Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy nghĩa của từ và các hợp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh Lớp 5
1. Cơ sở lí luận :
Ngôn ngữ văn học còn là biểu hiện bậc cao của nghệ thuật ngôn từ nên khi dạy văn là cách bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ tối ưu cho người học. Dạy Tiếng Việt là đưa các em hoà nhập vào một môi trường sống của thời kì hội nhập. Còn hiểu sâu sắc về Tiếng Việt là tác động đến kĩ năng cảm thụ thơ văn của HS. Kết hợp giữa dạy văn và dạy tiếng sẽ tạo được hiệu quả cao giữa hai môn văn - Tiếng Việt để HS lớn lên trở thành những con người hiện đại, được giáo dục toàn diện. Về bản chất giáo dục là sự chuyển giao các giá trị văn hoá đông - tây, kim - cổ, một sự giao tiếp mà phương tiện chủ yếu là lời nói của cha mẹ, thầy cô là sách báo các loại. Trong giáo dục, việc nắm vững tiếng nói (trước hết là tiếng mẹ đẻ) có ý nghĩa quyết định. Nếu học sinh yếu kém về ngôn ngữ, nghe nói chỉ hiểu lơ mơ, nói viết không chính xác, không thể hiện được ý mình cho suôn sẻ, thì không thể nào khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ người thầy, từ sách vở được. Bởi vậy, trong nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hết sức coi trọng việc đào tạo về mặt ngôn ngữ, xem đó là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm thành công trong thực hiện sứ mệnh trong đại của mình.
Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể. Trong khi đó kiến thức về nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa có tính trừu tượng và khái quát cao. Do vậy, các em thường không thích học, ngại suy nghĩ dẫn đến tiết học kém hiệu quả, học sinh nắm kiến thức hời hợt. Mặt khác, học sinh lớp 5 được tiếp xúc với những từ mới có những bước nhảy vọt về kiến thức nên các em thường có hiện tượng lười học, sợ giải nghĩa từ, sợ học các bài về các lớp từ. Chính vì lẽ đó, người giáo viên là người dạy phải biết khơi dậy niềm say mê học, óc tư duy, sáng tạo của mỗi học sinh. Làm thế nào để đạt được điều đó?
Do đặc điểm của môn học và đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 5 mau nhớ nhưng lại nhanh quên, không thích những hoạt động kéo dài, thích những hình ảnh trực quan sinh động., người giáo viên cần lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp để học sinh nào cũng nắm chắc kiến thức về từ, củng cố tri thức mới, rèn luyện các kỹ năng cơ sở, phát triển tư duy, ngôn ngữ. giúp học sinh tự tin hơn khi giao tiếp.
Phßng gd& ®t huyÖn §«ng TriÒu TrƯêng tiÓu häc quyÕt th¾ng ===***=== Sáng kiến kinh nghiệm: "Một số biện pháp dạy nghĩa của từ và các hợp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5" Họ và tên: Nguyễn Thị Hoan Chức vụ: Giáo viên Tiểu học Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quyết Thắng Năm học: 2014-2015 I. PHẦN MỞ ĐẦU: 1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Tầm quan trọng của vấn đề cần được nghiên cứu : Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập Tiếng Việt, chữ viết với phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa học. Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn khác khi có kiến thức Tiếng Việt. Bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Hơn nữa, con người muốn tư duy phải có ngôn ngữ. Cả những lúc chúng ta nghĩ thầm trong bụng, chúng ta cũng “bụng bảo dạ” cũng nói thầm, tức là cũng sử dụng ngôn ngữ, một hình thức ngôn ngữ mà các nhà chuyên môn gọi là ngôn ngữ bên trong. Còn thông thường thì chúng ta thể hiện ra ngoài kết quả của hoạt động tư duy, những ý nghĩ tư tuởng của chúng ta thành những lời nói, những thực thể ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ là công cụ, là hiện thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc, trôi chảy và nếu trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt. Môn Tiếng Việt trong trường tiểu học không thể là bản sao từ chương trình khoa học Tiếng Việt vì trường có nhiệm vụ riêng của mình. Nhưng với tư cách là một môn học độc lập, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức về hệ thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp, khả năng biểu cảm của ngôn ngữ, quy tắc hoạt động của ngôn ngữ). Đồng thời, kiến thức môn Tiếng Việt hình thành cho HS kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết). Ngoài ra, Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy cho nên nó còn có chức năng kép mà các môn học khác không có được, đó là: trang bị cho HS một số công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường, là công cụ để học các môn học khác; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là phương tiện là điều kiện thiết yếu của quá trình học tập. Bên cạnh chức năng giao tiếp, tư duy ngôn ngữ còn có chức năng quan trọng nữa đó là thẩm mĩ, ngôn ngữ là phương tiện để tạo nên cái đẹp, hình tượng nghệ thuật. Trong văn học, HS phải thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ. Vì thế ở trường tiểu học, Tiếng Việt và văn học được tích hợp với nhau, văn học giúp HS có thẩm mĩ lành mạnh, nhận thức đúng đắn, có tình cảm thái độ hành vi của con người Việt Nam hiện đại, có khả năng hòa nhập và phát triển cộng đồng nên hiểu được các văn bản văn học hoặc hiểu được ngôn ngữ trong giao tiếp thì học sinh cần phải hiểu được nghĩa của từ và các lớp nghĩa của từ. 1.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Với mục tiêu được quy định thì môn Tiếng Việt có vai trò hết sức quan trọng, giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt trong học tập và trong giao tiếp. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh được chú trọng dạy từ, trong đó dạy giải nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: 2.1. Mục tiêu: Mục tiêu của đề tài là tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn về giải nghĩa từ. Tạo hứng thú khi học Tiếng Việt nói chung và phần nghĩa của từ có quan hệ về ngữ nghĩa, giúp học sinh không còn ngại nói, ngại phát biểu trong Tiếng Việt để nâng cao chất lượng học cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 5. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh lớp 5. - Thực trạng của việc dạy Tiếng Việt lớp 5 của trường Tiểu học Quyết Thắng. - Khảo sát điều tra thực tế. - Nghiên cứu nội dung chương trình phân môn Tiếng Việt lớp 5. - Dạy thực nghiệm. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Học sinh lớp 5 trường Tiểu học Quyết Thắng. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: + Giới hạn: Một số biện pháp để dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh lớp 5. + Phạm vi: Môn Tiếng Việt lớp 5 (về nội dung chương trình, phương pháp dạy học và tâm lí của học sinh tiểu học). + Thời gian: Từ tháng 8/2014 đến tháng 3/2015. 5. Phương pháp nghiên cứu: a. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết để tìm ra cơ sở khoa học chi phối việc lựa chọn nội dung và xác định hệ thống nguyên tắc, phương pháp dạy học môn Tiếng Việt. b. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Phương pháp khảo sát điều tra thực tế. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích số liệu. II. PHẦN NỘI DUNG: Cơ sở lí luận : Ngôn ngữ văn học còn là biểu hiện bậc cao của nghệ thuật ngôn từ nên khi dạy văn là cách bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ tối ưu cho người học. Dạy Tiếng Việt là đưa các em hoà nhập vào một môi trường sống của thời kì hội nhập. Còn hiểu sâu sắc về Tiếng Việt là tác động đến kĩ năng cảm thụ thơ văn của HS. Kết hợp giữa dạy văn và dạy tiếng sẽ tạo được hiệu quả cao giữa hai môn văn - Tiếng Việt để HS lớn lên trở thành những con người hiện