Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 5 diễn đạt câu đúng và hay trong phân môn Tập làm văn
Cơ sở thực tiễn
Ở Tiểu học, Tập làm văn là một phân môn khó vì học sinh mới bước đầu viết
thành bài văn hoàn chỉnh, vốn sống của học sinh ít, kĩ năng tìm ý, sắp xếp ý
chưa thành thạo, còn nhiều hạn chế, kĩ năng sử dụng từ để viết thành câu, liên
kết các câu thành đoạn là khó đối với đại đa số học sinh. Để học sinh lớp 5 viết
được những câu đúng, hay là một vấn đề khó và đòi hỏi nhiều công sức. Ở lớp 1,
2, 3 các em mới chỉ đặt câu đơn giản gồm 2 thành phần. Lên lớp 4 yêu cầu đặt
câu có các thành phần phụ. Lớp 5 học thêm các lớp từ đồng âm, nhiều nghĩa,
đồng nghĩa, đồng âm, trái nghĩa, quan hệ từ, câu ghép, liên kết các vế trong câu,
liên kết các câu trong đoạn Do vậy học sinh rất lúng túng khi dùng từ đặt câu,
viết văn.
Học sinh khó nhận ra được lỗi câu sai của mình, của bạn, mà mỗi bài của học
sinh lại sai các lỗi câu khác nhau, vốn từ của học sinh còn ít, khả năng diễn đạt
câu văn chưa thật thành thạo. Học sinh còn ngại sửa lỗi, do đó việc sửa lỗi câu
thường chưa triệt để, chưa đạt được hiệu quả tối ưu. Bên cạn đó, một số giáo
viên chưa thực sự tìm tòi sáng tạo những biện pháp giúp các em chữa lỗi câu để
có những câu văn đúng, rõ ràng, mạch lạc.
Năm 2016- 2017 tôi được phân công dạy lớp 5E. Đây là một lớp học sinh học
tương đối đều nhưng bài tập làm văn viết nào cũng có nhiều học sinh sai lỗi câu,
các lỗi câu sai rất đa dạng, nhiều kiểu loại. Nếu bài có lỗi câu thì bài viết đó khó3/22
có thể có câu văn đặc sắc, sinh động. Học sinh viết được câu văn diễn đạt trọn
vẹn một ý, liên kết chặt chẽ là là tiền đề để viết một bài văn hay, sinh động, có
hình ảnh, cảm xúc và tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn khác như :
Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện Ngoài ra việc viết được những
câu văn đúng và hay còn giúp các em yêu thích tiếng Việt, góp phần giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt. Chính vì thế nên tôi chọn đề tài “Một số biện pháp
giúp học sinh lớp 5 diễn đạt câu đúng và hay trong phân môn Tập làm văn”
II. Mục đích nghiên cứ
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 diễn đạt câu đúng và hay trong phân môn Tập làm văn Lĩnh vực: Tiếng Việt Cấp học: Tiểu học NĂM HỌC 2016-2017 Mã SKKN MỤC LỤC Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài 1. Cơ sở lí luận 1 2. Cơ sở thực tiễn 2 II. Mục đích nghiên cứu 3 III. Đối tượng nghiên cứu khảo sát, thực nghiệm 3 1. Đối tượng nghiên cứu khảo sát 3 2. Đối tượng thực nghiệm 3 IV. Phương pháp nghiên cứu 3 V. Phạm vi và kế hoach nghiên cứu: 3 1. Phạm vi 3 2. Kế hoạch nghiên cứu 3 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I Thực trạng 1. Thuận lợi 4 2. Khó khăn 4 II. Giải quyết vấn đề 5 1. Các lỗi sai về câu trong phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 5 5 1.1 Lỗi trong câu 5 1.2 Lỗi ngoài câu 6 2 Các biện pháp giúp học sinh lớp 5 diễn đạt câu đúng và hay 6 2.1 Định hướng nội dung 7 2.2 Hướng dẫn học sinh quan sát 7 2.3 Dạy tốt các kiến thức liên quan đến câu 8 2.4. Làm giàu vốn từ cho