Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xã hội hóa giáo dục trong thời kỳ mới

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xã hội hóa giáo dục trong thời kỳ mới

Đảng ta đã xác định “Phát triển giáo dục là Quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế,.”. Như vậy, “xã hội hoá” là một trong 5 hướng đổi mới của Đảng ta đối với sự nghiệp giáo dục. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước đã thường xuyên có những chính sách và giải pháp để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển. Trong đó xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường phát triển giáo dục, một tư tưởng chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển giáo dục nhằm tạo sự chuyển biến sâu sắc, có tính cách mạng trong hoạt động thực tiễn, trở thành một hoạt động học tập rộng lớn và sâu sắc bắt rễ vào các lĩnh vực đời sống vật chất, tinh thần của xã hội để đảm bảo cho giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Từ lịch sử xa xưa đến những năm đầu lập nước như phong trào diệt giặc dốt, xoá nạn mù chữ, và ngay cả trong chiến tranh, dưới làn mưa bom bão đạn, chính quyền và người dân vẫn duy trì sự phát triển giáo dục trong điều kiện hết sức khó khăn. Đến ngày nay xã hội hóa giáo dục đã thực sự trở thành một nội dung quan trọng của sự nghiệp đổi mới giáo dục.

Xã hội hóa giáo dục là vận động toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục nên mọi người có nghĩa vụ chăm lo phát triển giáo dục, đồng thời để giáo dục phục vụ cho mọi người. Trong đó yêu cầu về xã hội hóa quyền lợi về giáo dục là đỉnh cao, là mục tiêu, cốt lõi của xã hội hóa giáo dục; Tuy nhiên xã hội hóa trách nhiệm nghĩa vụ của mọi người đối với giáo dục là điều kiện nền tảng để xã hội hóa quyền lợi về giáo dục.

 

doc 30 trang thuychi01 8092
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xã hội hóa giáo dục trong thời kỳ mới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHÀ TRUNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC HÀ THANH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
MỘT SỐ BIỆN PHÁP 
XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
 TRONG THỜI KỲ MỚI 
*****
 Người thực hiện: Trương Trọng Ái 
 Chức vụ: Hiệu trưởng
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hà Thanh 
 SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý.
HÀ TRUNG NĂM 2019
MỤC LỤC
MỤC
	NỘI DUNG	
TRANG
MỤC LỤC
Trang 1
1. 
MỞ ĐẦU
Trang 2
1.1.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trang 2
1.2.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trang 2
1.3.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Trang 3
1.4.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trang 4
1.5.
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trang 4
2. 
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trang 4
2.1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trang 4
2.2.
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN
Trang 5
2.3.
CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Trang 7
2.3.1.
Giải pháp 1: Xã hội hóa giáo dục từ công tác tham mưu chủ trương của lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp
Trang 7
2.3.2.
Giải pháp 2: Tuyên truyền nâng cao nhận thức về chủ trương của Đảng, nhà nước, của ngành về công tác xã hội hóa giáo dục đến với cán bộ, giáo viên, phụ huynh và nhân dân.
Trang 8
2.3.3.
Giải pháp 3: Xã hội hóa giáo dục từ nội lực lực lượng Cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường; Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm
Trang 10
2.3.4.
Giải pháp 4: Thực hiện triệt để, đúng đắn các văn bản hướng dẫn để vận dụng những nội dung, tuân thủ các nguyên tắc xã hội hóa giáo dục trong từng thời kỳ, thời điểm cho phù hợp
Trang 12
2.3.5.
Giải pháp 5: Xã hội hóa giáo dục phải mang tính đồng bộ các lực lượng để phát huy sức mạnh tổng lực nâng cao hiệu quả xã hội hóa giáo dục.
Trang 13
2.3.6.
Phát huy vai trò ứng dụng công nghệ và truyền thông trong công tác huy động xã hội hóa giáo dục.
Trang 14
2.3.7.
