệu quả rất lớn giải nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi trường xung quanh đối trẻ trong toàn trường.	
	Đề tài tập trung vào những mặt đã làm được, đề xuất những quan điểm phù hợp cho quá trình hoạt động ở trường mầm non có hiệu quả.	
* Phạm vi áp dụng đề tài.
Nội dung đề tài viết trên tinh thần tập hợp những kinh nghiệm đúc kết được của bản thân, chủ yếu là những giải pháp trong việc dạy trẻ khắc phục tật nói lắp, nói ngọng, tại trường mầm non nơi tôi đang công tác. Đề tài này có thể áp dụng rộng rãi, có hiệu quả đối với các trường mầm non trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình nói riêng và có thể áp dụng rộng rãi đối với các trường mầm non trong tỉnh và trên toàn quốc nói chung.
 2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1. Thực trạng:
 Thực tế trong quá trình chăm sóc các cháu hằng ngày với độ tuổi 5 - 6 tuổi bản thân tôi ngoài việc nắm vững những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, xác định những mục tiêu và nội dung chương trình về chương trình giáo dục mầm non làm cơ sở, tôi còn phải hiểu được tình hình thực tiễn của địa phương, của trường và lớp mình đang công tác, để khai thác những cái hay, cái đẹp nhằm giáo dục tinh thần cho các cháu.
Khi được khám phá xã hội trẻ sẽ phát triển khả năng về ngôn ngữ, tư duy, óc quan sát, tính tò mò, thích khám phá từ đó nhận thức của trẻ về xã hội xung quanh được phong phú, đa dạng, chính xác hơn. Khi nhận thức được các sự vật hiện tượng trẻ muốn nói lên sự hiểu biết của mình bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của trẻ. Từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển trẻ nói năng mạch lạc hơn, vốn từ của trẻ phong phú và đa dạng hơn, trẻ biết sử dụng từ chính xác, biết mạnh dạn hơn, nhằm phát triển ở trẻ tình cảm kỷ năng xã hội và kỷ năng giao tiếp tốt hơn. Hình thành cho trẻ hành vi văn minh trong cuộc sống, trong quan hệ với mọi người. Vì vậy, giáo viên là người đóng vai trò chủ đạo, người tổ chức, hướng dẫn trẻ khám phá xã hội một cách chủ động, sáng tạo. Đồng thời giáo viên cũng cần hòa nhập với trẻ, tham gia các hoạt động với trẻ lôi cuốn trẻ tích cực, hứng thú tham gia vào các hoạt động, tổ chức tốt các hoạt động cho trẻ. Để thực hiện được điều đó, giáo viên mầm non phải có kiến thức khoa học về nuôi dạy trẻ hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, có vốn kiến thức phong phú phải nắm được mục đích, yêu cầu về kiến thức, kỷ năng, giáo dục của từng bài để truyền thụ cho trẻ có hệ thống, chính xác, đảm bảo được yêu cầu của bài học và khả năng nhận thức của trẻ. Trẻ sinh ra được sống trong nền văn minh nhân loại. Môi trường xã hội vô cùng phong phú, đa dạng hấp dẫn trẻ, bao bộc quanh trẻ. Trong khi đó khả năng vận động, hoạt động của trẻ còn nhiều hạn chế, ngôn ngữ của trẻ chưa phát triển, vốn từ của trẻ còn nghèo. Vì vậy cô giáo phải thường xuyên tổ chức cho trẻ khám phá xã hội xung quanh trẻ.
	Năm học 2016-2017, tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp mẫu giáo 5-6 tuổi. Trường nơi tôi đang đang công tác có bề dày truyền thống dạy và học. Nhiều năm liền trường đạt danh hiệu: “ Tập thể lao động tiên tiến”. Nhất là trong năm học này tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên của trường đang ra sức quyết tâm phấn đấu xây dựng nhà trường ngày càng phát triển . Bản thân Tôi là một giáo viên dạy lâu năm nhất ở trường, Tôi xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình, cùng với chị em phấn đấu để trường đạt được kết quả trên, mà trước hết là việc nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi trường xung quanh cho trẻ. Khi thực hiện đề tài này, tôi gặp những thuận lợi khó khăn sau:
 *Thuận lợi:
 	- Được sự quan tâm và chỉ đạo của các cấp lãnh đạo như Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT Lệ Thủy, đặc biệt là Ban giám hiệu nhà trường luôn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên. Hai giáo viên đứng lớp đều có trình độ Đại học, nhiệt tình, yêu trẻ, nắm được tâm lý của trẻ ở từng lứa tuổi mẫu giáo 
- Bản thân được tham dự lớp tập huấn, các tiết thao giảng của cụm, của trường tổ chức nên nắm chắc phương pháp về MTXQ khá vững vàng, luôn trau dồi kiến thức học hỏi kinh nghiệm của chị em trong trường để nâng cao trình độ chuyên môn, có ý thức phấn đấu và rèn luyện tác phong sư phạm của một người giáo viên.
