Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Ngữ văn 9
I. Cơ sở lí luận
1. Quan niệm về hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Hiện nay, hoạt động trải nghiệm sáng tạo đã được áp dụng khá phổ biến trong dạy học. Đây được xem là một hoạt động mà qua đó giúp học sinh kết nối kiến thức được học trong sách vở với cuộc sống.
Trong dự thảo về chương trình giáo dục phổ thông mới, Bộ giáo dục đưa ra cũng đã nêu “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục trong đó từng học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong nhà trường hoặc trong xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, các kỹ năng và tích luỹ kinh nghiệm riêng của cá nhân. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học; đồng thời trong kế hoạch giáo dục cũng bố trí các hoạt động trải nghiệm sáng tạo riêng, mỗi hoạt động này mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến thức, kỹ năng khác nhau. Bằng hoạt động trải nghiệm của bản thân, mỗi học sinh vừa là người tham gia, vừa là người kiến thiết và tổ chức các hoạt động cho chính mình nên học sinh không những biết cách tích cực hoá bản thân, khám phá bản thân, điều chỉnh bản thân mà còn biết cách tổ chức hoạt động, tổ chức cuộc sống và biết làm việc có kế hoạch, có trách nhiệm”.
Với cách hiểu như vậy thì hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của giáo viên, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo không gọi là môn học mà là hoạt động giáo dục. Môn học được tạo nên bởi một hoặc một vài lĩnh vực khoa học nên nội dung của nó được cấu trúc chặt chẽ còn hoạt động giáo dục sử dụng tích hợp kiến thức, kỹ năng của nhiều lĩnh vực để thực hiện mục tiêu hoạt động của mình.
2. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo gắn với đổi mới phương pháp dạy học.
Học tập dưới dạng hoạt động trải nghiệm là phương pháp thực hiện học đi đôi với hành, học qua làm, học giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống ngay trong lớp, trong trường. Đây được đánh giá là phương pháp ưu việt cho sự phát triển năng lực sáng tạo, giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức, hình thành các kĩ năng, giá trị và phẩm chất của bản thân.
Với xu thế phát triển của giáo dục hiện nay thì hoạt động TN-ST đã và đang được triển khai như một biện pháp hữu hiệu trong việc đổi mới PPDH góp phần đổi mới giáo dục nói chung.
Tại văn bản số 27/HD/PGD&ĐTcủa Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Krông Ana về việc hướng dẫn các trường THCS triển khai thực hiện nhiệm vụ Giáo dục THCS năm học 2018-2019 cũng đã nêu một trong những nhiệm vụ trọng tâm là “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học phù hợp với yêu cầu hiện nay. Tăng cường ứng dụng CNTT trong dạy học; Dạy học trải nghiệm sáng tạo; kích thích HS nghiên cứu khoa học; Dạy học tài liệu địa phương” . Như vậy dạy học hoạt động TN-ST được xem là một nội dung quan trọng trong đổi mới dạy học và đây cũng là một phương pháp dạy học mới nhằm tiếp cận dần với nội dung chương trình giáo dục phở thông mới. Thông qua hoạt động TN-ST học sinh sẽ nâng cao khả năng vận dụng kiến thức từ các bài học vào từng tình huống thực tiễn của cuộc sống. Chính điều này đã làm cho học sinh tiến gần hơn đến với những chân lí khoa học.
Như vậy có thể thấy rằng: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được xem là một phần quan trong của việc đổi mới phương pháp dạy học. Kết quả hoạt động trải nghiệm của học sinh có thể được sử dụng để đánh giá kết quả quá trình học tập của học sinh.