Phát huy truyền thống và giá trị nhà trường trong công tác Xã hội hóa giáo dục.
Trang 15
2.4.
HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
Trang 15
3. 
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Trang 17
3.1.
KẾT LUẬN
Trang 17
3.2.
KIẾN NGHỊ
Trang 18
3.2.1. 
Đối với Phòng Giáo dục & Đào tạo.
Trang 18
3.2.2. 
Đối với các nhà trường.
Trang 18
3.3.3.
Đối với Hiệu trưởng các nhà trường.
Trang 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC ĐỀ TÀI SKKN LOẠI C CẤP HUYỆN TRỞ LÊN
PHỤ LỤC
1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lý do chọn đề tài:	
Đảng ta đã xác định “Phát triển giáo dục là Quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế,...”. Như vậy, “xã hội hoá” là một trong 5 hướng đổi mới của Đảng ta đối với sự nghiệp giáo dục. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước đã thường xuyên có những chính sách và giải pháp để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển. Trong đó xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường phát triển giáo dục, một tư tưởng chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển giáo dục nhằm tạo sự chuyển biến sâu sắc, có tính cách mạng trong hoạt động thực tiễn, trở thành một hoạt động học tập rộng lớn và sâu sắc bắt rễ vào các lĩnh vực đời sống vật chất, tinh thần của xã hội để đảm bảo cho giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Từ lịch sử xa xưa đến những năm đầu lập nước như phong trào diệt giặc dốt, xoá nạn mù chữ,  và ngay cả trong chiến tranh, dưới làn mưa bom bão đạn, chính quyền và người dân vẫn duy trì sự phát triển giáo dục trong điều kiện hết sức khó khăn... Đến ngày nay xã hội hóa giáo dục đã thực sự trở thành một nội dung quan trọng của sự nghiệp đổi mới giáo dục.
Xã hội hóa giáo dục là vận động toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục nên mọi người có nghĩa vụ chăm lo phát triển giáo dục, đồng thời để giáo dục phục vụ cho mọi người. Trong đó yêu cầu về xã hội hóa quyền lợi về giáo dục là đỉnh cao, là mục tiêu, cốt lõi của xã hội hóa giáo dục; Tuy nhiên xã hội hóa trách nhiệm nghĩa vụ của mọi người đối với giáo dục là điều kiện nền tảng để xã hội hóa quyền lợi về giáo dục. 
Như vậy xã hội hóa giáo dục còn là việc mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội, phát huy và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển. Đây không những là chính sách lâu dài trong việc thực hiện các chính sách xã hội của Đảng ta mà còn là biện pháp cần thiết trong giai đoạn mà nhà nước chưa có đủ kinh phí cần thiết cho các hoạt động giáo dục. Hiện nay, phần lớn ngân sách giáo dục dùng để chi trả lương cho giáo viên (ước khoảng là 85%), phần chi các hoạt động giáo dục khác còn lại quá ít (ước khoảng 15%), phần chi cho xây dựng, tu bổ cơ sở vật chất hạn chế. Nguồn tài chính huy động xã hội hóa giáo dục là nguồn tài chính do các cơ quan nhà nước, tổ chức phi chính phủ, tổ chức hội, cá nhân có lòng hảo tâmtự nguyện đóng góp để phát triển giáo dục. 
