Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ Văn 6

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ Văn 6

Cơ sở lí luận của vấn đề

Định hướng cách tân biện pháp dạy và học đã được chính xác trong quyết nghị Trung ương 4 khóa VII (1 – 1993), quyết nghị Trung ương 2 khóa VIII (12 – 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 – 1998), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo , đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 – 1999). Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định “giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn”.

Trước hết ta phải hiểu rõ được bản chất của những phương pháp dạy học mới đó là:

- Dạy học theo hướng trải nghiệm sáng tạo

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học.

- Phương pháp- kĩ thuật dạy học tích cực

Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất phức tạp và đa dạng. Có nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về PPDH. Trong tài liệu này, PPDH được hiểu là cách thức, là con đường hoạt động chung giữa giáo viên và học sinh, trong những điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học.

Kĩ thuật dạy học gồm có: kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật giao nhiệm vụ, kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật các mảnh ghép, kĩ thuật hỏi chuyên gia, kĩ thuật hoàn tất một nhiệm vụ,.

Kĩ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp, cách thức hành động của giáo viên trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học.

- Bản đồ tư duy (sơ đồ tư duy)

Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII khẳng định “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương tiện tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh.”.

Sơ đồ tư duy (SĐTD) sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỷ lệ, chi tiết khắt khe và định khuôn sẵn như các loại bản đồ thông dụng khác. Như vậy cùng một chủ đề, bài học nhưng mỗi người có thể vẽ theo một cách khác nhau và hoàn toàn có thể thêm hoặc bớt các nhánh dễ dàng. Nếu muốn ghi chép bằng SĐTD cũng có nhiều ưu điểm hơn như: Lôgíc, mạch lạc; trực quan, sinh động, dễ nhìn, dễ hiểu; vừa nhìn được tổng thể, vừa biết được chi tiết; giúp hệ thống hóa kiến thức dễ dàng; và giúp việc ôn tập khoa học, nhớ kiến thức lâu hơn.

- Dạy học phát triển năng lực

Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.

- Giáo dục an ninh và quốc phòng

Quốc phòng: là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.

An ninh: là tình hình trật tựxã hội bình thường, yên ổn, không có rối loạn.

Giáo dục an ninh và quốc phòng nhằm mục đích hình thành, bồi dưỡng ở học sinh tình yêu quê hương, đất nước. Giáo dục học sinh ý thức công dân trong việc bảo vệ xã hội, xây dựng nền quốc phòng vững mạnh để bảo vệ đất nước.

 