đại, được giáo dục toàn diện. Về bản chất giáo dục là sự chuyển giao các giá trị văn hoá đông - tây, kim - cổ, một sự giao tiếp mà phương tiện chủ yếu là lời nói của cha mẹ, thầy cô là sách báo các loại. Trong giáo dục, việc nắm vững tiếng nói (trước hết là tiếng mẹ đẻ) có ý nghĩa quyết định. Nếu học sinh yếu kém về ngôn ngữ, nghe nói chỉ hiểu lơ mơ, nói viết không chính xác, không thể hiện được ý mình cho suôn sẻ, thì không thể nào khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ người thầy, từ sách vở được. Bởi vậy, trong nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hết sức coi trọng việc đào tạo về mặt ngôn ngữ, xem đó là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm thành công trong thực hiện sứ mệnh trong đại của mình. Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể. Trong khi đó kiến thức về nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa có tính trừu tượng và khái quát cao. Do vậy, các em thường không thích học, ngại suy nghĩ dẫn đến tiết học kém hiệu quả, học sinh nắm kiến thức hời hợt. Mặt khác, học sinh lớp 5 được tiếp xúc với những từ mới có những bước nhảy vọt về kiến thức nên các em thường có hiện tượng lười học, sợ giải nghĩa từ, sợ học các bài về các lớp từ. Chính vì lẽ đó, người giáo viên là người dạy phải biết khơi dậy niềm say mê học, óc tư duy, sáng tạo của mỗi học sinh. Làm thế nào để đạt được điều đó? Do đặc điểm của môn học và đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 5 mau nhớ nhưng lại nhanh quên, không thích những hoạt động kéo dài, thích những hình ảnh trực quan sinh động..., người giáo viên cần lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp để học sinh nào cũng nắm chắc kiến thức về từ, củng cố tri thức mới, rèn luyện các kỹ năng cơ sở, phát triển tư duy, ngôn ngữ... giúp học sinh tự tin hơn khi giao tiếp. * Cơ sở thực tiễn : Chương trình các môn học ở trường tiểu học hiện nay đã được sắp xếp một cách khoa học hệ thống song đối với học sinh tiểu học là bậc học nền tảng, đến trường là một bước ngoặt lớn của các em trong đó hoạt động học là hoạt động chủ đạo, kiến thức các môn học về tự nhiên và xã hội chưa được bao nhiêu, vốn từ sử dụng vào trong cuộc sống để diễn đạt trình bày tư tưởng, tình cảm của mình còn quá ít. Mặc dù vấn đề nghĩa của từ, các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa và việc dạy vấn đề này ở trường tiểu học không gây nhiều tranh cãi như việc dạy nội dung cấu tạo từ nhưng đây lại là công việc không mấy dễ dàng bởi vì nghĩa của từ là một vấn đề phức tạp, trừu tượng, khó nắm bắt trong khi đó tư duy của học sinh tiểu học chủ yếu thiên về cụ thể tư duy trừu tượng phát triển nhưng ở mức độ thấp. Các em thường lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm, giải nghĩa từ còn mang tính chung chung, không chính xác. Hơn thế nữa, các em chưa ý thức được vai trò xã hội của ngôn ngữ, chưa nắm được các phương tiện kết cấu và quy luật cũng như họat động chức năng của nó. Mặt khác, HS cần hiểu rõ người ta nói và viết không chỉ cho riêng mình mà cho người khác nên ngôn ngữ cần chính xác, dễ hiểu, tránh làm cho người khác hiểu sai nội dung câu, từ, ý nghĩa diễn đạt. Chính vì vậy việc dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa có rất nhiều giáo viên trong trường quan tâm song chưa có ai nghiên cứu nên tôi đã chọn vấn đề này giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc khi học mảng kiến thức này của môn Tiếng Việt. 2. Thực trạng: 2.1. Thực trạng của nhà trường: Năm học 2014 - 2015, trường Tiểu học Quyết Thắng có ba lớp 5 với 105 học sinh. Tôi được phân công dạy và chủ nhiệm lớp 5A. Lớp tôi chủ nhiệm có 35 học sinh trong đó có 19 nữ, 16 nam. Trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình, tôi gặp một số khó khăn và thuận