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU. Đặt vấn đề. Hiện nay giáo dục phổ thông nước ta đã và đang chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Đòi hỏi người giáo viên phải tích cực đổi mới về phương pháp dạy học theo hướng dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất, đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập của học sinh. Để đáp ứng được yêu cầu đó, dạy học hoạt động trải nghiệm sáng tạo được xem là phương pháp dạy học tích cực và có hiệu quả. Đối với học sinh, học tập dưới dạng hoạt động trải nghiệm là phương pháp thực hiện học đi đôi với hành, học qua làm, học giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống ngay trong lớp, trong trường. Đây được đánh giá là phương pháp ưu việt cho sự phát triển năng lực sáng tạo, giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức, hình thành các kĩ năng, giá trị và phẩm chất của bản thân. Từ thực tiễn giảng dạy, tôi luôn trăn trở và suy nghĩ làm thế nào để mỗi bài học, mỗi hoạt động của học sinh đều để lại được dấu ấn tích cực trong tâm trí của các em, làm thế nào để các em tham gia hoạt động trải nghiệm như là một nhu cầu của bản thân, các em có cơ hội được thể hiện mình. Qua đó giáo viên phát hiện được năng lực thực sự của học sinh để có những điều chỉnh phù hợp về phương pháp dạy học.. Từ những lí do đó tôi chọn đề tài “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Ngữ văn 9” làm đề tài nghiên cứu. Trên tinh thần tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm, những vấn đề mà tôi đưa ra sẽ góp phần giúp giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn có những biện pháp hiệu quả hơn trong việc hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm sáng tạo; giúp học sinh thêm yêu thích môn học Ngữ văn, tham gia tích cực vào hoạt động học tập nói chung và trong mỗi tiết học Ngữ văn nói riêng hướng đến mục đích nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu đề tài này tôi hướng đến những mục đích sau đây: - Tìm hiểu tồn tại hạn chế của việc hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong môn học Ngữ văn, là nguyên nhân dẫn đến chất lượng tổ chức hoạt động chưa cao. - Từ thực tiễn giảng dạy, tôi đưa ra những biện pháp hiệu quả để khắc phục những tồn tại nói trên; xác định những biện pháp cụ thể, có hiệu quả để áp dụng vào trong giảng dạy; nâng cao chất lượng của việc tổ chức, hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, làm cho bộ môn Ngữ văn trở nên gần gũi với học sinh, các em yêu thích bộ môn này hơn. - Giúp học sinh hiểu rõ hơn về hoạt động trải nghiệm sáng tạo; ý nghĩa của hoạt động này trong học tập; các em nhận thức được hoạt động trải nghiệm sáng tạo như là một nhu cầu thiết yếu của bản thân.. từ đó các em ý thức được đầy đủ hơn về trách nhiệm của mình trong mỗi hoạt động đồng thời phấn đấu vươn lên trong học tập. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Cơ sở lí luận Quan niệm về hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Hiện nay, hoạt động trải nghiệm sáng tạo đã được áp dụng khá phổ biến trong dạy học. Đây được xem là một hoạt động mà qua đó giúp học sinh kết nối kiến thức được học trong sách vở với cuộc sống. Trong dự thảo về chương trình giáo dục phổ thông mới, Bộ giáo dục đưa ra cũng đã nêu “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục trong đó từng học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong nhà trường hoặc trong xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, các kỹ năng và tích luỹ kinh nghiệm riêng của cá nhân. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học; đồng thời trong kế hoạch giáo dục cũng bố trí các hoạt động trải nghiệm sáng tạo riêng, mỗi hoạt động này mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến thức, kỹ năng khác nhau. Bằng hoạt động trải nghiệm của bản thân, mỗi học sinh vừa là người tham gia, vừa là người kiến thiết và tổ chức các hoạt động cho chính mình nên học sinh không những biết cách tích cực hoá bản thân, khám phá bản thân, điều chỉnh bản thân mà còn biết cách tổ chức hoạt động, tổ chức cuộc sống và biết làm việc có kế hoạch, có trách nhiệm”. Với cách hiểu như vậy thì hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của giáo viên, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo không gọi là môn học mà là hoạt động giáo dục. Môn học được tạo nên bởi một hoặc một vài lĩnh vực khoa học nên nội dung của nó được cấu trúc chặt chẽ còn hoạt động giáo dục sử dụng tích hợp kiến thức, kỹ năng của nhiều lĩnh vực để thực hiện mục tiêu hoạt động của mình. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo gắn với đổi mới phương pháp dạy học. Học tập dưới dạng hoạt động trải nghiệm là phương pháp thực hiện học đi đôi với hành, học qua làm, học giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống ngay trong lớp, trong trường. Đây được đánh giá là phương pháp ưu việt cho sự phát triển năng lực sáng tạo, giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức, hình thành các kĩ năng, giá trị và phẩm chất của bản thân. Với xu thế phát triển của giáo dục hiện nay thì hoạt động TN-ST đã và đang được triển khai như một biện pháp hữu hiệu trong việc đổi mới PPDH góp phần đổi mới giáo dục nói chung. Tại văn bản số 27/HD/PGD&ĐTcủa Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Krông Ana về việc hướng dẫn các trường THCS triển khai thực hiện nhiệm vụ Giáo dục THCS năm học 2018-2019 cũng đã nêu một trong những nhiệm vụ trọng tâm là “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học phù hợp với yêu cầu hiện nay. Tăng cường ứng dụng CNTT trong dạy học; Dạy học trải nghiệm sáng tạo; kích thích HS nghiên cứu khoa học; Dạy học tài liệu địa phương” . Như vậy dạy học hoạt động TN-ST được xem là một nội dung quan trọng trong đổi mới dạy học và đây cũng là một phương pháp dạy học mới nhằm tiếp cận dần với nội dung chương trình giáo dục phở thông mới. Thông qua hoạt động TN-ST học sinh sẽ nâng cao khả năng vận dụng kiến thức từ các bài học vào từng tình huống thực tiễn của cuộc sống. Chính điều này đã làm cho học sinh tiến gần hơn đến với những chân lí khoa học. Như vậy có thể thấy rằng: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được xem là một phần quan trong của việc đổi mới phương pháp dạy học. Kết quả hoạt động trải nghiệm của học sinh có thể được sử dụng để đánh giá kết quả quá trình học tập của học sinh. Thực trạng. 1. Chương trình hoạt động TN- ST trong môn học Ngữ văn 9. Trường THCS Lê Văn Tám nằm trên địa bàn xã Bình Hòa, huyện Krông Ana, tỉnh ĐăkLăk. Năm học 2018-2019, trường có tổng số 427 học sinh, định biên thành 12 lớp trong đó khối 9 có 3 lớp với tổng số 94 học sinh. Những năm qua, dạy học hoạt động TN-ST đã được giáo viên áp dụng vào trong quá trình dạy học như một phần của nội dung chương trình giảng dạy nhất là đối với môn học Ngữ văn. Trong chương trình lớp 9 có 2 chủ đề hoạt động là: Chủ đề 1: Phụ nữ xưa và nay. Chủ đề 2: Người lính. Giáo viên có thể lựa chọn một trong hai hình thức tổ chức các hoạt động là: Lồng ghép trong tiết học hoặc tổ chức dưới dạng một buổi sinh hoạt ngoại khóa. Thực trạng dạy học hoạt động TN-ST trong môn Ngữ văn 9 tại trường THCS Lê Văn Tám. Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rằng việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo có những thuận lợi và khó khăn như sau: Thuận lợi: Các chủ đề hoạt động đã được quy định trong phân phối chương trình là cơ sở để giáo viên dạy học hoạt động TN- ST bám sát chương trình giảng dạy. Hoạt động giảng dạy trong nhà trường luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo, sự chỉ đạo trực tiếp từ bộ phận chuyên môn, sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức trong nhà trường. Giáo viên đã rất tích cực trong việc hướng dẫn học sinh tham gia hoạt động trải nghiệm. Khó khăn: Về cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều thiếu thốn: Chưa có Hội trường và sân khấu nên mỗi khi tổ chức hoạt động tập thể phải