docx 24 trang hoathepmc36 01/03/2022 19838
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ Văn 6", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Nhà văn M.Gorki từng nói “Văn học là nhân học”, văn học là cuộc sống – thông qua ngôn từ và hình tượng nghệ thuật sinh động, nó cung cấp cho con người kiến thức về cuộc sống cũng như khám phá cái đẹp trong tâm hồn con người. Đến với văn học chúng ta tìm thấy vẻ đẹp nhân văn qua mỗi sự vật, hình tượng trong tác phẩm mà từ đó tác động tâm tư tình cảm, góp phần để hình thành và phát triển nhân cách. Vậy nhưng, không phải ai cũng hiểu vai trò của văn chương trong đời sống con người, hiện nay giá trị văn học đang dần bị lãng quên. Nhất là với học sinh. Xu hướng xem nhẹ các môn xã hội nói chung, môn Ngữ văn nói riêng là điều mà bất cứ giáo viên đứng lớp nào cũng có thể dễ dàng cảm nhận. Học sinh học Văn như một sự bắt buộc để đủ điều kiện lên lớp hay để có được tấm bằng tốt nghiệp cuối cấp chứ không phải bởi sự đam mê. Học văn là phải đọc, thậm chí là đọc đi đọc lại nhiều lần, phải ngẫm nghĩ, tìm tòi, liên hệCó lẽ vì vậy mà học sinh đang dần dần “quen” môn Văn.
Tác phẩm văn chương là bức tranh về cuộc sống, con người trong lao động, trong đấu tranh được tái hiện một cách chuẩn xác mà không hề khô khan, tẻ nhạt. Học văn, bên cạnh cái cơ bản là học về ngôn ngữ, tiếng nói văn chương của tiếng Việt để có thể nói, viết, xây dựng ngôn ngữ diễn đạt cho riêng mình thì còn học về văn hóa, tình cảm, tư duy nghệ thuật của nhân loại thông qua những tác phẩm văn chương đặc sắc. Và từ đây, ta học cách làm người, học cách chia sẻ, yêu thương.Văn học giúp ta bồi dưỡng tình đời, tình người, làm cho tâm hồn tình cảm thêm phong phú, nhạy cảm. Học tốt môn văn là nền tảng vững chắc giúp các em tự tin trong giao tiếp hàng ngày, góp phần cho những thành công trong cuộc sống mai sau.
Để học sinh thấy được giá trị to lớn của văn học, để thắp sáng và thổi bùng ngọn lửa đam mê văn học trong các em, từ đó nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ Văn, bản thân tôi đã luôn không ngừng nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, thực hiện những biện pháp phù hợp với đối tượng học sinh lớp 6 và bước đầu nhận thấy được những chuyển biến rất tích cực. Các em trở nên hào hứng hơn với các tiết văn, tích cực hơn trong việc học bài ở nhà, chuẩn bị bài trước khi đến lớp nên chất lượng bộ môn cũng được nâng cao. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn 6” với mong muốn được chia sẻ những kinh nghiệm riêng của cá nhân trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn.
II. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp để nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ Văn 6”, bản thân tôi muốn bày tỏ những suy nghĩ, trăn trở của mình về thực trạng việc dạy và học môn Ngữ văn 6 hiện nay, đồng thời cũng mạnh dạn đề xuất những giải pháp được rút ra từ thực tiễn giảng dạy của mình. Thực sự tôi rất mong được các đồng nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh nghiệm, trao đổi, bàn luận để tìm ra những giải pháp tối ưu nhất, giúp học sinh có cái nhìn đúng đắn hơn về giá trị của môn học, say mê, hứng thú với bộ môn, từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả của môn Ngữ văn. Mục đích cụ thể mà đề tài hướng đến là:
Tìm hiểu thực trạng thái độ của học sinh với môn học Ngữ Văn và chất lượng của bộ môn này.
Phát hiện những nguyên nhân dẫn đến chất lượng bộ môn Ngữ văn chưa cao.
Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn.
Rút ra những bài học kinh nghiệm riêng cho bản thân để vận dụng vào việc giảng dạy Ngữ văn ở các khối lớp để nâng cao chất lượng của bộ môn này
 1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh lớp 6A1, 6A7 năm học 2017-2018 và học sinh lớp 6A3, 6A6 của học kì 1- năm học 2018-2019 tại trường THCS Nguyễn Trãi.
Phạm vi của đề tài
