Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 3

Trẻ từ khi bắt đầu đi học, các em đã được tiếp xúc với kiến thức đơn giản của môn tập đọc rồi từ đó mở rộng ra, nâng cao dần, ngày càng phong phú và đa dạng hơn, cao hơn, hay hơn. Qua đó dạy học tốt phân môn tập đọc ở tiểu học nói chung, ở lớp ba nói riêng là vô cùng quan trọng trong hệ thống các môn học. Dạy tốt phân môn tập đọc có thể bồi dưỡng cho học sinh nhiều mặt vì nó có tính chất khởi đầu cho người đi học. Vì vậy phân môn tập đọc ở tiểu học đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Nhiều nhà nghiên cứu và các giáo viên có nhiệt huyết đã bỏ nhiều công sức đi sâu nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm để giải quyết vấn đề đang được quan tâm này. Là một giáo viên tiểu học, tôi thấy mình phải tự tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra những phương pháp và cách dạy tốt nhất với môn tập đọc giúp các em học tốt môn học này, đồng thời từ đó các em học tốt các môn học khác.

Tập đọc là một phân môn có ý nghĩa quan trọng trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Giảng dạy Tập đọc, người giáo viên có nhiệm vụ thực hiện những yêu cầu cơ bản về kiến thức, kỹ năng và thái độ những kiến thức, kỹ năng và thái độ đó được xác định như sau:

- Rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc ngày càng thành thạo. Đây là yêu cầu có tính đặc trưng của phân môn tập đọc; đồng thời là một trong bốn kỹ năng cơ bản (nghe - nói - đọc - viết) của môn Tiếng Việt. Để đạt hiệu quả cho kỹ năng này, đòi hỏi giáo viên phải chú ý đến: Rèn cả 2 hình thức đọc (đọc thành tiếng và đọc thầm) nâng dần tốc độ đọc và trình độ đọc thông hiểu - cảm nhận văn bản theo mức độ yêu cầu đề ra ở từng lớp cho học sinh.

- Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của mình về cuộc sống. Đây là yêu cầu chung của tất cả các phân môn Tiếng Việt, nhưng tập đọc đóng vai trò chủ chốt, vì phân môn này có khả năng và điều kiện tốt hơn, toàn diện hơn các phân môn khác (qua các bài tập đọc được sắp xếp theo chủ điểm).

 

doc 16 trang thuychi01 25513
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:
Trẻ từ khi bắt đầu đi học, các em đã được tiếp xúc với kiến thức đơn giản của môn tập đọc rồi từ đó mở rộng ra, nâng cao dần, ngày càng phong phú và đa dạng hơn, cao hơn, hay hơn. Qua đó dạy học tốt phân môn tập đọc ở tiểu học nói chung, ở lớp ba nói riêng là vô cùng quan trọng trong hệ thống các môn học. Dạy tốt phân môn tập đọc có thể bồi dưỡng cho học sinh nhiều mặt vì nó có tính chất khởi đầu cho người đi học. Vì vậy phân môn tập đọc ở tiểu học đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Nhiều nhà nghiên cứu và các giáo viên có nhiệt huyết đã bỏ nhiều công sức đi sâu nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm để giải quyết vấn đề đang được quan tâm này. Là một giáo viên tiểu học, tôi thấy mình phải tự tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra những phương pháp và cách dạy tốt nhất với môn tập đọc giúp các em học tốt môn học này, đồng thời từ đó các em học tốt các môn học khác. 