 - Các cháu ở lớp khoẻ mạnh, nhanh nhẹn có tính tìm tòi khám phá .
- Phụ huynh ở đây luôn quan tâm đến con em mình đưa đón trẻ thường xuyên tạo điều kiện cho việc tuyên truyền phối kết hợp với gia đình-nhà trường trong việc chăm sóc giáo dục trẻ tốt hơn. Luôn ủng hộ nhiệt tình các hoạt động, phong trào của trường, lớp. Kết hợp với giáo viên để giúp trẻ học tập tốt.
 	* Khó khăn: 
	- Do trường thuộc xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên cơ sở vật chất còn hạn chế.
	- Con em trong độ tuổi đến trường thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo cao. Cụ thể ở lớp học 3/30 hộ nghèo. 3/30 hộ cận nghèo.
- Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, một số trẻ chưa hứng thú vào giờ học. 
- Một số trẻ còn rụt rè, nhút nhát, khả năng diễn đạt về ngôn ngữ và giao tiếp 
còn hạn chế.
 - Một số cháu thuộc diện con đông, kinh tế khó khăn, phòng học còn thiếu ... nên đa số các cháu chưa qua đào tạo 3-4 tuổi.
- Đồ dùng tự tạo để trẻ khám phá còn nghèo nàn, trường chưa xây dựng khu vui chơi để trẻ khám phá, trải nghiệm, quan sát...
- Một số cháu có bố mẹ đi làm ăn xa, sống với ông bà nên việc đến lớp còn gặp nhiều trở ngại.
	Xuất phát từ những thực tế trên tôi đã khảo sát thực trạng của lớp mình như sau:
* Khảo sát thực trạng của lớp trước khi thực hiện sáng kiến:
Tổng số trẻ
XL Tốt
XL Khá
XL TB
XL Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
30
6
20
7
23,33
10
33,33
7
23,33
Qua khảo sát ban đầu như trên tôi thấy kết quả trên trẻ chưa cao là điều tôi cần phải suy nghĩ để tìm ra những giải pháp tốt nhất giúp trẻ 5-6 tuổi học tốt tiết môi trường xung quanh. Chính vì vậy mà tôi đã tìm tòi nghiên cứu đưa ra "Một số giải pháp cho trẻ 5-6 tuổi học tốt tiết môi trường xung quanh" như sau:
 	 2.2. Các giải pháp thực hiện:
2.2 1: Tìm hiểu đặc điểm, điều kiện của trẻ.
Trong cùng một lứa tuổi nhưng có trẻ nhanh nhẹn hoạt bát, có trẻ mạnh dạn tự tin có trẻ thì e dè nhút nhát. Có trẻ sống trong gia đình có điều kiện , có trẻ nghèo khổ. Chính vì vậy, mà cô giáo cần phải tìm hiểu nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý và nhận thức của từng trẻ để xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp cho độ tuổi của lớp mình phụ trách. 
Việc đầu tiên tôi làm là tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình trẻ như: điều kiện kinh tế, là con thứ mấy trong gia đình , địa lý nhà trẻ sống... để biết được trẻ thuộc diện hộ gia đình như thế nào, trẻ nào được bố mẹ quan tâm, trẻ nào bị thiệt thòi. Từ đó cần cung cấp cho trẻ những gì, bù đắp cho trẻ những gì.
 Tiếp theo là khảo sát kết quả trên trẻ về Lỉnh vực phát triển nhận thức môi trường xung quanh, đồng thời thường xuyên theo giỏi mọi hoạt động của trẻ để nắm bắt tình hình thực tế của lớp, đặc điểm tâm sinh lý và nhận thức của từng trẻ, trẻ nào tốt, khá, trẻ nào Trung bình, yếu. Tốt mặt nào, yếu về mặt nào để tôi lựa chọn hình thức giáo dục cho phù hợp. 