Trong những năm qua, công tác xã hội hoá giáo dục ở địa phương đã có nhiều chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, trên thực tế chưa phát huy được hết thế mạnh của nó, cá biệt còn có những người dân vẫn còn thờ ơ với giáo dục, còn quan niệm, tư tưởng trông chờ, ỷ nại, còn cho rằng giáo dục là nhiệm vụ của các thầy cô giáo, là sự nghiệp, là nhiệm vụ riêng của các nhà trường nên việc huy động xã hội hóa giáo dục các nguồn lực nói chung và việc đầu tư tài chính, huy động cơ sở vật chất là nhiệm vụ của nhà trường, của ngân sách địa phương, của nhà nước. Không những thế mà còn không ủng hộ, thiếu hợp tác trong xã hội hóa giáo dục, còn có tình trạng đơn thư nặc danh khiếu nại, tố cáo vượt cấp gây ảnh hưởng lớn đến uy tín của các nhà giáo dục, các nhà trường đồng thời làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục. Đặc biệt tình trạng đơn thư nặc danh khiếu nại, tố cáo vượt cấp là bước rào cản lớn đến công tác xã hội hóa giáo dục, ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp phát triển của nhà trường. Nguyên nhân của những tồn tại trên đó chính là việc tuyên truyền để nâng cao nhận thức của toàn xã hội về xã hội hóa giáo dục còn nhiều hạn chế. Công tác chỉ đạo xã hội hóa giáo dục cũng chưa thực sự có chiều sâu và đạt hiệu quả cao. Trong đó việc một số cơ sở còn sảy ra tình trạng lạm thu, thu trái quy định làm ảnh hưởng chung đến công tác xã hội hóa giáo dục cũng như sự nghiệp giáo dục chung.
Để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm năm học 2018-2019, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục & Đào tạo, xây dựng trường chuẩn quốc gia sau 5 năm (2014-2019), cùng với địa phương Hà Thanh phấn đấu hoàn thành các tiêu chí và về đích nông thôn mới năm 2020, đáp ứng các yêu cầu cho đổi mới giáo dục phổ thông bắt đầu vào năm học 2020 – 2021 theo Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ đòi hỏi phải hoàn thiện đầy đủ các tiêu chuẩn, các hạng mục về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học yêu cầu bức thiết phải thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục. Để vượt qua những rào cản và thực hiện thành công công tác xã hội hóa giáo dục ở nhà trường tôi đã trăn trở, tìm tòi và nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp xã hội hóa giáo dục trong thời kỳ mới”. Đề tài đã có những bước tiến vững chắc và mang lại  nhiều chuyển biến đáng kể trong công tác xã hội hóa giáo dục.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài “Một số biện pháp xã hội hóa giáo dục trong thời kỳ mới” để đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục cơ bản những thực trạng khó khăn, huy động tối đa các nguồn lực tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cũng như tạo cảnh quan môi trường giáo dục trong lành, xanh, sạch, đẹp, an toàn. Đồng thời nhằm phần nào giúp cho người cán bộ quản lý có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về nhiệm vụ chỉ đạo công tác xã hội hóa giáo dục một cách linh hoạt, nhạy bén, biết vận dụng chủ trương xã hội hóa của nhà nước, đề ra biện pháp đúng đắn để thực hiện đạt hiệu quả. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Xã hội hóa giáo dục là vận động toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục. Gồm:
- Lãnh đạo Đảng, chính quyền, ngành.
- Giáo viên, phụ huynh học sinh, nhân dân.
- Các lực lượng xã hội.
Đề tài “Một số biện pháp xã hội hóa giáo dục trong thời kỳ mới” chỉ tập trung nghiên cứu nội dung: Vận động toàn xã hội tham gia đóng góp cho giáo dục. Để huy động xã hội hóa giáo dục có rất nhiều giải pháp, phạm vi đề tài này tác giả chỉ đi sâu vào một số giải pháp trọng tâm phù hợp với tình hình cụ thể trong nhà trường, chú trọng các giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị tạo điều kiện cho học sinh khi đến trường được an toàn, thân thiện, vui vẻ.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài  được nghiên cứu trên cơ sở thu thập thông tin để xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu; điều tra, khảo sát thực tế để nắm bắt về thực trạng vấn đề nghiên cứu; đồng thời thống kê, xử lý số liệu để đánh giá hiệu quả của đề tài. 
1.5. Những điểm mới của Sáng kiến kinh nghiệm:
- Phát huy vai trò ứng dụng công nghệ và truyền thông trong công tác huy động xã hội hóa giáo dục. 