Tập đọc là một phân môn có ý nghĩa quan trọng trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Giảng dạy Tập đọc, người giáo viên có nhiệm vụ thực hiện những yêu cầu cơ bản về kiến thức, kỹ năng và thái độ những kiến thức, kỹ năng và thái độ đó được xác định như sau:
- Rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc ngày càng thành thạo. Đây là yêu cầu có tính đặc trưng của phân môn tập đọc; đồng thời là một trong bốn kỹ năng cơ bản (nghe - nói - đọc - viết) của môn Tiếng Việt. Để đạt hiệu quả cho kỹ năng này, đòi hỏi giáo viên phải chú ý đến: Rèn cả 2 hình thức đọc (đọc thành tiếng và đọc thầm) nâng dần tốc độ đọc và trình độ đọc thông hiểu - cảm nhận văn bản theo mức độ yêu cầu đề ra ở từng lớp cho học sinh.
- Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của mình về cuộc sống. Đây là yêu cầu chung của tất cả các phân môn Tiếng Việt, nhưng tập đọc đóng vai trò chủ chốt, vì phân môn này có khả năng và điều kiện tốt hơn, toàn diện hơn các phân môn khác (qua các bài tập đọc được sắp xếp theo chủ điểm).
- Giáo dục mỹ cảm, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, tâm hồn cho học sinh. Yêu cầu này đáp ứng rõ mục tiêu đào tạo của bậc tiểu học: Giáo dục con người toàn diện.
- Để thực hiện tốt những nhiệm vụ trên đòi hỏi mỗi giáo viên trong từng tiết dạy Tập đọc phải linh hoạt mềm dẻo, vận dụng các biện pháp, hình thức sao cho tiết dạy nhẹ nhàng, tự nhiên, đạt hiệu quả cao, từ đó mỗi giáo viên sẽ là người “thắp sáng lên những ngọn lửa” trong mỗi học sinh. Vì vậy về phương pháp, cách thức trong tiết Tập đọc là vô cùng quan trọng, cấp thiết.
Thực tiễn trong dạy tập đọc hiện nay cho thấy cách thức để rèn kỹ năng đọc là cơ bản và cần thiết.
Thứ nhất, tiết tập đọc mọi học sinh đều được hoạt động (đọc) từ đó học sinh sẽ thông hiểu được văn bản. Song thực tế số lượng học sinh được đọc còn quá ít so với yêu cầu rèn luyện của phân môn đề ra.
Thứ 2 là vệc rèn kỹ năng đọc cho học sinh cũng chưa tạo hứng thú học tập cho các em vì thực tế thường duy trì một cách thức đọc.
Thứ 3 là trong mỗi tiết học “tập đọc” phân môn đã thể hiện rõ yêu cầu rèn kỹ năng. Song cho thấy giáo viên vẫn còn tồn tại cách dạy của tiết “Giảng văn”.
Xuất phát từ những yêu cầu, lý do trên trong năm học này, tôi chọn đề tài “Kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 3”
2. Môc ®Ých nghiªn cøu.
 Trên c¬ së tìm hiểu, nghiên cứu lí luận và thực tiễn từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp khắc phục nh÷ng v­íng m¾c khã kh¨n cho gi¸o viªn, häc sinh trong qu¸ tr×nh d¹y vµ häc ph©n m«n Tập đọc. N©ng cao chÊt l­îng vµ hiÖu qu¶ d¹y häc ph©n m«n nµy.
PHẦN II: NỘI DUNG
1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng từ chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó ( ứng với hình thức đọc thành tiếng ) là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh ( ứng với đọc thầm ). Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm phần chữ viết và phát âm, nghĩa là nó không chỉ là sự đánh vần lên theo tiếng theo đúng như các ký hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Quá trình dạy học gồm có hai mặt hữu cơ với nhau, hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Người giáo viên đóng vai trò là người tổ chức hoạt động của học sinh. Mỗi học sinh đều được hoạt động, đều được bộc lộ mình, đều được phát triển. Một điều cần chú ý là hoạt động học chỉ có thể đạt hiệu quả cao nếu học sinh tiến hành các hoạt động học tập một cách tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ nhận thức sâu sắc.
Môn tiếng việt ở tiểu học chia làm nhiều phân môn, trong đó tập đọc là phân môn thực hành bằng lời nói, nếu dạy tốt môn tập đọc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các môn học khác.