Đề tài nghiên cứu tập trung vào một số giải pháp mới để giúp học sinh có cái nhìn đúng đắn hơn về giá trị của môn học, say mê, hứng thú với bộ môn, từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả của môn Ngữ văn 6.
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Định hướng cách tân biện pháp dạy và học đã được chính xác trong quyết nghị Trung ương 4 khóa VII (1 – 1993), quyết nghị Trung ương 2 khóa VIII (12 – 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 – 1998), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo , đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 – 1999). Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định “giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn”.
Trước hết ta phải hiểu rõ được bản chất của những phương pháp dạy học mới đó là:
Dạy học theo hướng trải nghiệm sáng tạo
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học.
Phương pháp- kĩ thuật dạy học tích cực
Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất phức tạp và đa dạng. Có nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về PPDH. Trong tài liệu này, PPDH được hiểu là cách thức, là con đường hoạt động chung giữa giáo viên và học sinh, trong những điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học.
Kĩ thuật dạy học gồm có: kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật giao nhiệm vụ, kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật các mảnh ghép, kĩ thuật hỏi chuyên gia, kĩ thuật hoàn tất một nhiệm vụ,...
Kĩ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp, cách thức hành động của giáo viên trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học.
Bản đồ tư duy (sơ đồ tư duy) 
Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII khẳng định “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương tiện tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh...”.
Sơ đồ tư duy (SĐTD) sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỷ lệ, chi tiết khắt khe và định khuôn sẵn như các loại bản đồ thông dụng khác. Như vậy cùng một chủ đề, bài học nhưng mỗi người có thể vẽ theo một cách khác nhau và hoàn toàn có thể thêm hoặc bớt các nhánh dễ dàng. Nếu muốn ghi chép bằng SĐTD cũng có nhiều ưu điểm hơn như: Lôgíc, mạch lạc; trực quan, sinh động, dễ nhìn, dễ hiểu; vừa nhìn được tổng thể, vừa biết được chi tiết; giúp hệ thống hóa kiến thức dễ dàng; và giúp việc ôn tập khoa học, nhớ kiến thức lâu hơn...
Dạy học phát triển năng lực 
Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. 
Giáo dục an ninh và quốc phòng
Quốc phòng: là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
An ninh: là tình hình trật tựxã hội bình thường, yên ổn, không có rối loạn.
Giáo dục an ninh và quốc phòng nhằm mục đích hình thành, bồi dưỡng ở học sinh tình yêu quê hương, đất nước. Giáo dục học sinh ý thức công dân trong việc bảo vệ xã hội, xây dựng nền quốc phòng vững mạnh để bảo vệ đất nước.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trong những năm gần đây, rất nhiều những phương phápđổi mới dạy học được đưa vào áp dụng, nhằm phát huy tối đa tính chủ động, tích cực của học sinh. Các buổi tập huấn, họp tổ chuyên môn cũng đưa vấn đề phương pháp dạy học cùng thảo luận, trao đổi nhằm mục đích nâng cao chất lượng bộ môn. Tuy nhiên, vị thế của môn Văn ngày càng giảm sút, tình trạng học sinh chán học văn ngày càng tăng thực sự là một vấn đề đáng lo ngại. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy để dẫn đến tình trạng này do một số nguyên nhân sau:
Đối với người dạy
Nhìn chung, hầu hết các thầy cô đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh, tuy nhiên vẫn còn những mặt hạn chế nhất định sau:
+ Nhiều thầy cô ngại đổi mới, có áp dụng phương pháp mới nhưng chậm, ít hoặc chưa phù hợp với nội dung bài học, phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với đa phần đối tượng học sinh.