- Phát huy truyền thống và giá trị nhà trường trong công tác Xã hội hóa giáo dục.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận của Sáng kiến kinh nghiệm:
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương 2- Khoá VIII và tiếp tục nhấn mạnh trong Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng ta “Phát triển giáo dục là Quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế,...”
Thực hiện chủ trương đường lối, các nghị quyết của Đảng, Bộ giáo dục & Đào tạo quan tâm chỉ đạo phát triển và từng bước đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, trong đó có bậc Tiểu học. Nhiều văn bản chỉ đạo xây dựng phát triển và đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo Bậc tiểu học như: Quyết định số 1336/GD-ĐT về việc ban hành Quy chế công nhận trường Tiểu học Đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 1996-2000; Quyết định số 32/2005/QĐ-BGD&ĐT về việc ban hành Quy chế công nhận trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia; Thông tư số 59/2012/TT-BGDĐT về việc Ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá, công nhận trường Tiểu học đạt mức chất lượng tối thiểu, trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, Thông tư số 17/2018/TT-BGDĐT ban hành Quy định về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia đối với trường tiểu học với mục tiêu là căn cứ để xây dựng kế hoạch đầu tư các nguồn lực cho giáo dục tiểu học, góp phần thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, tạo điều kiện đảm bảo cho trường tiểu học không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Cùng các văn bản chỉ đạo trên là Chỉ thị số 40/2008/CT-BGD&ĐT về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội. Đồng thời phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội một cách phù hợp và hiệu quả. Yêu cầu tập trung các nguồn lực để giải quyết dứt điểm những yếu kém về cơ sở vật chất, thiết bị trường học, tạo điều kiện cho học sinh khi đến trường được an toàn, thân thiện, vui vẻ.
Nhà trường tích cực tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền và phối hợp với các tổ chức đoàn thể của địa phương phải huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội để xây dựng cơ sở vật chất, bổ sung phương tiện, thiết bị dạy học (theo Điều 9,14,19- Chương II Quy định về Kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt Chuẩn Quốc gia), khen thưởng học sinh học giỏi, hỗ trợ học sinh nghèo.
Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế của đất nước còn gặp nhiều khó khăn, ngân sách nhà nước chưa có điều kiện đầu tư để đáp ứng nhu cầu xây dựng các trường học. Để đảm bảo các yêu cầu và tiêu chuẩn nói trên đồng thời thực hiện hiệu quả các chủ trưởng chính sách của Đảng, Chính phủ, các Bộ ngành đã có nhiều văn bản chỉ đạo, trong đó công tác Xã hội hóa được đặc biệt quan tâm như: Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về việc đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục; Nghị định số 69/ 2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo giáo dục; Công văn số 6890/BGDĐT-KHTC về việc hướng dẫn sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện cho các sơ sở giáo dục và Đào tạo; Điều này đòi hỏi các trường học phải biết vận dụng chủ trương xã hội hóa của nhà nước, đề ra biện pháp đúng đắn để thực hiện cho đơn vị đạt hiệu quả. 
Mặt khác, khi bàn về công tác giáo dục, Hồ Chủ Tịch đã từng dạy: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường với nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ giáo dục” 
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân đóng góp sức người, sức của, xây dựng nền giáo dục quốc dân phát triển dưới sự quản lí của Nhà nước”.
 	Như vậy, mỗi người dân đều nhận thấy đó là trách nhiệm của mình, nên đều tự nguyện và tích cực phối hợp hành động, đồng thời chính họ là người hưởng thụ mọi thành quả của hoạt động đó đem lại. Việc huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành có liên quan, các lực lượng của cộng đồng tham gia vào công tác giáo dục vào việc phát triển sự nghiệp giáo dục là một trong những đặc điểm của cách làm giáo dục và xã hội hóa giáo dục góp phần tạo điều kiện cho công tác giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn, thực hiện hiệu quả hơn nhiệm vụ: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng Sáng kiên kinh nghiệm:
Trong thời gian qua, về cơ bản các đơn vị trường học đã thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục tương đối hiệu quả đã đáp ứng cơ bản việc tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà trường góp phần từng bước cải tạo cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục. Nhất là cơ sở vật chất, điều kiện dạy - học đã được huy động từ nhiều nguồn, đáp ứng ngày càng đầy đủ, khang trang và hiện đại. Nhiều trường học kiên cố, đẹp được xây dựng thành công từ phong trào Xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên, công tác xã hội hóa giáo dục đa số ở các đơn vị còn hết sức khó khăn. 