Đọc là tiếp thu những thành tựu của học vần đạt được, nâng cao lên ở mức đầy đủ và hoàn chỉnh hơn, đồng thời tạo nên bốn khả năng đã nêu: đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm.
Phân môn tập đọc giáo dục cho các em lòng ham đọc sách, hình thành cho trẻ thói quen làm việc với văn bản tới từng học sinh, làm quen với sách giáo khoa. Qua đó nhà trường là thực sự là trung tâm văn hóa cho các em. Thông qua đọc giúp các em thích đọc và xác định đọc nhiều văn bản là có ích cho cuộc sống và phát triển trí tuệ văn minh. Qua đó giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thị hiếu, thẩm mỹ của các em.
Sách giáo khoa tiếng việt lớp 3, hai tập, gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với một chủ điểm, học trong 2 tuần trừ chủ điểm “ ngôi nhà chung” học trong 3 tuần, cả năm học 35 tuần. Cụ thể như sau:
Tập 1 gồm 8 chủ điểm: Măng non; Mái ấm gia đình; Tới trường (trường học); Cộng đồng ( sống với những người xung quanh); Quê hương; Bắc – Trung – Nam (các vùng miền trên đất nước ta); Anh em một nhà (các dân tộc anh em trên đất nước ta); Thành thị -  Nông thôn.
Tập 2 gồm 7 chủ điểm: Bảo vệ Tổ quốc; Sáng tạo (hoạt động khoa học, tri thức); Nghệ thuật; Lễ hội; Thể thao; Ngôi nhà chung (các nước, một số vấn đề toàn cầu như hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bảo vệ môi trường); Bầu trời và mặt đất (các hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ, con người với thiên nhiên, vũ trụ).
Nội dung tập đọc lớp 3 sát với thực tế, nội dung logic phù hợp với trình độ của học sinh. sách giáo khoa đã đáp ứng tính thực hành trong dạy và học, cấu trúc rõ ràng nhằm tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa các phân môn trong tiếng việt, tạo ra tính tổng hợp, tính thống nhất của các phân môn. Nội dung sách giáo khoa cũng thể hiện được yêu cầu nhận thức của học sinh từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp theo một hệ thống, học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, điều đó thể hiện rất rõ tính khoa học của sách.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Đặc điểm tình hình của lớp
 Năm học 2016 – 2017, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 3B. Tổng số học sinh lớp tôi gồm 31 em. Trong đó có 21 em nam và 10 em nữ. Các em hầu hết là con của các gia đình bố mẹ đều làm nghề tù do. Sau nh÷ng ngày nghØ lÔ, tÕt phụ huynh thường để con ở nhà với ông bà và đi làm ăn xa. Vì vậy việc quan tâm đến vấn đề học tập của con em chưa thật sát sao. Hoàn cảnh và môi trường sống có sự tác động nhiều đến tính cách của các em. Các em còn rụt rè, chưa mạnh dạn, ít bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình. 
