Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán lớp 4

Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế tri thức của thời đại, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra nhiệm vụ: " Nâng cao dân trí - Phát huy nguồn nhân lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam". Bởi vậy giáo dục luôn được xác định là " quốc sách hàng đầu", mà " giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục đào tạo". ( Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 - khóa VIII).

 Với vai trò là cấp học nền tảng, giáo dục tiểu học phải " nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh học tiếp trung học cơ sở".

Do đó, mục đích giúp học sinh có những kĩ năng, kiến thức đặc biệt là kiến thức toán học có vị trí rất quan trọng, đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.

Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩa, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt. góp phần giáo dục ý chí nhẫn nại, ý chí vượt khó khăn.

Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán vấn đề đặt ra cho người dạy là làm thế nào để giờ dạy - học toán có hiệu quả cao, học sinh được phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Vậy giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào để truyền đạt kiến thức và khả năng học bộ môn này tới học sinh tiểu học.

 

doc 14 trang thuychi01 27434
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
I. LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
02
02
03
03
03
 03
03
04
 05
12
 12
12
13
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
 	Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế tri thức của thời đại, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra nhiệm vụ: " Nâng cao dân trí - Phát huy nguồn nhân lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam". Bởi vậy giáo dục luôn được xác định là " quốc sách hàng đầu", mà " giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục đào tạo". ( Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 - khóa VIII).
	Với vai trò là cấp học nền tảng, giáo dục tiểu học phải " nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh học tiếp trung học cơ sở".
Do đó, mục đích giúp học sinh có những kĩ năng, kiến thức đặc biệt là kiến thức toán học có vị trí rất quan trọng, đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.
Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩa, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt... góp phần giáo dục ý chí nhẫn nại, ý chí vượt khó khăn.
Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán vấn đề đặt ra cho người dạy là làm thế nào để giờ dạy - học toán có hiệu quả cao, học sinh được phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Vậy giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào để truyền đạt kiến thức và khả năng học bộ môn này tới học sinh tiểu học.
Theo tôi các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí mục đích và nhiệm vụ mục tiêu giáo dục của môn toán ở bài học nói chung và trong giờ dạy toán lớp 4 nói riêng. Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến toán học, rèn kỹ năng giải toán mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả cho học sinh tức là dạy cách học. Mặt khác, sản phẩm của giáo dục khác với sản phẩm của người thợ may, thợ mộc... sản phẩm của giáo dục là đào tạo ra những con người biết sáng tạo. Vì vậy việc lựa chọn, sử dụng ưu thế của từng PPDH sao cho phù hợp với mục tiêu, nội dung ở từng loại bài học, ở từng lớp học, ở từng giai đoạn dạy học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh phải là một nghệ thuật. Trong giảng dạy, mỗi GV đều có cách thức, biện pháp riêng của mình. Song đều phải đạt mục đích chung là tổ chức hoạt động dạy học hiệu quả. 
Xuất phát từ quan điểm chương trình mới cần thực hành, vận dụng nên nói chung nội dung chương trình thường tinh giảm, tập trung vào các kiến thức kỹ năng cơ bản bám sát thực tế, tích hợp được nhiều mặt giáo dục. Nhằm phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn chế, để giúp học sinh lĩnh hội được đầy đủ các kiến thức từ những phương pháp dạy học. Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi luôn trăn trở phải làm gì, làm như thế nào để HS tự chiếm lĩnh kiến thức môn Toán một cách nhẹ nhàng, biến những ý nghĩ "học Toán thật là khó" của các em thành hứng thú học Toán . Tôi Chính vì vậy, trong quá trình dạy học, tôi đã đi sâu vào tìm hiểu và rút ra được "Một số biện pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán lớp 4".
2. Mục đích nghiên cứu:
 Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác dạy học môn Toán lớp 4 ở trường Tiểu học Đông Vệ 1, nhằm đề xuất những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên để nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở lớp 4C nói riêng và trong nhà trường nói chung
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu phương pháp dạy học tích cực trong môn Toán lớp 4. Từ đó đưa ra các biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán đạt hiệu quả cao.