Đối với Bậc Tiểu học ở huyện Hà Trung, tỷ lệ trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia là đơn vị đi đầu trong toàn tỉnh. Song tình trạng các nhà trường còn “lưu ban” công nhận lại trường chuẩn vẫn còn đang khá cao, trong đó có trường quá hạn đến 7 năm thậm chí đến 9 năm. Nguyên nhân chủ yếu chưa đáp ứng tiêu chuẩn về cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học. Bên cạnh đó, vì yêu cầu bức thiết về tăng cường cơ sở vật chất nên tình trạng lạm thu ở một số nhà trường còn sảy ra. Dẫn đến tình trạng đơn thư nặc danh, khiếu kiện vượt cấp về huy động nguồn lực tài chính vẫn còn nhiều ảnh hưởng đến uy tín nhà trường, đến hiệu trưởng. Vì thế nhiều hiệu trưởng biểu hiện tư tưởng “bình yên”, “an phận” không dám mạnh dạn thực hiện công tác huy động xã hội hóa giáo dục để tăng cường cơ sở vật chất vì lo lại bị khiếu kiện. 
Đối với xã Hà Thanh, huyện Hà Trung, công tác xã hội hóa giáo dục cũng nằm trong thực trạng khó khăn chung. Trong đó, công tác xã hội hóa giáo dục còn nhiều hạn chế về việc tuyên truyền, quán triệt chủ trương xã hội hóa giáo dục chưa được thực hiện đúng mức dẫn tới một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân, cán bộ Đảng viên chưa nhận thức đúng đắn về xã hội hóa giáo dục. Các tổ chức đoàn thể và nhân dân trên địa bàn chưa có nhiều đóng góp lớn cho việc xây dựng và phát triển giáo dục. 
Đối với trường Tiểu học Hà Thanh, nhà trường được công nhận trường chuẩn quốc gia giai đoạn 1996-2000 năm 2002, là một trong những đơn vị tốp đầu đạt tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia bởi ngoài các tiêu chuẩn khác thì tiêu chuẩn về cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học được thừa hưởng dự án chương trình kiên cố hóa trường lớp học là một dãy trường cao tầng và một số trang thiết bị được cấp khác. Sau khi được công nhận, những năm sau, việc đầu tư cơ sở vật chất gần như “ngủ yên”, thậm chí nhiều hạng mục xuống cấp, nhiều hạng mục lỗi thời không đảm bảo tiêu chuẩn, nhiều hạng mục phải thanh lý bởi hết hạn sử dụng hoặc hư hỏng nặng. Trong tình hình cắt giảm đầu tư công của Chính phủ, ngân sách nhà nước chi công tác xây dựng cơ sở vật chất hạn chế. Chính quyền địa phương ít quan tâm với lý do “đã đạt chuẩn rồi” nên không cần thiết phải đầu tư mà phải để lo công việc khác vì kinh phí địa phương cũng hết sức khó khăn. Phụ huynh đa số không đồng tình ủng hộ việc huy động các nguồn lực đặc biệt là nguồn lực tài chính cho công tác tăng cường cơ sở vật chất thiết bị dạy học, coi vấn đề cơ sở vật chất là của nhà nước, của địa phương, phổ biến có thái độ ỷ nại, trông chờ; Bên cạnh đó, Hà Thanh là một xã thuần nông, người dân chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi manh mún, thu nhập thấp, các hộ kinh doanh chỉ nhỏ lẻ, tỷ lệ hộ kinh doanh thấp, không có các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế đóng trên địa bàn... Vì vậy, việc huy động các nguồn lực tài chính để tăng cường cơ sở vật chất hết sức khó khăn. (Phụ lục 1- Thực trang huy động XHHGD trong những năm trước).