lợi như sau: *Thuận lợi : + Về phía Nhà trường: - Luôn quan tâm đến chất lượng dạy của GV và chất lượng học của HS. - Đầu tư đầy đủ cơ sơ vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác dạy và học. - Hàng tuần có các buổi sinh hoạt chuyên môn để GV trao đổi kinh nghiệm, thảo luận bài để tìm ra phương pháp, hình thức dạy học tối ưu trong quá trình dạy. - Tổ chức thao giảng các cấp để giáo viên được cọ sát, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. + Về phía giáo viên: - Phần lớn giáo viên của trường có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đạt và vượt chuẩn, nhiều giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi các cấp. - Giáo viên trong các tổ, khối chuyên môn luôn tự học hỏi để bổ sung, cập nhật kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy của mình. - Giáo viên quan tâm đến các đối tượng học sinh, nhiệt tình trong công tác giảng dạy. + Về phía học sinh: - Phần nhiều học sinh ngoan, tích cực trong học tập và rèn luyện. - Các em có đầy đủ đồ dùng học tập, sách giáo khoa, vở viết đúng quy định. - Phụ huynh học sinh luôn quan tâm đến việc rèn luyện học tập HS, có sự kết hợp giữa phụ huynh, giáo viên và các lực lượng giáo dục trong, ngoài Nhà trường. * Khó khăn: + Về phía giáo viên: - Đôi khi ở một số tiết giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học còn sơ sài chưa kích thích được sự hứng thú, tìm tòi, sáng tạo của học sinh. - Một vài giáo viên chưa nhanh nhạy trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. + Về phía học sinh: - Một số ít học sinh còn lười học, làm bài còn cẩu thả, làm các bài toán dưới hình thức qua loa cho xong. - Một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học của con mình, còn giao phó việc rèn luyện và học tập của học sinh cho Nhà trường. 2.2. Thực trạng dạy của giáo viên * Ưu điểm: - Đa số giáo viên trong trường rất nhiệt tình, tích cực trong quá trình giảng dạy. Giáo viên đã quan tâm, đầu tư thời gian để tìm hiểu chương trình, nội dung từng tiết dạy, truyền đạt đủ kiến thức cơ bản, trọng tâm theo yêu cầu, mục tiêu của mỗi tiết học, mỗi chủ đề và mỗi chương. - Giáo viên đã chú trọng đến việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng được nhiều phương pháp dạy học như: vấn đáp, trực quan, giảng giải...giúp học sinh chiếm lĩnh được kiến thức mới. - Đa số giáo viên đã quan tâm đến việc bồi dưỡng các đối tượng học sinh trong lớp. Giáo viên đã chú trọng tới đổi mới các hình thức tổ chức dạy học, dạy học có sử dụng đồ dùng, mô hình, vật thật. - 95% GV có kiến thức về tin học và 80% GV đã thiết kế bài giảng điện tử. * Một số tồn tại: - Một số giáo viên còn lúng túng khi miêu tả, giải thích nghĩa của từ. Khi thể hiện tiết dạy hầu như GV chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá - giỏi, còn lại đa số HS khác thụ động ngồi nghe, một số em khác có muốn nêu cách hiểu của mình về nghĩa của từ, từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm cũng sợ sai lệch, từ đó tạo nên không khí một lớp học trầm lắng, HS làm việc tẻ nhạt, thiếu hứng thú, không tạo được hiệu quả trong giờ học. - Đôi khi điều kiện giảng dạy của giáo viên còn hạn chế, các tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy chưa phong phú. - Khả năng vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học chưa cao. - Một số giáo viên phụ thuộc theo sách giáo khoa, áp đặt học sinh tiếp thu kiến thức thụ động không mang tính sáng tạo, tích cực. - Đó đây vẫn còn giáo viên chưa tâm huyết với nghề, với học sinh, chưa chuẩn bị kĩ lưỡng cho bài dạy, mỗi tiết dạy và nhất là dạy chay. * Nguyên nhân: - Một số giáo viên có tuổi đời, tuổi nghề cao nên phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức khó thay đổi hoặc thay đổi chậm. Việc tiếp cận vấn đề lí luận chung về đổi