4. Phương pháp nghiên cứu:
 - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
 - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
 - Phương pháp, điều tra thống kê.
 - Phương pháp so sánh, đối chiếu.
 - Phương pháp đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm.
NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
	Việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới PPDH. Mục đích của đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo; rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn; có niềm vui và hứng thú trong học tập. 
	Phương pháp dạy học là lĩnh vực phức tạp và đa dạng. Hiện có nhiều tài liệu, nhiều quan điểm, quan niệm khác nhau về PPDH ở Tiểu học nói chung, PPDH Toán nói riêng. Điều đó, một mặt tạo cơ hội cho GV được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin phong phú, đa dạng, nhưng mặt khác cũng gây lúng túng cho một số GV trong quá trình thực hiện đổi mới PPDH.
	Từ mục đích đổi mới PPDH, giáo viên cần căn cứ vào nội dung , tính chất từng bài; căn cứ vào trình độ học sinh, sở trường của GV và điều kiện hoàn cảnh của lớp học mà có những cách thức, biện pháp phù hợp giúp HS lĩnh hội kiến thức, kết hợp sử dụng các PPDH một cách linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả.
2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm	
* Về phía giáo viên:
Việc đổi mới PPDH đã được thực hiện trong nhiều năm qua. Trong thực tế dạy học vẫn còn một số GV chưa chú ý đúng mức tới việc vận dụng ưu điểm và phối hợp các PPDH như thế nào cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Nguyên nhân là do giáo viên chưa nghiên cứu kĩ các phương pháp cần thiết và tích cực áp dụng cho từng bài dạy, Tổ chức các hình thức dạy và học chưa phong phú, chưa đạt được hiệu quả. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh, chưa kích thích được khả năng tư duy của HS. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, truyền đạt kiến thức còn mang tính áp đặt, giảng giải, đơn điệu.
Nội dung mỗi bài học thường nằm ngay trong tiêu đề bài học. GV chưa chú ý đúng mức đến việc giúp HS hiểu nghĩa của các từ ngữ trong đầu bài, chưa chú ý đến ý nghĩa thực tế của bài toán. Quá trình dẫn dắt khai thác nội dung chưa logic, chưa tạo ra những tình huống có vấn đề để HS tự nhớ lại kiến thức cũ vận dụng làm bài, chủ động, sáng tạo trong tư duy để tìm ra kiến thức mới, vận dụng các hình thức dạy học còn mang tính hình thức. Trong thực hành GV cũng chưa khai thác hết những đơn vị kiến thức cần củng cố, những kiến thức cần mở rộng hay chốt lại cách thực hiện.
	Việc sử dụng đồ dùng dạy học không kém phần quan trọng. Đồ dùng dạy học phong phú, mới lạ, hay đơn giản đều phải có tác dụng thu hút các giác quan, tăng sự chú ý của học sinh vào bài giảng. Điều quan trọng là phải tạo chỗ dựa cho quá trình suy nghĩ, tri giác tiếp theo. Những đồ dùng dạy học càng thu hút và huy động được nhiều các giác quan của học sinh thì càng có hiệu quả. Một số giáo viên chỉ vẽ hình và cho học sinh quan sát, tìm kiến thức mới trên hình: Không cho các em thao tác và như thế các em chỉ huy động được giác quan thị giác (nhìn lên bảng) và thính giác (nghe cô giảng bài). Thực tế, một số giáo viên ít dành thời gian cho việc nghiên cứu, chuẩn bị thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết dạy đạt hiệu quả dẫn tới việc tiếp thu bài môn Toán chưa cao.
* Về phía học sinh:
Qua giảng dạy tôi thấy, rất nhiều em do điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn, cha mẹ chưa có thời gian quan tâm đến việc học tập của các em nên chủ yếu các em học ở trên lớp là chính. Vì thế việc học tập của các em gặp rất nhiều trở ngại. 