+ Nhiều giáo viên còn gặp khó khăn khi chương trình sách giáo khoa mới với yêu cầu truyền đạt mộtkhối lượng khổng lồ của tri thức nhưng thời gian thực học của học sinh với bộ môn ngày càng ít.
+ Với đặc thù của bộ môn, các đồ dùng trực quan hầu như không có, tranh ảnh minh họa trong sách không nhiều.
+ Trong một lớp, mức tiếp thu nội dung bài học của học sinh nhanh, chậm khác nhau cũng là một rào cản trong việc nâng cao chất lượng bộ môn.
Đối với học sinh
Với địa bàn tập trung lượng dân cư đông đúc, tỉ lệ đồng bào ở các buôn Eana, buôn Drai, buôn Tơ Lơ phần đa phần điều kiện kinh tế còn khó khăn, ngoài giờ lên lớp, các em còn phải phụ giúp gia đình, ít dành thời gian cho việc học. Nhất là vào mùa vụ, sự chuyên cần của các em các giảm.Điều đó càng khiến cho chất lượng bộ môn càng khó đảm bảo.
+ Ý thức tự học, vượt khó trong học tập của nhiều em chưa cao. Với môn Văn, tương lai để chọn ngành nghề, kiếm việc cũng khó hơn nên nhiều gia đình chỉ hướng con em vào các môn học “thời thượng” như Toán, Lí, Hóa, Tiếng Anh. Vì vậy, không ít học sinh xem nhẹ môn học, không dành thời gian cho bộ môn này, hoặc có học cũng chỉ là học lấy lệ hoặc đối phó. Điểm này thể hiện rõ ở việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Có nhiều em giáo viên hỏi bài cũ cả 4,6 lần thì tất cả cũng chỉ nhận được câu trả lời duy nhất “Thưa cô, em không thuộc”, “em chưa thuộc”.
+ Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi game, lướt facebook . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, xao nhãng việc học.
+ Lười học, chán học nên học yếu. Học yếu lại càng lười học, chán học, cứ xoay vòng như một quy luật tất yếu, khiến cho giờ học với các em trở rất nên nặng nề. 
Năm học 2017-2018, tôi phụ trách giảng dạy môn Văn ở 2 lớp: 6A1, 6A7.Và năm học 2018-2019 dạy hai lớp: 6A3, 6A6. Dù là học sinh đầu cấp và mới chỉ là những tuần học đầu tiên, nhưng học sinh đã tỏ ra thờ ơ, không hào hứng với môn học. Tôi hướng dẫn các em cách soạn bài, học bài, song ở tiết học mới, có rất ít em chịu thực hiện. 
Kết quả bài kiểm tra định kì lần 1 học kì I môn Ngữ văn 6 trường THCS Nguyễn Trãi khi chưa thực hiện đề tài trong hai năm học gần đây như sau: 
 Năm học 2017 -2018:
Năm học
Lớp
Sĩ số
Điểm
Ghi chú
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
2017-2018
6A1
29
0
1
15
8
5
6A7
36
2
7
17
8
2
Tổng cộng
65
2
8
32
16
7
Tỉ lệ
3%
12,5%
49%
24,5%
11%
Năm học 2018 – 2019:
Năm học
Lớp
Sĩ số
Điểm
Ghi chú
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
2018-2019
6A3
26
0
1
14
6
5
6A6
35
2
6
16
9
2
Tổng cộng
61
2
7
30
15
7
Tỉ lệ
3,4%
11,3%
49,3%
24,6%
11,4%
Từ kết quả thống kê cho thấy kết quả bài kiểm tra định kì của học sinh đối với bộ môn Ngữ văn vẫn còn thấp cụ thể như sau:
Năm học 2017- 2018: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 64,5%, còn lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Năm học 2018- 2019: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 64%, còn lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Vậy làm thế nào để học sinh có hứng thú, tích cực đồng thời phát triển được tư duy, tìm tòi, óc sáng tạo của học sinh. Xuất phát từ vấn đề đó bên cạnh việc thực hiện tốt việc dạy học theo hướng đổi mới, bản thân tôi không ngừng học hỏi, tìm tòi sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau với hi vọng học sinh sẽ yêu môn Ngữ văn hơn và từ đó nâng cao được chất lượng bộ môn của mình.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Các bước tiến hành một tiết học:
1.1. Tạo bầu không khí thoải mái, thân thiện khi vào giờ học
Trong mỗi tiết học, người đóng vai trò chủ đạo để điều tiết không khí lớp học chính là giáo viên.Thái độ, tâm lí, tác phong của người đứng lớp có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lí học sinh. Xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” phải bắt đầu từ “Lớp học thân thiện” và “Mỗi thầy cô là một tấm gương sáng về đạo đức và tự học”. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải luôn mẫu mực trong thái độ, tác phong, cách ứng xử.