mới phương pháp còn gặp khó khăn, lúng túng. - Khi dạy, số ít giáo viên còn chưa nghiên cứu thật kỹ nội dung bài, việc soạn bài với giáo viên là hình thức sao chép. Khi dạy giáo viên còn lệ thuộc vào tài liệu có sẵn, hình thức lựa chọn còn sơ sài, chưa cuốn hút học sinh vào bài học, kiến thức truyền thụ chưa trọng tâm. - Việc chọn lựa các hình thức dạy học chưa phù hợp với đối tượng học sinh, chưa phù hợp với bài dạy nên dẫn đến tình trạng học sinh nhàm chán. Trong tiết học thì dạy chay là chủ yếu vì ngại hướng dẫn bằng đồ dùng mất nhiều thời gian sẽ vi phạm thời gian trong tiết dạy. 2.3. Thực trạng học của học sinh *Ưu điểm : - Phần nhiều học sinh tiếp thu bài tương đối nhanh. - Học sinh có phương pháp học tập tốt, có đầy đủ góc học tập. - Nhiều học sinh được gia đình quan tâm, mua đủ sách giáo khoa, các đồ dùng học tập cần thiết cho môn học. * Tồn tại: Ở lớp 5, các em được làm quen nhiều hơn với mảng kiến thức mới: Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học... nhưng ở một số học sinh còn thiếu sự say mê cần thiết, chưa biết đọc diễn cảm bài văn hay, chưa thể xúc động thật sự với những gì đẹp đẽ được tác giả diễn qua bài văn ấy. - Kỹ năng trình bày bài của học sinh chưa tốt, có học sinh hiểu bài nhưng diễn đạt không thoát ý, học sinh chưa sáng tạo khi làm bài. - Học sinh còn khó khăn trong việc giải nghĩa các từ: giải nghĩa từ sai, lúng túng và nghĩa còn lủng củng. - Nhiều học sinh chưa biết phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ nên còn làm sai bài tập. - Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn mơ hồ, định tính. - Đặt câu có sử dụng từ nhiều nghĩa chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu. Vả lại, cách dạy của giáo viên thì nặng về giảng giải khô khăn, áp đặt. Điều này gây tâm lý mệt mỏi, ngại học trong học sinh. * Nguyên nhân: - Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học. - Vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thiếu sự quan tâm của phụ huynh đến việc học của con - em mình . - Cách dạy của nhiều giáo viên trong giờ luyện từ và câu, giải nghĩa từ trong giờ tập đọc còn đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc vào sách giáo viên, hầu như rất ít sáng tạo, chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh. - Vốn từ ngữ của một số giáo viên chưa phong phú, chưa đáp ứng được yêu cầu hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ. Kiến thức về từ vựng - ngữ nghĩa học của một số giáo viên còn hạn chế, nên bộc lộ những sơ suất, sai sót về kiến thức. - Học sinh ít hứng thú học phân môn này. Hầu hết các em được hỏi ý kiến đều cho rằng: Luyện từ và câu và giải nghĩa từ là phần học khô và khó. Một số chủ đề còn trừu tượng, khó hiểu, không gần gũi, quen thuộc. Do vậy, để dạy và học phần nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa đạt hiểu quả cao, cần chú trọng đến hình thức truyền thụ kiến thức để gây hứng thú nâng cao chất lượng học cho học sinh. Qua tìm hiểu và áp dụng một vài biện pháp dạy - học về vấn đề “Dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5” trong năm học 2014 – 2015, tôi nhận thấy hiệu quả giờ học cao hơn, học sinh hứng thú học, giờ học thật vui, thật nhẹ nhàng, sôi nổi đặc biệt mỗi học sinh đều được bộc lộ suy nghĩ về vốn sống, vốn từ của mình 3. Biện pháp dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa: Nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối tượng của hiện thực (một hiện tượng, một quan hệ, một tính chất, hay một quá trình) trong nhận thức, được ghi lại bằng một tổ hợp âm thanh xác định. Để tăng vốn từ cho học sinh, ngoài việc hệ thống hóa vốn từ, công việc quan trọng là làm cho học sinh hiểu nghĩa từ, phân biệt được các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc dạy nghĩa của từ được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, thì ở đó có dạy nghĩa từ. Bài tập giải nghĩa từ xuất hiện trong phân môn LTVC không nhiều nhưng việc giải nghĩa từ lại chiếm vị trí rất quan trọng trong các bài học MRVT. Việc cho các em hiểu nghĩa các từ chủ điểm, từ trung tâm của mỗi trường nghĩa là vô cùng cần thiết. Mục tiêu của biện pháp dạy nghĩa của từ cho học sinh lớp 5. - Chia nhóm từ và xác định biện pháp giải nghĩa từ tương ứng với các nhóm. - Định hướng các biện pháp giải nghĩa từ thích hợp với lượng từ ngữ cần cung cấp cho học sinh lớp 5 và các biện pháp tìm hiểu từ ngữ nghệ thuật trong các văn bản Tập đọc của khối lớp 5. - Dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa. 3.2. Nội dung và cách thực hiện biện pháp: Biện pháp 1: Giải nghĩa từ cho học sinh lớp 5. Qua 16 tiết MRVT và 69 văn bản tập đọc, tôi thống kê được hơn 200 từ học sinh cần hiểu nghĩa. Đây là số lượng từ khá lớn so với khả năng giải nghĩa của học sinh độ tuổi 11,12. Trong một số công trình nghiên cứu về PPDH TV và một số tài liệu hướng dẫn giáo viên tiểu học dạy từ ngữ đã nêu một số cách giải nghĩa sau: “Giải nghĩa bằng trực quan; giải nghĩa bằng cách đối chiếu so sánh với các từ khác; giải nghĩa bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa; giải nghĩa từ bằng cách phân tích từ các thành tố và giải nghĩa từng thành tố này; giải nghĩa bằng định nghĩa.... Tôi đã chia các từ mà sách giáo khoa TV5 yêu cầu học sinh hiểu nghĩa thành các nhóm và xác định biện pháp giải nghĩa từ tương ứng với mỗi nhóm. A. Giải nghĩa bằng định nghĩa Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung nghĩa, gồm tập hợp các nét nghĩa bằng một định nghĩa. Tập hợp nét nghĩa được liệt kê theo sự sắp xếp nét nghĩa khái quát, cũng là nét nghĩa từ loại lên trước hết và các nét nghĩa càng hẹp, càng riêng thì càng ở sau. Tôi đã hướng dẫn HS: - Nhận dạng được ý nghĩa phạm trù của từ. - Xác định tiểu loại của từ. Tạm thời phân biệt cách giải nghĩa các nhóm từ như sau: a. Nhóm các từ thuộc từ loại danh từ * Danh từ trừu tượng Khi giải nghĩa các danh từ trừu tượng, tôi hướng dẫn HS làm như sau: - Chọn được các từ gọi tên các nét nghĩa khái quát. - Xác định rõ phạm trù nghĩa của các từ cần giải nghĩa. - Tùy đặc điểm riêng từng từ mà có thể chọn một trong các từ sau: sự, cuộc, những, phạm vi, lĩnh vực, nơi.... làm từ công cụ để mở đầu nét nghĩa khái quát cho mỗi từ. Ví dụ: Tôi hướng dẫn HS giải nghĩa từ: “Tư tưởng”: - Chọn được các từ gọi tên các nét nghĩa khái quát: suy nghĩ hoặc ý nghĩ ( tập trung tư tưởng). - Xác định rõ phạm trù nghĩa của các từ cần giải nghĩa: quan điểm và ý nghĩa chung của người đối với hiện thực khách quan (tư tưởng tiến bộ, tư tưởng phong kiến...) - Chọn từ công cụ để mở đầu cho nét nghĩa “sự”. Vậy, “tư tưởng” là sự suy nghĩ hoặc ý nghĩ (tập trung tư tưởng), quan điểm và ý nghĩa chung của người đối với hiện thực khách quan (tư tưởng tiến bộ, tư tưởng phong kiến...) * Danh từ chỉ sự vật cụ thể. Tên gọi các sự vật tồn tại trong thực tế khách quan có rất nhiều nhưng có thể quy về các phạm trù sau: - Từ chỉ đồ vật, từ chỉ người và con vật, từ chỉ cây cối, chỉ các hiện tượng tự nhiên... Vì thế nét nghĩa khái quát mở đầu cho cách giải nghĩa bằng định nghĩa. Khi dạy bài Cửa sông (TV5- T2 - Tr 75), tôi đã hướng dẫn HS giải nghĩa từ “Tôm rảo” : một loại tôm (nghĩa khái quát) sống ở vùng nước lợ, thân nhỏ và dài. Với các từ chỉ đồ vật, dụng cụ, đồ dùng hoặc phương tiện sản xuất, sau nét nghĩa phạm trù là nét nghĩa hình dáng, kích thước, cấu tạo và cuối cùng là nét nghĩa chức năng. Ví dụ: (cái) Bay (TV5- T1- Tr 148): đồ vật (nét nghĩa phạm trù), dụng cụ của thợ nề, gồm một miếng thép mỏng hình lá lắp vào cán (nét nghĩa
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_nghia_cua_tu_va_c.doc