Ví dụ: Khi cho trẻ trò chuyện về tên, tuổi, giới tính của trẻ tôi cần lựa chọn hệ thống câu hỏi phù hợp với độ tuổi của lớp tôi, câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp và câu hỏi dễ hiểu, gần gủi sát với đề tài đang truyền tải cho trẻ. Với những câu hỏi khó và trừu tượng hơn tôi thường gọi những trẻ tốt và khá trả lời, còn những trẻ nhận thức, ngôn ngữ có phần hạn chế tôi lựa chọn hệ thống câu hỏi đơn giản hơn, ít từ hơn... 
Chẳng hạn: với trẻ tốt và khá tôi đặt câu hỏi: Con hãy tự giới thiệu về bản thân mình nào? Như vậy trẻ sẽ giới thiệu về họ và tên của trẻ, ngày sinh, giới tính và sở thích của trẻ.... Nhưng với trẻ nhận thức, ngôn ngữ còn hạn chế tôi đặt câu hỏi: Họ tên con là gì? Con sinh ngày tháng năm nào? ...
Ngoài ra, tôi còn phân nhóm cho trẻ hoạt động nhanh nhẹn - chơi với trẻ yếu, để trẻ giúp đỡ nhau. Trong quá trình chơi cùng nhau trẻ có điều kiện để giao lưu, trao đổi thúc đẩy nhau hoạt động tốt hơn, đồng thời trẻ được trải nghiệm mình từ đó trẻ tích cực hoạt động và hoạt động tốt hơn. 
Như vậy việc tìm hiểu đặc điểm nhận thức của trẻ đã thực sự giúp trẻ học tốt hơn
 2.2.2 Tạo điều kiện cho trẻ tìm tòi, khám phá, trải nghiệm, học hỏi 
Môi trường xã hội luôn thay đổi, vận động không ngừng. Tuy nhiên sự vận động, thay đổi đó có chu kỳ, có tính quy luật đòi hỏi có thời gian. Vì vậy, để cho trẻ tận mắt nhìn thấy sự thay đổi của xã hội đòi hỏi giáo viên cần có sự linh hoạt, nhạy bén, biết tận dụng mọi cơ hội để tổ chức cho trẻ tìm tòi, khám phá thử nghiệm giúp cho sự hiểu biết của trẻ được chính xác sâu sắc hơn. 
	 Ví dụ: Trong tiết dạy cho trẻ "Trò chuyện về ngày 20/11", cô sưu tầm các loại tranh ảnh về ngày 20/11,....Ngoài ra cô còn sử dụng các hình ảnh về ngày 20/11 trình chiếu trên máy tính cho trẻ được trực tiếp trò chuyện về nội dung của các hình ảnh đó. Qua đó trẻ được khắc sâu về ý nghĩa của ngày nhà giáo Việt Nam nhằm giáo dục ở trẻ sự biết ơn, lòng kính trọng đối với các cô giáo thầy giáo. 
 Hoặc tiết “Trò chuyện về nghề nghiệp của bố mẹ” tôi giao nhiệm vụ cho trẻ về nhà hỏi bố mẹ mình làm nghề gì, làm việc ở đâu? nghề đó tạo ra sản phẩm gì?...Trong tiết học tôi cho trẻ được trải nghiệm những gì mà trẻ biết, trẻ thấy để trẻ tự nói lên được nghề nghiệp của bố mẹ mình, để trẻ khắc sâu kiến thức hơn tôi lựa chọn một số hình ảnh các nghề mà bố mẹ trẻ làm cho trẻ xem nhằm kích thích sự hứng thú của trẻ vào tiết học hơn
 	Tổ chức ngày hội ngày lễ như" Tết trung thu” tôi cho trẻ biết ý nghĩa của ngày tết trung thu là ngày rằm tháng tám, ngày tết trung thu của thiếu nhi , tập các tiết mục văn nghệ có nội dung về tết trung thu như bài “ Chú cuội chơi trăng, Vầng trăng cổ tích, Rước đèn dưới trăng... Chuẩn bị sân khấu, hóa trang, mâm cổ ...Tạo điều kiện cho trẻ cùng cô trang trí, sắp xếp trong buổi lễ như tự mặc trang phục, bày mâm quả, sắp xếp nghế ngồi...Tất cả thể hiện một niềm thích thú dâng trào ở trẻ thơ khi hòa mình vào các ngày lễ hội lớn. Qua đó trẻ hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của các ngày lễ hội và luôn biết trân trọng nó.