Sự thân thiện, tích cực của giáo viên sẽ tạo nên sự gần gũi, thân tình, yêu mến ở học sinh, xóa bỏ cảm giác áp lực mỗi khi đến tiết học Ngữ văn. Yêu mến thầy cô, đồng nghĩa với việc các em có hứng thú với môn học. Ngược lại, nếu giáo viên tỏ ra lạnh nhạt, thiếu thiện cảm với học sinh thì các em sẽ xa lánh, không tương tác với những bài học, và đồng nghĩa với việc, mục đích của giáo dục coi như thất bại.
Cuộc sống của giáo viên cũng như bao nhiêu người khác với những lo toan, gánh nặng bộn bề của cuộc sống đời thường.Nhưng khi lên lớp, đứng trên bục giảng, chúng ta phải tự mình điều chỉnh tâm lí, gạt bỏ những lo âu, buồn bực, bởi những tâm lí nặng nề sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tiết học, đến tâm lí học sinh. Không làm chủ được cảm xúc, không chỉ không có cảm hứng truyền tải nội dung bài học, mà còn có thể có những thái độ, hành động không chuẩn mực, đánh mất hình ảnh của chính mình. Vì thế, tạo một không khí vui vẻ, thân thiện, nhẹ nhàng là tiền đề quan trọng để tạo hứng thú cho học sinh tiếp thu bài học.
1.2. Coi trọng việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới 
Kiểm tra việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới ở nhà của học sinh phải là hoạt động mang tính bắt buộc thường nhật của giáo viên khi bắt đầu tiết học.Có khi tự tôi đi một vòng quanh lớp, yêu cầu các em giở vở soạn lên bàn, có khi cho chính học sinh kiểm tra chéo nhau, có khi là bằng cách lấy ý thức tự giác, trung thực của học sinhĐể tránh tình trạng không học bài, soạn bài hoặc có nhưng chỉ mang tính chất đối phó, lấy lệ, vài tuần, tôi sẽ thu vở kiểm tra, có thể là 5-10 em, nửa lớp, hoặc cả lớp, có chấm điểm, nhận xét rõ ràng theo hướng động viên, khích lệ sự cố gắng, nỗ lực của các em để học sinh rút kinh nghiệm trong các bài soạn sau. Với những học sinh yếu hơn, tôi thường có thêm điểm cộng ở sau, khi trả bài, tôi sẽ nói luôn ở trước lớp, rằng “những bạn đó có nhiều cố gắng nên cô đã cộng thêm 1 điểm khuyến khích”.Với những trường hợp không tiến bộ thì tôi cũng kiểm điểm nghiêm khắc, có những hình thức kỉ luật nhất định, từ nhẹ nhàng nhắc nhở đến việc viết bản kiểm điểm, mời phụ huynh.
Để việc học bài cũ, soạn bài mới có hiệu quả, điều quan trọng là giáo viên cần có những hướng dẫn cụ thể cho học sinh tự học.Giúp các em có tinh thần tự học, phát huy tính chủ động trong việc tìm hiểu nội dung bài học. Vì thế, trong buổi học đầu tiên của năm học mới, tôi dành một khoảng thời gian cho việc đưa ra nội quy riêng của bộ môn, trong đó tất nhiên không thể thiếu quy định việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới. Tôi hướng dẫn khái quát cách soạn bài của từng phân môn: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn để học sinh nắm rõ phương pháp học ở nhà. Phần dặn dò sau mỗi tiết học, tôi đều dành vài phút để nêu những hướng dẫn, gợi ý cho việc học bài cũ, soạn bài mới. Với việc học bài cũ, tôi thường dặn dò các em về xem lại nội dung bài giảng, chỉ ra những nội dung trọng tâm để học sinh lưu ý nắm vững kiến thức.Với việc yêu cầu học sinh soạn bài mới, tôi thường cụ thể hóa những yêu cầu của nội dung bài học theo từng phân môn.
Phần văn bản: Yêu cầu học sinh đọc kĩ văn bản, xem phần chú thích từ khó để hiểu đúng nội dung; nắm khái quát về tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời, bố cục; trả lời các câu hỏi phần Đọc hiểu văn bản, lưu ý về nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của văn bản. và một số lưu ý cụ thể ở từng bài.
Ví dụ, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài “Bài học đường đời đầu tiên” của Tô Hoài tôi thường yêu cầu:
+ Tìm hiều thêm về tác giả Tô Hoài và tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí”. 