tận dụng không gian, sân khấu ngoài trời. Việc dạy học hoạt động trải nghiệm sáng tạo còn chủ yếu dựa vào khâu tổ chức của giáo viên ở trên lớp, chủ yếu các em trải nghiệm là thông qua việc tìm hiểu thông tin và báo cáo nội dung hiểu biết, thực tế hoạt động TN-ST còn nặng về lý thuyết. Đối với học sinh, các em là học sinh nông thôn nên việc được tham gia hoặc chứng kiến các hoạt động của địa phương liên quan đến chủ đề người lính hay người phụ nữ là tương đối hạn chế. Ở địa phương không có cở sở hay địa điểm nào để đáp ứng nhu cầu về trải nghiệm tham quan điều này cũng gây nên nên hạn chế cho các em khi tìm hiểu học tập, trải nghiệm về hai chủ đề nói trên. Việc hướng dẫn học sinh ở một số giáo viên còn mang tính chủ quan, một chiều – tức là giáo viên giao nhiệm vụ và học sinh thực hiện rồi báo cáo, làm như vậy chưa thực sự phát huy được tiềm năng sáng tạo của học sinh. Chưa tạo cho các em nhận thức về hoạt động TN-ST là một nhu cầu của cuộc sống, giáo viên chưa bám sát được học sinh, không nắm bắt hết được những khó khăn vướng mắc của học sinh để giúp các em tháo gỡ. Một số học sinh cũng chưa nhận thức đầy đủ được những yêu cầu cụ thể của hoạt động như: Hoạt động này để làm gì? Cần phải đạt được gì? Vì vậy mà một số em không thực sự hào hứng tham gia, nhiều khi không hoàn thành được nhiệm vụ của cá nhân. Để làm rõ hơn về những tồn tại và hạn chế của vấn đề này, ngay từ đầu năm, tôi đã thực hiện một khảo sát đối với 94 em học sinh lớp 9 trong năm học 2018-2019 với nội dung và kết quả như sau: Câu hỏi 1. Em có thích học môn Ngữ văn không? Vì sao? Câu hỏi 2. Em thấy hoạt động TN-ST trong dạy học Ngữ văn có cần thiết không? Câu hỏi 3. Em có hứng thú khi tham gia các hoạt động trải nghiệm trong môn Ngữ văn không? Kết quả khảo sát cho thấy vẫn có khoảng 20% học sinh không thích học bộ môn Ngữ văn vì cho rằng đây là môn học có khối lượng kiến thức nhiều, bài học văn bản dài nên khó nhớ. Điều này cho thấy rằng học sinh vẫn cảm nhận việc học và tiếp thức kiến thức trên lớp có phần khó khăn. Tuy nhiên 95% học sinh lại rất đồng tình và hứng thú với việc tham gia hoạt động trải nghiệm nhất là trải nghiệm theo hình thức hội thi hoặc tham quan, dã ngoại... Cũng từ kết quả khảo sát cho thấy đa số học sinh thích tham gia các hoạt động TNST , hoạt động ngoại khóa trong khi học môn Ngữ văn song việc các em tham gia chưa được chủ động và tích cực. Nếu xét về tâm lí học sinh thì thấy một thực tế là học sinh thích những tiết học này vì được vui chơi, được tự do hơn so với những bài học trên lớp. Nguyên nhân: - Một số học sinh không thích học môn Ngữ văn vì các em cho rằng bài học dài, kiến thức nhiều khó nhớ. Một số học sinh khi có học lực yếu bộ môn này thường tỏ ra nhút nhát, thếu tự tin khi phải thể hiện mình trước số đông. Hoặc là các em chưa được tạo cơ hội để thể hiện mình trước tập thể: ví dụ có em kể chuyện không hay nhưng lại hát rất tốt; có em lực học tốt song thể hiện ý kiến trước tập thể lại tỏ ra nhút nhát, nếu trong quá trình giảng dạy giáo viên chỉ đánh giá về năng lực học tiếp thu kiến thức thì dễ làm cho học sinh bị nản chí vì luôn thấy mình “không bằng ai”, từ đó tạo nên thói quen ỉ lại, dựa dẫm người khác. - Phần vì của hoạt động rộng, yêu cầu hướng dẫn học sinh phải tỉ mỉ, phần vì cơ sở vật chất và điều kiện của đơn vị còn thiểu thốn nên giáo viên chưa thực sự nhiệt trình hướng dẫn học sinh thực hiện các chủ đề trải nghiệm. Thực trạng trên đặt ra vấn đề: Làm thế nào để tổ chức và hướng dẫn cho HS tham gia hoạt động TN-ST một cách có hiệu quả, phát huy được năng lực sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập, làm cho bộ môn Ngữ văn trở nên gần gũi và nhẹ nhàng hơn với học sinh. III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề. Dạy học định hướng phát triển năng lực ở học sinh thì giáo viên cần phải nhận biết được khả năng, năng lực của học sinh thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau. Có học sinh thì kể chuyện hay; có học sinh viết văn hay; có học sinh diễn kịch tốt, có em mạnh dạn nhưng có em nhút nhát..vv.. trong dạy học giáo viên cần phải kích thích được học sinh để các em có thể tham gia trải nghiệm một cách chủ động, nhiệt tình. Từ thực tế giảng dạy, trên cơ sở đánh giá những nội dung và kết quả tổ chức triển khai các hoạt động TN-ST trong những năm học trước, hướng đến những điều chỉnh tích cực đổi mới phương pháp dạy học tôi đã tiến hành những biện pháp sau đây: Biện pháp 1. Giúp học sinh nhận thức đầy đủ về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong học tập môn Ngữ văn 9. Ngay từ đầu năm học giáo viên phải định hướng cho học sinh hiểu rõ được Thế nào là hoạt động trải nghiệm sáng tạo? Tham gia hoạt động để làm gì? Học sinh phải làm gì trong mỗi hoạt động đó?... Đồng thời để kích thích các em sự tò mò, hào hứng tham gia các hoạt động giáo viên cần phải hướng dẫn giúp các em có được cái nhìn tổng thể về những yêu cầu cho mỗi hoạt động theo chủ đề hoặc yêu cầu về hoạt động trải nghiệm cho mỗi bài học. Đối với chủ đề hoạt động trải nghiệm “Phụ nữ xưa và nay” được triển khai từ khi học xong tiết 41 và học sinh báo cáo kết quả sau khi học tiết 57. Yêu cầu học sinh phải có được những cảm về những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua từng thời kỳ: trong thời kỳ đất nước còn chế độ phong kiến và trong thời kỳ ngày nay. Qua các văn bản đã được học gồm: “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ; “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; truyện “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” của Nguyễn Đình Chiểu, học sinh cần thể hiện được những cảm nhận của bản thân về người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ. Từ nhừng hiểu biết và liên hệ ở với vẻ đẹp của người phụ nữ trong thời đại ngày nay. Kết quả của hoạt động học sinh phải thể hiện bằng một “sản phẩm” cụ thể mang dấu ấn cá nhân, thể hiện quan điểm riêng của bản thân. Học sinh cần kết hợp những kiến thức hiểu biết đã được tìm hiểu ở chương trinh đã học ở các lớp 6;7;8. Với chủ đề hoạt động trải nghiệm về “Người lính”, chủ đề này được triển khai từ khi học xong tiết 58 và học sinh báo cáo kết quả sau khi học tiết 72. Thông qua kiến thức của các bài học gồm: “Đồng chí” của Chính Hữu; “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật”; “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, học sinh tham gia hoạt động trải nghiệm bằng những hình thức khác nhau như: tham quan những di tích lịch sử; gặp gỡ trực tiếp với các cựu chiến binh hay nghe kể chuyện về hay thể hiện tình cảm của mình với những người lính, người chiến sĩ cách mạng trong từng thời kì lịch sử thông qua những bài hát, những câu chuyện kể .vv.. Trong bộ môn Ngữ văn, khi tiếp cận với một tác phẩm văn học, học sinh có thể có những cách nhìn khác nhau, tuy nhiên giáo viên là người định hướng cho các em thể hiện quan điểm mang tính nhân văn. Học sinh là chủ thể của hoạt động TN-ST, các em cần thể hiện quan điểm, ý kiến của cá nhân, của nhóm đối với những vấn đề liên quan đến bài học. Kết quả hoạt động của học sinh phải được thể hiện thành “sản phẩm” mang dấu ấn của cá nhân. Cũng cần định hình cho học sinh thấy được hình thức tổ chứchoạt động trải nghiệm sáng tạo sẽ được tiến hành. Đối với trường Lê Văn Tám, do đặc điểm của địa phương và tình hình thực tế của nhà trường, giáo viên có thể chọn một số hình thức hoạt động trải nghiệm như: Hội thi; Tham quan thực địa; Biện pháp 2. Giúp giáo viên bộ môn nâng cao chất lượng trong việc xây dựng kế hoạch, thiết kế chương trình cho mỗi hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Có thể nói vai trò của người giáo viên được xem là một tổng đạo diễn. Để chuẩn bị cho mỗi hoạt động cần phải tiến hành xây dựng kế hoạch chi tiết để hướng dẫn cho học sinh tham gia hoạt động theo một kịch bản nhất định. Các nội dung trải nghiệm cần phải phù hợp với chủ đề, đúng quan điểm đường lối giáo dục. Kế hoạch cho một chủ đề hoạt động trải nghiệm cần đảm