 	Ví dụ: “Tìm hiểu về trường mầm non “ tôi cho trẻ thường xuyên quan sát các hoạt động của trường như Trong trường có những ai? Công việc của từng người trong trường làm gì?... trong khi tổ chức trên tiết học tôi cho trẻ cùng nhau khám phá những gì mà trẻ biết trẻ nhìn thấy ở trường mầm non như vậy kích thích trẻ tìm tòi, khám phá và trải nghiệm, trẻ hứng thú kể cho cô và các bạn biết về những gì mà trẻ biết về trường mầm non nơi trẻ đang học, trẻ tự hào về trường và yêu trường, yêu lớp... 
	Hoặc trong khi tổ chức cho trẻ chơi ở góc phân vai tôi tổ chức cho trẻ đóng vai cô giáo- học sinh, gia đình, bác sĩ - bệnh nhân, cô bán hàng...tôi dẩn dắt trẻ về nội dung của chủ đề chơi nhằm giúp trẻ tái tạo và nhập vai chơi phù hợp, từ đó phát huy tính tích cực của trẻ, trẻ thể hiện vai chơi của mình như cách ứng xử, giao tiếp đúng mực. 
 	Các buổi sinh hoạt chiều tôi thường tổ chức cho trẻ cũng cố hóa kiến thức vừa trích được ở trên tiết học hoặc mở rộng kiền thức cho trẻ về những nội dung sắp cho trẻ được làm quen nhằn tích lũy kiến thức, khơi gợi tính tò mò ham hiểu biết của trẻ bằng cách trò chuyện, cho trẻ xem hình ảnh, tổ chức các trò chơi, tổ chức các hoạt động tạo hình như vẽ, nặn, làm alun về các đề tài khám phá xã hội.
Tổ chức cho trẻ tham quan di tích lịch sữ ở quê hương qua đó đã khơi dậy sự tìm tòi, khám phá, trải nghiệm của trẻ, trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động hơn, những hoạt động đó giúp trẻ có lòng yêu quê hương, đất nước, yêu quý những người thân trong gia đình, yêu trường, yêu lớp, yêu bạn bè trẻ cảm cuộc sống quanh trẻ thú vị rất nhiều.
Chính nhờ những hoạt động ấy mà trẻ nhớ rất lâu kiến thức trẻ tích lũy được đồng thời trẻ ham thích tìm tòi, khám phá, hứng thú tham gia vào các giờ học các hoạt động của lớp.
2.2 3 Sử dụng đồ dùng trực quan.
Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học chiếm một vị trí rất quan trọng trong việc giúp trẻ tiếp thu những kiến thức. Bởi lẽ trực quan trong dạy học huy động được tất cả các giác quan tham gia vào quá trình nhận thức của trẻ.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đồ dùng trực quan đối với tiết môi trường xung quanh cho nên ngay từ đầu năm học tôi mạnh dạn đề xuất với ban giám hiệu nhà trường trang bị thêm cho các lớp các thiết bị đồ dùng dạy học như ti vi, bảng, tranh ảnh lô tô, và một số các mô hình mô phỏng để phục vụ dạy học.
       	Khi lập kế hoạch cho mỗi tiết học tôi đã rất chú ý tới cách thức truyền tải kiến thức với trẻ đặc biệt đồ dùng trực quan vừa phải mang tính thẩm mỹ, tính chính xác và sự sáng tạo từ đó kich thích được sự hứng thú, ham hiểu biết ở trẻ. 
	Phương tiện trực quan trong các hoạt động dạy và học rất đa dạng như: Đồ dùng trực quan bằng vật thật: cốc,chén, con cá, các loại rau-quả, Các loại mô hình: Mô hình máy bay, Tàu hỏa...Các loại tranh ảnh, lô tô.Tôi luôn lưu ý tới việc sử dụng đồ đùng trực quan phải phù hợp với nội dung từng tiết dạy ngay từ khi lập kế hoạch cho mỗi tiết môi trường xung quanh tôi luôn suy nghĩ và lựa chọn những đồ dùng trực quan sao cho trẻ dễ hiểu và thích thú đối với những tiết chủ đề về môi trường xã hội thì tôi lựa chọn tranh, ảnh để dạy trẻ. Đối với những đồ dùng trực quan là đồ chơi tôi đưa vào trong các tiết dạy như: Đồ chơi của bé, phương tiện giao thông, con vậtQua những đồ chơi được làm khéo léo giống với thực tế sẽ giúp trẻ chú ý quan sát đồ chơi, chơi với đồ chơi để khám phá những kiến thức về đối tượng.Vì trẻ mẫu giáo có sự tưởng tượng chưa phong phú, kinh nghiệm sống của trẻ còn ít nên tôi thường xuyên tận dụng các vật thật để dạy trẻ. Khi cho trẻ được tiếp xúc với vật thật thì tôi nhận thấy trẻ hứng thú và nắm bắt kiến thức một cách rõ ràng nhất.