Bên cạnh đó, HS chưa nhận thức đúng vai trò của môn Toán, ngại học toán. Học sinh chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chỉ nắm được lượng kiến thức thầy giảng theo kiểu ghi nhớ máy móc, làm bài theo các bước, không thể giải thích được các bước giải, hoặc rất nhanh quên và kỹ năng tính toán hạn chế. 
Ví dụ: Khi học xong các các phép tính với phân số các em vẫn còn nhầm lẫn: cộng hai phân số cùng mẫu số cũng quy đồng rồi cộng hai tử số, có khi nhân phân số các em cũng quy đồng mặc dù khi học xong bài mới các em vân dụng làm bài rất tốt. Hoặc nhầm lẫn giữa các bước làm của các bài toán điển hình, giữa các tính chất được học trong chương trình...
Trước thực trạng trên, trong quá trình dạy học tôi nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm, vận dụng các phương pháp dạy học trong chương trình toán 4, trong từng bài học để HS tiếp thu bài chủ động, tích cực tôi chọn đối tượng HS lớp mình dạy là lớp 4C Trường Tiểu học Đông Vệ 1 để nghiên cứu.
* Kết quả
 Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành ra đề bài khảo sát và đánh giá theo Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ đó nắm bắt được chất lượng của học sinh để có biện pháp giúp đỡ.
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 4C trường Tiểu học Đông Vệ 1
Số học sinh tham gia khảo sát: 38 em
Tổng số
học sinh
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
38 em
25
65,8
13
34,2
Từ thực trạng và kết quả khảo sát trên, tôi đã nghiên cứu để tìm ra cách giải quyết khắc phục. 
Các biện pháp đã sử dụng
Biện pháp 1: Giúp học sinh hiểu một số thuật ngữ toán học khi học môn Toán.
Trong chương trình Toán 4, tên đầu bài chính là kiến thức trọng tâm của bài. Khi dạy học bài mới, GV cần chú ý giải nghĩa các thuật ngữ toán học mới mà HS lần đầu làm quen. Liên hệ với các từ ngữ chứa các thuật ngữ thường dùng trong cuộc sống. Điều này sẽ giúp HS định hình và hiểu vấn đề bài học tốt hơn. Tùy thuộc vào từng bài học mà GV có thể chọn thời điểm giải nghĩa hay liên hệ cho phù hợp.
Ví dụ: Bài "Quy đồng mẫu số các phân số". 
Đây là bài học mà lần đầu tiên HS được tiếp xúc với thuật ngữ "quy đồng". Sau khi giới thiệu bài học, GV cần giúp HS hiểu nghĩa của từ này bằng cách Tìm hiểu nghĩa của từng từ: " quy" là gom lại, đưa về, tính về...,"đồng" là "cùng" ,"quy đồng" trong toán học được hiểu là tính về cùng. Vậy "quy đồng mẫu số" là tính về cùng mẫu số ( làm cho các mẫu số giống nhau). 
Ví dụ: Bài "Tính chất giao hoán của phép cộng". 
Thuật ngữ " tính chất giao hoán" cũng là lần đầu tiên HS được tiếp xúc. Vì tên thuật ngữ này liên quan đến nội dung tính chất nên GV cần giúp HS hiểu nghĩa của từ ngay từ đầu bài học: "giao hoán" là trao đổi vị trí từ đó hiểu nội dung tính chất giao hoán của phép cộng là thay đổi vị trí ( đổi chỗ) các số hạng trong phép cộng. Điều đó giúp HS hiểu do chỉ thay đổi vị trí các số hạng chứ không phải thay đổi giá trị các số hạng nên tổng không thay đổi.
Có thể nói, việc HS hiểu nghĩa của các thuật ngữ toán học sẽ giúp HS có nhiều thuận lợi trong quá trình hình thành hoặc tìm ra kiến thức mới, và như vậy việc ghi nhớ kiến thức cũng tốt hơn. 
Biện pháp 2: Giúp học sinh phát hiện, tự chiếm lĩnh kiến thức và hiểu sâu kiến thức trọng tâm của bài học.
Đối với các bài học là bài nhận biết kiến thức mới, GV cần tạo ra các tình huống có vấn đề, giúp HS tự phát hiện vấn đề của bài học rồi sử dụng kiến thức đã học, kinh nghiệm của bản thân ( hoặc kinh nghiệm của các bạn trong nhóm nhỏ) để tìm mối liên hệ của vấn đề đó với các kiến thức đã biết, từ đó tự tìm cách giải quyết vấn đề.
Chẳng hạn dạy bài “ Chia hai số có tận cùng là các chữ số 0 ” 
* GV đưa ví dụ 1: 320 : 40 = ?
 Yêu cầu HS nhận xét đặc điểm của số bị chia, số chia để nhận ra phép chia hai số có tận cùng là các chữ số 0. Đây là vấn đề cần giải quyết. Việc yêu cầu HS tìm thương của phép chia này là tình huống gợi vấn đề, là yêu cầu nhận thức mà HS chưa thể giải quyết được ngay, nhưng bằng vốn kiến thức đã học, sự hướng dẫn của GV thì HS có thể tìm ra cách làm.
 Cách hướng dẫn như sau: 
+ Bước 1: Định hướng cho HS vận dụng tính chất chia một số cho một tích để tìm kết quả. 
 320 : 40 = 320 : ( 10 x 4)
	 = 320 : 10 : 4
 	 = 32 : 4
	 = 8
+ Bước 2: HS nhận xét nhận ra 320 : 40 = 32 : 4. Đây là vấn đề của bài học mà GV cần giúp HS phát hiện. GV tổ chức cho HS hợp tác, trao đổi nhóm nhỏ để nhận thấy được kết quả phép chia 320 : 40 cũng bằng kết quả của phép chia 32 : 4. HS phải lí giải được số bị chia, số chia đã cùng giảm 10 lần, và khi cùng giảm như vậy thì thương không thay đổi. 
+ Bước 3: Rút ra nhận xét: Khi chia 320 : 40 ta có thể cùng xóa một chữ số 0 ở tận cùng của số bị chia, số chia , rồi chia như thường.
Với cách làm trên, HS vừa chủ động chiếm lĩnh kiến thức, vừa hiểu bản chất cách làm mà không tiếp thu thụ động theo hướng dẫn từng bước của GV.
* Ví dụ 2: 32000 : 400 = ?
 HS có thể vận dụng những hiểu biết ở ví dụ 1 để tìm thương của phép chia này.
Trong thực tế giảng dạy, tôi đã gặp 2 trường hợp xảy ra:
 Trường hợp 1: Nhiều HS khá, giỏi thực hành và tìm ngay được kết quả của phép tính. Các em đã giảm số bị chia và số chia 100 lần bằng cách cùng xóa ở số chia và số bị chia mỗi số hai chữ số 0.
 32000 : 400
 = 320 : 4 
 = 80
 Khi GV yêu cầu HS giải thích cách làm, HS dùng tính chất chia một số cho một tích, liên hệ ở ví dụ 1 để lí giải rất chính xác.
Trường hợp 2: Một số HS trung bình, yếu thực hiện tuần tự như ví dụ1.
Như vậy, việc HS tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề ở ví dụ 1 đã giúp HS hiểu sâu ví dụ 1, là cơ sở cho sự liên tưởng đến cách giải quyết vấn đề của ví dụ 2. 
Có thể nói, việc giúp HS tự mình phát hiện và tự giải quyết vấn đề sẽ giúp HS tiếp thu kiến thức nhanh, hiệu quả và ghi nhớ lâu vì đó là trải nghiệm của các em.
Bên cạnh đó, GV cần sử dụng phương pháp hỏi đáp giúp HS hiểu và ghi nhớ nội dung bài học. Bởi lẽ trong quá trình học, HS phát hiện và tìm cách giải quyết vấn đề theo suy nghĩ của mình hoặc của nhóm. HS có thể nhớ các bước làm của sách khi chuẩn bị bài nhưng chưa hiểu mục đích, ý nghĩa của từng bước, trình tự các bước . Vì vậy, cần có sự hướng dẫn của GV bằng hệ thống câu hỏi phù hợp, nhằm hướng HS thực hiện nhiệm vụ học tập, giúp HS hiểu đúng và hiểu sâu nội dung bài học.