bảo các yêu cầu sau: Đáp ứng đúng nhu cầu tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Đặt tên cho hoạt động Xác định mục tiêu của hoạt động TNST Xác định nội dung và phương pháp, phương tiện, hình thức của hoạt động Lập kế hoạch Thiết kế chi tiết hoạt động trên bản giấy. Kiểm tra, điều chỉnh và hoàn thiện chương trình hoạt động Kế hoạch tổng thể này cần xác định cụ thể về nội dung và hình thức tổ chức hoạt động (tham khảo phụ lục 1) Người giáo viên bộ môn xây dựng kế hoạch chi tiết có sự tham khảo ý kiến của nhóm giáo viên cùng bộ môn. Kế hoạch này phải được thông qua tổ chuyên môn góp ý và duyệt trước khi thực hiện. Biện pháp 3. Giúp học sinh trở thành chủ thể của hoạt động. Hoạt động TN-ST là hoạt động mà chính học sinh là chủ thể, vì vậy giáo viên tuyệt đói không được làm thay các em. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn. Ngay từ đầu năm học, giáo viên cần định hình cho học sinh thấy được nhiệm vụ sắp tới là có những hoạt động trải nghiệm nào. Các em nhận thức được nhiệm vụ trước mắt và phấn đấu để hướng tới. Hai chủ đề hoạt động trải nghiệm trong chương trình Ngữ văn 9 đều được thực hiện trong học kì I nên việc định hướng cho học sinh phải được tiến hành từ đầu năm, giúp các em có ý tưởng sáng tạo và ý thức tích lũy kiến thức cho mỗi hoạt động. Giáo viên nên hướng cho học sinh lựa chọn nội dung thực hiện trong cả học kì dựa vào điều kiện, khả năng của bản thân, của lớp, của nhà trường, của địa phương có thể tổ chức được. Việc này sẽ tạo tâm thế sẵn sàng thực hiện cho học sinh. Để thực hiện nội dung này cần làm tốt các bước sau: Bước 1. Lập nhóm học sinh. Nội dung của một hoạt động có thể rất phong phú và nhiệm vụ của mỗi nhóm có thể cũng khác nhau, vì vậy khi lập nhóm học sinh giáo viên cần phải dựa vào một số tiêu chí như: nhóm theo sở trường; nhóm theo năng lực các nhân..vv và phải phát huy vai trò của ban cán sự lớp trong việc lập nhóm. Để có được một nhóm tối ưu giáo viên cần chú ý những nội dung sau: Mục đích: Hoạt động này hướng đến trải nghiệm học tập nào? Thời lượng: Hoạt động nhóm này diễn ra trong bao lâu? Đặc điểm học sinh: Những đặc điểm nào ảnh hưởng đến nhiệm vụ hoặc trải nghiệm học tập này? Thành phần tham gia: Nhóm gồm các học sinh có đặc điểm giống nhau hay không giống nhau? Hình thức tổ chức / Quy mô: Hình thức tổ chức nào phù hợp nhất với hoạt động học tập? Quy mô như nào thì đạt được mục đích? Cách thức tiến hành: Các nhóm sẽ được tiến hành như thế nào? Nhóm tối ưu là nhóm có khả năng kết hợp và hỗ trợ tốt cho nhau trong quá trình làm việc. Mỗi thành viên có ý thức trách nhiệm và hoàn thành tốt phần nhiệm vụ của mình giúp nhóm dễ đạt được mục tiêu của hoạt động. (Tham khảo phụ lục 2) Bước 2. Hướng dẫn nhóm học sinh xây dựng kế hoạch. Kế hoạch của nhóm là một phần cụ thể hóa kế hoạch tổng thể của giáo viên. Giáo viên tránh làm thay, làm hộ học sinh. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người tư vấn giúp đỡ. Làm như vậy các em mới có cơ hội bộc lộ khả năng của bản thân, rèn luyện các phẩm chất, năng lực cần thiết. Học sinh phải định hình những công việc cần làm làm là gì? Tổ chức ở đâu ? Những ai thực hiện ? Cần có sự giúp đỡ của ai ở trong hoặc ngoài nhà trường ? Cần những gì về cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng để thực hiện? Các em vừa là người thu thập và xử lý thông tin, phân tích tình hình và tổ chức lớp để bàn bạc đi đến thống nhất nội dung công việc cần làm. Ở bước này giáo viên cần phải tư vấn hướng dẫn chi tiết cho mỗi nhóm, giúp các em nhận thấy được mục tiêu và cần đạt được sau khi kết thúc hoạt động. Bước 3.Tổng duyệt chương trình Sau khi hướng dẫn và góp ý cho các nhóm, mõi nhóm học sinh sẽ chọn nội dung và phương pháp thực hiện hoạt động của nhóm mình, kế hoạch này được xem là “kế hoạch con” của chủ đề hoạt động trải nghiệm. Vì vậy kế hoạch của các nhóm được kết nối với nhau phải có sự th
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_huong_dan_hoc_sinh_th.doc