	Ví dụ: Khi tìm hiểu về quả cam tôi dùng quả cam thật cho trẻ quan sát và trải nghiệm. Đây là quả gì? nhìn xem quả cam có hình gì? Màu gì? hãy sờ xem vỏ của chúng có đặc điểm gì? muốn biết cam có mùi gì hãy đưa lên mũi ngửi xem nào sau đó nếm thử vị của cam sau đó hỏi trẻ về vị của cam (có trẻ nói chua, trẻ nói ngọt) từ đó tôi giải thích “Qủa cam chưa chín có vị chua, còn quả cam chín có vị ngọt” khi được trải nghiệm thực tế thì trẻ đã nắm vững những kiến thức tôi muốn truyền đạt. Qua bài về quả cam tôi không những đã cho trẻ tìm hiểu một cách tổng quát về quả cam mà còn dạy trẻ kĩ năng bổ cam và vứt rác đúng nơi.
  	Việc sử dụng màn hình, máy chiếu cũng là một hình thức sử dụng trực quan vì vậy tôi thường xuyên sử dụng tạo điều kiện để cho trẻ nắm kiến thức.Thông qua những cảnh quay, đoạn băng được đưa lên màn hình sẽ tạo ra sự thay đổi, sự mới lạ cho trẻ vì tất cả những sự vật hiện tượng đều có thể chụp lại, quay lại để đưa lên màn hình cơ hội để trẻ khám phá những sự vật- hiện tượng, con vật mà trẻ khó có cơ hội tiếp xúc như: tìm hiểu động vật sống trong rừng, động vật sống dưới biển
       	Việc sử dụng đồ dùng trực quan phải được sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo. Trong tiết dạy tôi không sử dụng một loại đồ dùng từ đầu đến cuối cũng không sử dụng quá nhiều loại ôm đồm để trẻ khó hiều mà tôi phối hợp các loại đồ dùng trực quan sao cho phù hợp, linh hoạt từng phần sao cho trẻ không nhàm chán.
  	Ví dụ: Trong tiết dạy cho trẻ làm quen với một số loại rau tôi có thể sử dụng một số loại đồ dùng như: Tranh lô tô, vật thật, đồ chơi, màn hình, mô hình kết hợp với nhau sao cho linh hoạt và phù hợp như phần đầu giới thiệu bài cho trẻ đi thăm mô hình vườn rau với nhiều loại rau, phần cung cấp kiến thức cho trẻ quan sát các loại rau thật, phần mở rộng cho trẻ xem trên màn hình một số loại rau khác và các món ăn từ rau, phần luyện tập cho trẻ đi chơi trò chơi qua những đồ rau nhựa, tranh lô tô.
Việc kết hợp sử dụng linh hoạt các loại đồ dùng trực quan trong tiết học tôi thấy trẻ hứng thú hơn mỗi khi học khám phá khoa học, kiến thức tôi truyền đạt vì thế mà dễ dàng và trẻ ghi nhớ hơn
	2.2. 4 Tổ chức quan sát trước tiết học.
	Trẻ Mẫu giáo với đặc điểm "Chơi bằng học, học bằng chơi" qua quá trình dạo chơi tham quan hoặc tham gia vào các hoạt động như đọc thơ, kể chuyện, các trò chơi, trẻ được quan sát đối tượng ở môi trường sống nhằm kích thích sự ham hiểu biết, sự thích thú của trẻ, từ đó trẻ hiểu, khắc sâu vào trí nhớ những đặc điểm của đối tượng đó. Cô giáo có thể tổ chức ngoài tiết học, vào buổi sáng, sau khi đón trẻ hoặc buổi chiều sau khi trả trẻ. Những buổi ngoại khoá cô có thể cho trẻ đi tham quan một số n

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_nang_cao_chat_luong_cho_tr.doc