học sinh qua các bài Mở rộng vốn từ thuộc các chủ đề, các lớp từ tiếng Việt 12 2.5 Hướng dẫn một số biện pháp nghệ thuật phù hợp với học sinh Tiểu học 13 2.6 Phát huy năng lực của học sinh trong hoạt động sửa lỗi 14 3. Kết quả 18 C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 21 I. Kết luận 21 II. Khuyến nghị 21 1/22 A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài 1. Cơ sở lí luận Giáo dục Tiểu học là bậc học mà mọi quốc gia đều quan tâm. Bậc học này giúp học sinh phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ và các kĩ thuật cơ bản để phát triển năng lực cá nhân; tính năng động, sáng tạo và hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh có thể học lên lớp trên một cách tốt hơn. Môn Tiếng Việt rèn cho học sinh 4 kĩ năng cơ bản, giúp các em giao tiếp tốt trong cuộc sống. Dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, tri thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đồng thời thông qua bộ môn Tiếng Việt nhằm giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho các em. Để học sinh có được điều đó, trước hết phải giúp học sinh biết cách sắp xếp các từ ngữ thành câu văn hoàn chỉnh. Đó là công việc giúp học sinh có được những câu văn đúng về nội dung và ngữ pháp. Đối với Tiếng Việt, câu chính là yếu tố đầu tiên giúp các em đạt hiệu quả cao trong quá trình tư duy và giao tiếp Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp. Mục tiêu của phân môn Tập làm văn là trang bị cho học sinh những kiến thức và kĩ năng làm văn, góp phần cùng môn học khác mở rộng vốn sống, tư duy lôgic, bồi dưỡng tâm hồn cảm xúc, thẩm mĩ và hình thành nhân cách cho học sinh. Phân môn tập làm văn bên cạnh việc sử dụng các kĩ năng đã được các phân môn khác hình thành và phát triển (nghe, đọc, nói, viết, dùng từ, đặt câu..) còn hình thành và phát triển một hệ thống những kĩ năng riêng. Hệ thống những kĩ năng này phải gắn liền với quá trình sản sinh văn bản. Chính trình độ thành thục của những kĩ năng sản sinh văn bản góp phần quyết định chất lượng của bài văn viết. Việc sản sinh một văn bản bao gồm 3 giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại tương ứng với một số kĩ năng: - Giai đoạn 1 (chuẩn bị việc sản sinh văn bản) là giai đoạn định hướng và lập chương trình gồm các kĩ năng: phân tích đề bài, kĩ năng tìm ý, chọn ý và sắp xếp ý ( kĩ năng lập dàn ý ). - Giai đoạn 2 (viết văn bản) là giai đoạn thực hiện hóa chương trình, gồm các kĩ năng: dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn thành bài. - Giai đoạn 3 (kiểm tra kết quả) gồm các kĩ năng phát hiện lỗi (từ lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu đến lỗi viết văn bản, từ lỗi thuộc về kĩ năng đến lỗi thuộc về nội dung .) được thể hiện trong bài và sửa chữa lỗi. 2/22 Trong hệ thống lỗi của học sinh ở phân môn Tập làm văn thì lỗi câu trong các bài văn viết là lỗi quan trọng nhất, là một trong những tiêu chí hàng đầu để đánh giá chất lượng bài văn. Phân môn Tập làm văn sử dụng toàn bộ kĩ năng được hình thành và phát triển ở nhiều phân môn khác của Tiếng Việt. Trong đó, kĩ năng viết câu chiếm một vị trí vô cùng