Tồn tại những thực trạng và khó khăn trong công tác xã hội hóa nói trên bởi những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất: Chưa làm tốt công tác tuyên truyền những chủ trương của Đảng, nhà nước, của ngành và những yêu cầu cần thiết của nhà trường trong công tác xã hội hóa giáo dục đến với cán bộ, giáo viên, phụ huynh và nhân dân.
Thứ hai: Chưa làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo đảng, chính quyền địa phương, lãnh đạo ngành trong công tác huy động xã hội hóa giáo dục.
Thứ ba: Lựa chọn nội dung để huy động xã hội hóa giáo dục chưa trọng tâm, chưa phù hợp theo từng thời điểm, theo yêu cầu cần thiết của nhà trường.
Thứ tư: Ngân sách nhà nước đầu tư tăng cường cơ sở vật chất không có, ngân sách địa phương hạn hẹp, địa phương là xã thuần nông, thu nhập của người dân thấp nên việc huy động xã hội hóa giáo dục khó khăn.
Qua tìm hiểu, tôi được biết, nhân dân trong xã tuy đời sống kinh tế đa số chưa phải là khá giả nhưng họ sẵn sàng đầu tư cho con em họ nếu thấy hiệu quả và tin cậy. Nắm bắt tình hình thực tế của địa phương, của nhà trường, là một hiệu trưởng, tôi suy nghĩ: nếu chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước trong thời buổi kinh tế lạm phát toàn cầu như hiện nay thì chưa biết đến lúc nào nhà trường mới có được một cơ ngơi khang trang cho thầy và trò dạy – học, mà phải biết dựa vào dân, khai thác sự đóng góp của mọi tổ chức cá nhân và các nhà hảo tâm trên địa bàn để tăng cường cơ sở vật chất, cải tạo cảnh quan nhà trường. 
Để thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục trong nhà trường và khắc phục những tồn tại, đề tài “Một số biện pháp xã hội hóa giáo dục trong thời kỳ mới” mà tôi đã nghiên cứu và vận dụng trong thời gian qua đã cải thiện cơ bản thực trạng tồn tại trên.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 
2.3.1. Giải pháp 1. Xã hội hóa giáo dục từ công tác tham mưu chủ trương của lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp: 
 Việc tạo dựng mối quan hệ tốt với chính quyền địa phương để tranh thủ sự chỉ đạo, giúp đỡ là một việc làm rất quan trọng, vì vậy nhà trường đã tích cực tham gia các công việc với UBND xã; Hàng năm khi tổ chức những kì cuộc lớn nhà trường thường mời lãnh đạo xã, đại diện các ban ngành đoàn thể, đại diện hội cha mẹ học sinh tới dự để họ tận mắt chứng kiến các hoạt động của trường, thấy được cách tổ chức của trường, nề nếp, khả năng của học sinh
Vì vậy, lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp là lực lượng quan trọng quyết định sự đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường và cũng là lực lượng tạo cơ chế và tạo điều kiện cho việc Xã hội hóa giáo dục triển khai thuận lợi. Chính quyền các cấp với chức năng quản lý Nhà nước không chỉ huy động, khuyến khích mà còn tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động và tổ chức điều hành sự phối hợp các lực lượng xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục. Tôi xác định: nếu có sự nhất trí của lãnh đạo địa phương sẽ giúp cho công việc nhà trường được thuận lợi và ngược lại lãnh đạo sẽ tin tưởng vào nhà trường. Làm tốt công tác tham mưu sẽ giúp cho công tác Xã hội hóa của nhà trường có 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_xa_hoi_hoa_giao_duc_t.doc