+ Đọc phần chú thích, nắm những nét chính về tác giả, tác phầm; đọc kĩ đoạn trích, nắm vững các từ khó;tìm các chi tiết miêu tả về ngoại hình, hành động, tính cách của Dế Mèn; tìm chi tiết thể hiện thái độ của Dế Mèn sau khi gây ra cái chết cho dế Choắt.
+ Soạn bài theo hệ thống câu hỏi phần Đọc - hiểu văn bản trong sách giáo khoa.
Phần Tiếng Việt và Tập làm văn: Yêu cầu học sinh chú ý trước hết ở từng mục. Đọc ví dụ, trả lời các câu hỏi để từ đó tự hình thành khái niệm và làm trước các bài tập phần luyện tập.
Nếu xét thấy nội dung nào quá khó với năng lực của học sinh, tôi sẽ phân chia công việc theo từng nhóm để các em trao đổi, thảo luận, giúp đỡ những bạn yếu hơn. Giáo viên cần chú ý để tránh tạo áp lực về điểm số cho học sinh. Học bài cũ, chuẩn bị bài mới mục đích chính là tạo tâm thế để học sinh tiếp thu bài tốt hơn.
2. Các giải pháp:
2.1. Soạn giảng và đổi mới phương pháp dạy học
Đây là giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng dạy học nói riêng, chất lượng giáo dục nói chung. Dù dạy – học là hai hoạt động có tính độc lập tương đối nhưng lại là hai mặt của một quá trình: giáo viên truyền đạt kiến thức, kỹ năng, hình thành, bồi dưỡng nhân cách, tình cảm cho học sinh, học sinh là người lĩnh hội, làm chủ kiến thức. Đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu bắt buộc, người giáo viên phải thực sự không ngừng học hỏi, dám nghĩ dám làm, chấp nhận rủi ro và rút kinh nghiệm từ thất bại. Tuy nhiên, với suy nghĩ của cá nhân, tôi cho rằng, đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ hoàn toàn phương pháp truyền thống, mà cần biết kế thừa, phát huy trên cơ sở vận dụng phương pháp mới một cách sáng tạo, có hiệu quả như:
2.1.1. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng sơ đồ tư duy vào giảng dạy
Công nghệ thông tin là một phương tiện dạy học hiện đại với những tính năng ưu việt, tiện ích nổi trội của nó so với các phương tiện dạy học khác. Giáo án điện tử là bước cải tiến lớn giúp giáo viên mang lại cho học sinh nhiều thông tin hơn và các thông tin đó có thể được chứa đựng trong nhiều kênh khác nhau như văn bản, hình ảnh, âm thanh và các đoạn video. Có thể nói, công nghệ thông tin đã cung cấp điều kiện và phương tiện thuận lợi hỗ trợ đắc lực cho công việc giảng dạy của giáo viên môn Ngữ văn nói riêng, các bộ môn khác nói chung. Trong thực tế giảng dạy của mình, tôi nhận thấy với những tiết học có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, học sinh tỏ ra rất hào hứng, chăm chú khi được trực quan bằng những hình ảnh liên quan. Và vì thế, các em cũng nắm bài, nhớ được nội dung bài học tốt hơn rất nhiều. 
Khi có sự hỗ trợ công nghệ thông tin, ta cần chú trọng lồng ghép phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy vào phần củng cố - đây là cách làm hiệu quả, giúp học sinh nắm nội dung bài học một cách khái quát nhưng rất đầy đủ. Tôi thường dành 5 phút cuối giờ, yêu cầu các nhóm vẽ sơ đồ tư duy cho bài học sau đó để các em tự trình bày cách hiểu của mình về nội dung bài học, rồi có thể đối chiếu với bảng sơ đồ tư duy giáo viên chiếu lên bảng. Với cách này, tôi không chỉ tạo cho các em sự thích thú khi được tự tay thiết kế một sản phẩm, mà còn rèn luyện tư duy chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi nội dung cần thiết và logic nhất.
2.1.2. Tích cực dạy học theo chủ đề tích hợp và áp dụng giáo dục an ninh quốc phòng
Đây được coi là nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng để phát huy tính tích cực của học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục. Nội dung tích hợp cần tập trung vàonhững điểm quy tụ, liên kết nội dung ba phân môn: Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn trong văn bản để xây dựng các tình huống tích hợp và các hoạt động phức hợp tương ứng nhằm giúp học sinh tích hợp tri thức và kĩ năng trong khi xử lí tình huống. Đó có thể là những từ ngữ, câu thơ, đoạn văn, những chi tiết, hìn

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_de_nang_cao_chat_luon.docx