quan trọng bởi nó phản ánh trình độ sử dụng tiếng Việt, trình độ tri thức và hiểu biết của học sinh. Vì thế không phải không có lí do khi bài viết của học sinh thường dùng để đánh giá năng lực học tập môn tiếng Việt qua các kì thi của mỗi kì, mỗi năm. Mỗi một tiết Tập làm văn mục tiêu lại khác nhau. Mục tiêu của tiết lập dàn ý khác với tiết viết đoạn văn. Mục tiêu của tiết viết đoạn văn lại khác với tiết viết bài văn và lại càng khác so với tiết trả bài. Nhưng dù tiết học nào đi chăng nữa thì việc giúp học sinh tự nhận ra được lỗi sai của mình, của bạn để từ đó sửa lỗi tạo nên những câu văn hoàn chỉnh, đúng nội dung, đồng thời nâng cao năng lực viết văn cho những học sinh có khả năng về môn Tiếng Việt là mục tiêu chung, quan trọng nhất của Tập làm văn. Do đó việc giúp học sinh biết sửa lỗi câu trong các bài văn viết là một vấn đề quan trọng, thiết thực và cần thiết hàng đầu đối với học sinh cuối cấp Tiểu học. 2. Cơ sở thực tiễn Ở Tiểu học, Tập làm văn là một phân môn khó vì học sinh mới bước đầu viết thành bài văn hoàn chỉnh, vốn sống của học sinh ít, kĩ năng tìm ý, sắp xếp ý chưa thành thạo, còn nhiều hạn chế, kĩ năng sử dụng từ để viết thành câu, liên kết các câu thành đoạn là khó đối với đại đa số học sinh. Để học sinh lớp 5 viết được những câu đúng, hay là một vấn đề khó và đòi hỏi nhiều công sức. Ở lớp 1, 2, 3 các em mới chỉ đặt câu đơn giản gồm 2 thành phần. Lên lớp 4 yêu cầu đặt câu có các thành phần phụ. Lớp 5 học thêm các lớp từ đồng âm, nhiều nghĩa, đồng nghĩa, đồng âm, trái nghĩa, quan hệ từ, câu ghép, liên kết các vế trong câu, liên kết các câu trong đoạnDo vậy học sinh rất lúng túng khi dùng từ đặt câu, viết văn. Học sinh khó nhận ra được lỗi câu sai của mình, của bạn, mà mỗi bài của học sinh lại sai các lỗi câu khác nhau, vốn từ của học sinh còn ít, khả năng diễn đạt câu văn chưa thật thành thạo. Học sinh còn ngại sửa lỗi, do đó việc sửa lỗi câu thường chưa triệt để, chưa đạt được hiệu quả tối ưu. Bên cạn đó, một số giáo viên chưa thực sự tìm tòi sáng tạo những biện pháp giúp các em chữa lỗi câu để có những câu văn đúng, rõ ràng, mạch lạc. Năm 2016- 2017 tôi được phân công dạy lớp 5E. Đây là một lớp học sinh học tương đối đều nhưng bài tập làm văn viết nào cũng có nhiều học sinh sai lỗi câu, các lỗi câu sai rất đa dạng, nhiều kiểu loại. Nếu bài có lỗi câu thì bài viết đó khó 3/22 có thể có câu văn đặc sắc, sinh động. Học sinh viết được câu văn diễn đạt trọn vẹn một ý, liên kết chặt chẽ là là tiền đề để viết một bài văn hay, sinh động, có hình ảnh, cảm xúc và tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn khác như : Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyệnNgoài ra việc viết được những câu văn đúng và hay còn giúp các em yêu thích tiếng Việt, góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Chính vì thế nên tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 diễn đạt câu đúng và hay trong phân môn Tập làm văn” II. Mục đích nghiên cứu Khảo sát các bài làm văn của học sinh lớp 5, tiến hành phân loại lỗi, hệ thống các lỗi sai của học sinh. Từ đó tìm ra các biện pháp giúp học sinh lớp 5 tự phát hiện những lỗi câu và sửa lỗi câu trong bài tập làm văn. III. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm 1. Đối tượng nghiên cứu khảo sát: Các lỗi câu trong bài tập làm văn viết của học sinh lớp 5 2. Đối tượng thực nghiệm: Học sinh lớp 5 (chỉ thực hiện với lớp do tôi phụ trách) IV. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân loại - Phương pháp phân tích – tổng hợp - Phương pháp điều tra - Phương pháp thống kê -. V . Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu: 1. Phạm vi: Nghiên cứu các lỗi câu trong bài tập làm văn viết của học sinh lớp 5 (lớp do tôi phụ trách), nguyên nhân và cách sửa các lỗi câu đó trong năm học 2016-2017 2. Kế hoạch nghiên cứu: Bắt đầu từ tháng 9 năm 2016 và kết thúc vào tháng 5 năm 2017 4/22 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Thực trạng 1. Thuận lợi Học sinh trường tôi là học sinh thành phố nên khả năng tiếp thu tương đối nhanh và phụ huynh rất quan tâm đến con. 100% giáo viên khối 5 đều có trình độ trên chuẩn, vững vàng chuyên môn, yêu nghề, dễ dàng tiếp thu và vận dụng cái mới, chịu khó tìm tòi, sáng tạo. Nội dung dạy học môn Tập làm văn rất gần gũi với học sinh do đó các em tiếp nhận kiến thức rất dễ dàng. Hiện nay các lớp khối 5 trong trường đều được trang bị máy tính và máy chiếu rất thuận lợi cho giáo viên tìm kiếm thông tin, thiết kế giáo án điện tử nên hầu hết trong các giờ học, học sinh hào hứng học tập. 2. Khó khăn Vốn từ của các em chưa phong phú, nhiều em chưa nắm chắc về nghĩa từ và các lớp từ được học ở Tiểu học, do đó việc sử dụng từ để viết câu còn nhiều hạn chế. Kiến thức ngữ pháp về câu của học sinh được học khá nhiều mà phần luyện tập chưa nhiều, việc vận dụng chưa thể đạt hiệu quả. Đa số học sinh cho rằng cứ viết được đoạn văn hoặc bài văn vào vở là đạt yêu cầu còn chưa chú ý đến câu đủ thành phần hay không, rõ nghĩa hay không hoặc câu có sinh động, hấp dẫn hay không Phần ngữ liệu để học sinh tìm hiểu bài hoặc học tập là những đoạn văn của các nhà văn nổi tiếng như Bà tôi của Mác –xim Go-rơ-ki, Người thợ rèn của Nguyên Ngọc. Chú bé vùng biển của Trần Vân... Đây là những đoạn văn xuất sắc, vượt xa so với tầm suy nghĩ của học sinh. Từ việc đặt câu, sắp xếp ý đến cả cách dùng từ học sinh đều không thể dùng để tham khảo. Càng đọc những đoạn văn như thế thì học sinh lại càng rụt rè, tự ti khi viết lên những câu văn của mình. Trong giờ Tập làm văn, giáo viên chủ yếu chỉ chú ý phần chấm lỗi chứ chưa thực sự chú trọng phần giúp học sinh sửa lỗi. 5/22 II Giải quyết vấn đề 1. Các lỗi sai về câu trong phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 5 Để thống kê các lỗi sai về câu của học sinh, tôi đã khảo sát, phân tích qua nhiều bài tập làm văn viết của học sinh, chấm kĩ từng bài, liệt kê các lỗi câu sai, tiến hành phân loại lỗi để từ đó có biện pháp tương ứng giúp học sinh viết được những câu đúng, diễn đạt trọn vẹn ý ngay từ đầu hoặc tự phát hiện ra lỗi câu trong bài và sửa lỗi. Đó là một số lỗi câu sau: 1.1 Lỗi trong câu a. Câu thiếu thành phần * Câu thiếu chủ ngữ 1) Có thể bê các đồ vật nặng. 2) Là một kỉ vật tuyệt vời