 Ví dụ trong bài “ Chia hai số có tận cùng là các chữ số 0 ” như đã đề cập ở trên.
 Sau khi HS phát hiện ra 320 : 40 = 32 : 4, GV đưa ra một số câu hỏi giúp HS hiểu tại sao 320 : 40 = 32 : 4. 
 Ở ví dụ1 Có thể hỏi như sau:
Câu 1: Số bị chia và số chia đã thay đổi như thế nào ? ( Cùng giảm 10 lần).
Câu 2: Khi cùng giảm số chia, số bị chia cùng một số lần như nhau(10 lần) thì thương như thế nào? ( Thương không thay đổi).
Câu 3: Khi chia 320 :40 ta có thể thực hiện như thế nào cho thuận tiện?
(Cùng bớt ở số chia và số bị chia một chữ số 0)
 Nhưng sang ví dụ 2, GV không dùng câu hỏi như ví dụ 1 nhưng HS vẫn có thể hiểu, giải thích cách làm của mình như ví dụ1.
Để giúp HS hiểu sâu hơn nội dung bài học, GV có thể đặt câu hỏi:
Câu 1: Khi cùng xóa 1,2,3... chữ số 0 ở tận cùng của số chia, số bị chia của một phép chia để được một phép chia mới thì thành phần nào của phép chia thay đổi, thành phần nào không thay đổi?( Số bị chia, số chia, số dư( trường hợp chia có dư) thay đổi vì cùng giảm 10,100, 1000... lần. Thương không thay đổi. )
 Trả lời được câu hỏi này là cơ sở để HS có thể xác định được số dư trong phép chia trường hợp chia có dư. Đây là yêu cầu cao hơn, kích thích sự tư duy, mở rộng kiến thức cho đôid tượng HS khá, giỏi.
Câu 2: Trong phép chia nên xóa chữ số 0 ở số nào trước? ( xóa ở số chia trước, làm vậy sẽ tránh nhầm lẫn trong trường hợp số bị chia có nhiều chữ số 0.)
Những định hướng về kiến thức cần khai thác và cách dẫn dắt của GV như trên, ngoài việc giúp HS hiểu bản chất của cách thực hiện, ghi nhớ cách làm còn là cơ sở cho việc giải các bài toán củng cố và mở rộng có liên quan đến chia hai số có tận cùng là chữ số 0. 
	Biện pháp 3: Sử dụng các đồ dùng dạy học đơn giản, hiệu quả phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
	a. Sử dụng linh hoạt đồ dùng dạy học các môn học khác để dạy Toán.
Trong chương trình Toán 4, việc dạy HS có những biểu tượng ban đầu về các đối tượng toán học, đặc biệt là các yếu tố hình học, phân số phải gắn liền với việc hướng dẫn HS hoạt động trực tiếp trên các đồ dùng dạy học. Việc sử dụng triệt để và có hiệu quả các đồ dùng dạy học của môn Toán, của các môn học khác giúp HS có chỗ dựa cho hoạt động tư duy trong quá trình lĩnh hội các kiến thức của bài học.
Ví dụ 1: Dạy bài "Góc nhọn, góc tù, góc bẹt".
 Để giới thiệu góc nhọn GV và HS sử dụng bộ lắp ghép mô hình kĩ thuật lớp 4. Cách hướng dẫn và thao tác đồ dùng như sau:
+ Bước 1: Dùng 2 thanh dài trong bộ lắp ghép mô hình kĩ thuật 4 và ốc vít tạo thành một góc vuông. Bóp nhẹ hai thanh vào trong để tạo thành góc nhọn. Gọi tên góc mới. Cho HS quan sát, nhận xét sự thay đổi của góc vuông ban đầu -> Giới thiệu góc vừa tạo thành là góc nhọn.
+ Bước 2: HS thực hành trên đồ dùng để phát hiện và kiểm chứng kết quả.
+ Bước 3: HS tự nêu đặc điểm của góc nhọn , so sánh độ lớn của góc nhọn với góc vuông. Dùng ê ke để kiểm tra.
+ Bước 4: Cho HS tìm những hình ảnh xung quanh về góc nhọn.
Giới thiệu góc tù, góc bẹt cũng dùng bộ lắp ghép mô hình kĩ thuật 4 với thao tác tương tự, GV dễ dàng giúp HS nắm vững nội dung bài học.
Với đồ dùng học tập này, HS có thể tự làm, thao tác trong nhóm đôi rồi trình bày các đặc điểm của góc. Và thực tế HS tự tìm ra và ghi nhớ đặc điểm của các góc rất tốt. 
Sau khi HS đã nhận biết các góc, GV tổ chức trò chơi biểu diễn hình ảnh của các góc vừa học bằng hai bàn tay, thực tế không có hoặc rất ít HS biểu diễn sai.
Ví dụ 2: Dạy bài "Hình bình hành" 
Để giới thiệu hình bình hành GV có thể hướng dẫn HS sử dụng bộ đồ dùng kĩ thuật 4 và thao tác đồ dùng như sau:
+ Bước 1: Dùng 4 thanh dài trong bộ lắp ghép mô hình kĩ thuật 4 và ốc vít tạo thành một hình chữ nhật. Dùng tay xô lệch hình chữ nhật thành hình bình hành. Gọi tên hình mới. Cho HS quan sát, nhận xét sự thay đổi của hình chữ nhật ban đầu với hình vừa tạo thành là hình bình hành.
+ Bước 2: HS thực hành trên đồ dùng để phát hiện và kiểm chứng kết quả.
+ Bước 3: Từ trực quan, HS nhận ra sự thay đổi về góc, không thay đổi về độ dài các cạnh. Từ đó rút ra đặc điểm của hình bình hành, so sánh với đặc điểm của hình chữ nhật để ghi nhớ.
Dạy bài "Hình thoi" GV cũng thao tác và hướng dẫn tương tự.
b. Sử dụng sáng tạo, hiệu quả đồ dùng tự làm.
Thực tế trong quá trình dạy học, có nhiều đồ dùng được làm từ các nguyên liệu dễ tìm, dễ làm, sử dụng sáng tạo sẽ mang lại hiệu quả cao trong dạy học.
 Ví dụ 1: Dạy bài “Phép cộng phân số”.
Bài này sử dụng đồ dùng dạy học như hướng dẫn ở SGK để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau. Nhiều giáo viên hướng dẫn HS bằng đồ dùng tự làm của GV: dùng thước chia đều băng giấy thành 8 phần bằng nhau rồi tô màu các phần của băng giấy, hình thành phép cộng phân số. Chia đều băng giấy thành 8 phần theo cách làm như vậy mất nhiểu thời gian, chưa phát huy tính sáng tạo. Có thể cho HS tự làm đồ dùng, tự thao tác đồ dùng . Cụ thể như sau: 
Chia HS thành các nhóm 4, thao tác đồ dùng theo các yêu cầu trong phiếu học tập:
+ Bước 1: - Tìm cách chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo chiều ngang.
+ Bước 2: Tô màu vào băng giấy và Tô màu vào băng giấy.
+ Bước 3: Nhìn vào băng giấy học sinh nêu được hai lần đã tô màu được băng giấy.
Học sinh nêu phép tính tìm số phần băng giấy qua hai lần tô màu. Dựa vào trực quan để nêu kết quả của phép tính. Từ đó tìm ra cách cộng hai phân số: + = = .
+ Bước 4: Kết luận (Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với nhau và giữ nguyên mẫu số).
Ví dụ 2: Dạy bài “Đề-xi-met vuông”.
Thực tế, còn rất nhiều HS hay nhầm lẫn, thậm chí không phân biệt được diện 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_hoc_phat_huy_tinh.doc