của tôi. 3) Làm cho không khí cả hội trường thêm sôi động. 4) Đậu xuống một cây khế sai trĩu quả, cạnh túp lều. 5) Là bạn thân với em từ lớp một. * Câu thiếu vị ngữ 1) Câu chuyện thú vị này. 2) Chiếc cặp màu xanh lam của em. 3) Trong tất cả các câu chuyện về tình yêu thương mà em đã được đọc, câu chuyện em thích nhất về tình yêu thương giữa con người với động vật. * Câu thiếu chủ ngữ và vị ngữ 1) Khi chiếc đồng hồ không chuyển động nữa. 2) Từ những công việc nhỏ đến các công việc lớn. 3) Trong tất cả các câu chuyện về tình yêu thương mà em từng đọc. b. Câu không rõ nghĩa 1) Qua câu chuyện trên, em mới biết tình thương của con người với động vật không mất đi nếu ta biết chia sẻ, giúp đỡ và quan tâm vậy. 2) Mặc dù đây chỉ là một câu chuyện ngắn nhưng chắc hẳn nó đã được trái tim của mọi người mở cửa. 3) Mùa hè ở mái trường thì thắm đậm vào cây phượng vĩ hay cây bằng lăng. c. Câu không lô gic về nghĩa 1) Cô là người đã chắp cánh cho biết bao tài năng nở rộ. 2) Khu vườn nhà em rực rỡ sắc màu : hoa nhài thơm thoang thoảng, hoa lan thơm ngát, hoa hồng thơm nồng nàn. 3) Những xoài quả xanh thì vỏ rất mịn còn những quả ương thì cưng cứng. 6/22 d. Câu thiếu các từ hay 1) Vài tuần sau, bông hoa đã lớn hơn, đã bắt đầu nhìn rõ những cánh hoa. Hai ngày sau, bông hồng nở to. Nhị hoa màu vàng. Cánh hoa mềm, có màu đỏ. 2) Linh có mái tóc dày và dài. Bạn ấy có làn da trắng. Đôi mắt to nổi bật trên khuôn mặt 3) Chiếc cặp có ba ngăn. Ngăn to nhất em dùng để đựng vở, ngăn vừa em dùng đựng sách. Ngăn nhỏ nhất em dùng để đựng đồ dùng học tập. e. Câu thiếu các hình ảnh 1) Lá phượng nho nhỏ, xanh xanh. Hoa phượng nở đỏ rực. Vòm lá xanh um. 2) Chiếc đồng hồ có ba kim. Anh kim giờ béo ục ịch. Chị kim phút thanh mảnh. Em kim giây bé tí ti. 3) Thân cây to, chắc chắn. Vỏ thân cây màu nâu xám. Rễ của cây to, nổi hẳn lên mặt đất g. Câu dài dòng, rườm rà 1) Đôi môi của cô giống hình trái tim, đôi môi của cô hồng tự nhiên, màu hồng trên đôi môi cô rất giống màu hồng của cánh hoa đào. 2) Cơn mưa mang lại các giá trị khác nhau to lớn cho con người và vạn vật khác. 1.2 Lỗi ngoài câu a. Liên kết câu rời rạc 1) Trong 5 năm học Tiểu học, em rất vui và quý mến ngôi trường. Nhưng em thích học nhất là cô Hà- cô giáo dạy em hồi lớp 4. 2) Đôi mắt cô tròn, đen láy. Khuôn mặt cô hình trái xoan. Tính tình cô vui vẻ, hay cười. Ở trên lớp, cô luôn giảng bài cho các bạn tận tình. b. Lặp kiểu câu 1) Bạn ấy có tính tình rất hay. Bạn ấy có món ăn khoái khẩu là bánh rán. Bạn ấy còn hay giúp đỡ bạn bè. 2) Rễ của cây to, ngoằn ngoèo, nổi hẳn lên mặt đất. Vỏ của nó cứng, sần sùi. Cành của nó thì dài, khẳng khiu. 3) Mùa hè có cả tiếng ve râm ran. Mùa hè có cả hoa phượng nở đỏ. Mùa hè có cả những cơn mưa rào bất chợt. Vì thế nên em yêu mùa hè. 4) Bố rất vui tính và hài hước. Bố rất hay kể chuyện cười cho em nghe. Bố rất hiền và dễ tính. Bố rất quan tâm đến mọi người, đặc biệt là các con. Bố cẩn thận trong mọi việc. Bố hiếu thảo với ông bà. 2. Các biện pháp giúp học sinh lớp 5 diễn đạt câu đúng và hay Để học sinh viết được câu văn đúng, hay, sinh động không thể chỉ thực hiện trong giờ dạy Tập làm văn hoặc trong một tiết trả bài mà đó là một quá trình 7/22 xuyên suốt ở các khâu, phối hợp chặt chẽ với các môn học. Để giúp học sinh lớp 5 diễn đạt câu đúng và hay trong phân môn tập làm văn tôi đã thực hiện các biện pháp sau: 2.1. Định hướng nội dung Trước khi viết, người giáo viên cho học sinh phân tích đề cẩn thận. Bước này giúp học sinh định hướng đúng nội dung bài văn sẽ viết, hệ thống các đoạn, các ý chính, các câu văn để làm rõ các ý chính. Lưu ý cho học sinh đọc phần gợi ý trước khi viết (ở những bài có gợi ý). Giáo viên có thể viết sẵn phần gợi ý treo lên bảng lớp, gạch chân những từ quan trọng bằng phấn màu ở đề bài và gợi ý. Đây là một trong những bước đơn giản nhưng quan trọng nhằm giúp học sinh tránh được những câu lạc chủ đề, tránh được những câu không phù hợp với ý chính của đoạn Ví dụ: Trong bài “Luyện tập tả người”- Tuần 15 Đề bài: Viết một đoạn văn tả hoạt động của một người mà em yêu mến. Trước khi viết, tôi dành ra khoảng 5 phút để tiến hành cho học sinh đọc yêu cầu đề bài bằng cách trả lời các câu hỏi tìm hiểu đề. -Đề bài yêu cầu con viết đoạn văn thuộc thể loại gì? (Miêu tả) -Kiểu bài gì? (Tả người) -Đối tượng tả là ai? (người mà em yêu mến) -Người đó có thể là những ai? (bố, mẹ, thầy, cô, bạn bè) -Nội dung tả là gì? (tả hoạt động) -Đó là những hoạt động nào? (bố đọc báo, ông tưới cây hoặc chăm sóc cây, thầy cô giảng bài, chấm bài Khuyến khích học sinh chọn các hoạt động thường thấy để viết được dễ dàng hơn) Sau khi tìm hiểu đề, tôi cho học sinh đọc gợi ý trang 150, 151 SGK Tiếng Việt 5/Tập 1, nhắc nhở cách trình bày, sau đó mới đến bước học sinh viết đoạn văn vào vở. Khi thực hiện tìm hiểu đề bài kĩ thì tránh được việc học sinh viết các câu văn không đúng chủ đề, viết lan man. 2.2. Hướng dẫn học sinh quan sát Với học sinh bình thường, tôi chỉ yêu cầu học sinh quan sát kĩ đối tượng miêu tả, ghi chép lại những gì quan sát được và sau đó sắp xếp các ý cho phù hợp. Khi quan sát kĩ đối tượng, học sinh sẽ viết được những vâu văn đúng yêu cầu, phù hợp nội dung, cụ thể. Nếu học sinh không quan sát kĩ đối tượng thì bài làm sẽ rất sơ sài, chung chung, không có cái mới, cái riêng, thiếu hấp dẫn hoặc viết những câu văn ngô nghê, vụng về. Đối với những học sinh có khả năng, tôi không dừng lại ở đó mà yêu cầu học sinh quan sát kĩ đối tượng miêu tả kết hợp với liên tưởng, tưởng tượng để tìm ra cái mới, cái riêng của đối tượng mình định 8/22 tả. Trí tưởng tượng của học sinh Tiểu học là vô cùng phong phú nên kết quả là học sinh có những câu văn ngộ nghĩnh Ví dụ Trong bài Luyện tập tả cảnh- Tuần 7/Tiết 1 Đề bài: Em hãy lập dàn ý cho bài văn miêu tả cảnh sông nước. Tôi yêu cầu học sinh quan sát Hồ Gươm và ghi lại những gì đã quan sát được thì nhận được các kết quả khác nhau: Học sinh bình thường Học sinh có năng lực về tập làm văn -Mặt hồ gợn sóng Những chiếc lá dập dềnh. -Cầu Thê Húc dẫn lối vào đền Ngọc Sơn. -Con đường ven hồ sạch sẽ, rộng -Hàng liễu bên đường đu đưa trong gió nhẹ. -Người đi lại vui chơi, tập thể dục thật là đông. -Buổi sáng mặt hồ phủ một lớp sương choàng chiếc khăn voan - Trưa, mặt hồ mặc chiếc áo giáp vàng -Chiếc cầu sơn đỏ, cong cong -Tháp Rùa trầm tư cổ kính -Tối đến, hồ khoác chiếc áo nhung đen, huyền bí -Đêm khuya, hồ ngủ say, nép mình dưới những hàng cây. 2.3. Dạy tốt các kiến thức liên quan đến câu Muốn học sinh viết câu đúng ngữ pháp, đủ thành phần, nội dung rõ ràng là tiền đề cho việc tạo được những câu văn hay, bài văn sinh động, hấp dẫn thì người giáo viên phải dạy tốt các nội dung kiến thức liên quan đến câu. -Cấu tạo câu a, Hiểu thế nào là câu Câu là một tập hợp từ ngữ kết hợp với nhau theo một quy tắc nhất định, diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn, dùng để thực hiện một mục đích nào đó. b, Dấu hiệu nhận biết câu: Khi nói, câu phải có ngữ điệu kết thúc; khi viết, cuối câu phải đặt một trong các dấu câu: dấu chấm, dấu hai chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than. c, Phân loại câu: * Câu đơn: Câu đơn là câu do một cụm chủ ngữ – vị ngữ (gọi tắt là cụm chủ vị) tạo thành. * Câu ghép - Khái niệm: Câu ghép là câu do nhiều vế câu ghép lại với nhau. Mỗi vế câu trong câu ghép thường có cấu tạo giống câu đơn (là cụm chủ ngữ - vị ngữ) và thể hiện một ý có quan hệ chặt chẽ với ý của những vế câu khác Trong thực tế, khi phân tích câu, học sinh rất hay nhầm lẫn các kiểu câu: câu ghép, câu có trạng ngữ, câu có nhiều vị ngữ, câu có nhiều chủ ngữ, câu có chủ 9/22 ngữ là một cụm danh từ ..với nhau. Muốn học sinh nắm chắc về cấu tạo câu, khi học đến câu ghép người giáo viên cần khắc sâu cho học sinh sự khác biệt giữa các kiểu cấu tạo câu mà học sinh hay nhầm lẫn. Quá trình này cần phải thực hiện thường xuyên mới đem lại hiệu quả Ví dụ 1: Trong sương tối mịt mùng, trên dòng sông mênh mông, chiếc xuồng của má TN1 Bảy chở thương binh lặng lẽ xuôi dòng. VN Câu này học sinh bị nhầm lẫn thành câu ghép có 3 vế câu: Trong sương tối mịt mùng, / trên dòng sông mênh mông, / chiếc xuồng của má Vế 1 Vế 2 Vế 3 Bảy chở thương binh lặng lẽ xuôi dòng. Ví dụ 2 Sau những cơn mưa xuân, một màu xanh non ngọt ngào, thơm mát trải ra TN CN VN mênh mông trên khắp các sườn đồi. Câu này học sinh hay bị nhầm chủ ngữ vì chủ ngữ lúc này là một cụm danh từ: Sau những cơn mưa xuân, một màu xanh non ngọt ngào, thơm mát trải ra TN CN VN mênh mông trên khắp các sườn đồi. - Cách nối các vế câu trong câu ghép: Có hai cách nối các vế trong câu ghép + Nối trực tiếp, không dùng từ ngữ có tác dụng nối. Trong trường hợp này, giữa các vế câu phải dùng dấu phẩy, dấu chấm phẩy hoặc dấu hai chấm. + Nối bằng từ ngữ có tác dụng nối. c.1. Quan hệ từ: và, rồi, thì, nhưng, hay, hoặc, c.2. Các cặp quan hệ từ: - Vì nên (cho nên) ; do nên (cho nên) ; bởi nên (cho nên) ; tại nên (cho nên) ; nhờ mà - Nếu thì ; hễ .. thì - Tuy nhưng ; mặc dù nhưng - Chẳng những mà ; không chỉ mà c.3. Nối các vế câu trong câu ghép bằng cặp từ hô ứng. Ngoài các quan hệ từ, có thể sử dụng các cặp từ hô ứng để nối các vế câu với nhau. Một số cặp từ hô ứng được dùng để nối các vế câu trong câu ghép: vừa CN TN2 10/22 đã ; chưa đã ; mới đã ; vừa vừa ; càng càng đâu đấy; nào ấy; sao vậy; bao nhi
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_d.pdf