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.2.1: Thực trạng việc dạy tập đọc của giáo viên:
 Trong thực tế giảng dạy phân môn Tập đọc ở lớp 3 hiện nay tôi nhận thấy hầu hết giáo viên đã dạy đúng chương trình và sách giáo khoa, học sinh nắm chắc nội dung bài được rèn đọc tốt hơn. Bên cạnh đó còn có giáo viên gặp nhiều lúng túng khi dạy phân môn này như: Còn giảng giải quá nhiều, lúng túng trong phần tìm hiểu bài. Đây là điểm mà nhiều giáo viên chưa tìm ra cách gỡ. Một số giáo viên giảng thấy lúc nào cũng chưa đủ để học sinh hiểu mà quên rằng đây là phân môn Tập đọc chứ không phải là giảng văn của Trung học cơ sở. Phần đọc trong nhóm còn hình thức, chưa đưa ra nhiều hình thức để gây hứng thú học tập cho học sinh, chưa có hệ thống câu hỏi logic phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh mà còn sử dụng một số câu hỏi có tính khái quát cao. Phần luyện đọc, nhiều giáo viên cho là dễ nhưng thực chất đây là phần khó nhất, phần trọng tâm của bài. Ở khâu này giáo viên ít mắc lỗi về thao tác kĩ thuật nhưng lại không biết cách tổ chức như thế nào để phát huy tính tích cực, sáng tạo của mỗi học sinh, chưa chú ý đến tốc độ đọc, cách phát âm, cách ngắt nghỉ hơi nhấn giọng của các em. Việc phân bố thời gian luyện đọc ít dẫn đến tiết học buồn tẻ, đơn điệu. Thời gian luyện đọc ít dẫn đến hiệu quả giờ dạy đạt không cao, không sửa chữa được lỗi phát âm sai chủ yếu cho học sinh. Giáo viên ít chú ý đến đối tượng học sinh yếu, giáo viên còn áp đặt mà coi nhẹ việc phát triển tư duy, chưa dẫn dắt để học sinh thâm nhập, tự khám phá về cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ, đặc biệt là rèn đọc diễn cảm, đọc hiểu cho học sinh, các em còn gặp khó khăn khi tiếp xúc với câu văn dài và giọng đọc phân vai.
Trong thời gian nghiên cứu viết đề tài này, tôi tiền hành dự giờ của một số đồng nghiệp khác dạy phân môn tập đọc, nói chung các giờ dạy đều thực hiện đủ các bước lên lớp, nhưng phần luyện đọc chưa thích đáng, chưa đưa ra được phương pháp cách đọc cho học sinh, chủ yếu là quam tâm đến đọc đúng câu, đúng tiếng, từ, đọc trôi chảy. Khi nhận xét giáo viên chỉ đánh giá chung, ít chú ý đến việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu và thể hiện cách đọc bài văn, bài thơ này cần đọc như thế nào? tại sao phải đọc như vậy? hoặc giáo viên chưa hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị nghệ thuật của bài để khi đọc phô diễn nội dung bài đọc. Chính vì những thiếu sót trên mà giờ học chưa đạt kết quả cao, học sinh đọc chưa được tốt. Muốn đạt hiệu quả cao cho kỹ năng đọc thì khả năng rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh là cốt lõi vấn đề.
 2. 2.2. Thực trạng học tập đọc của học sinh
 Các em chưa có ý thức chuẩn bị bài ở nhà, chưa đọc trước bài tập đọc và tìm hiểu nội dung bài đọc.Trong các giờ học Tập đọc nhiều em còn đọc chậm, đọc nhỏ như em: Tú Anh, Hồng Anh, Quý,..... 80% số học sinh chưa biết đọc nhấn giọng, hạ giọng khi cần thiết, đọc chưa biết ngắt nghỉ câu, nhất là đọc các câu thơ. Ví dụ: ngọng phụ âm đầu: ch/tr; r/gi/d hoặc vần: ương/ ươi; an/at; các dấu sắc, ngã vvvà hầu như các em chưa tự rút ra được nội dung chính của bài. Chất lượng khảo sát đầu năm:
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Ghi chú
SL
%
SL
%
Sl
%
5
16,1
21
67.8
5
16,1
3. CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Tập đọc là phân môn thực hành, nhiệm vụ quan trọng nhất là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo lên từ 4 kĩ năng, cũng là 4 yêu cầu của chất lượng đọc đó là:đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát trôi chảy), đọc có ý thức( hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Các hình thức này được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ tác động tích cực đến những kĩ năng khác.Vì vậy trong dạy đọc không được xem nhẹ yếu tố nào.
- Giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách. Thông qua việc dạy đọc phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được khả năng thực hiện tốt các nhiệm vụ của môn Tiếng Việt. - Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, kiến thức đời sống, kiến thức về văn học, rèn luyện cho học sinh kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. 
- Phát triển về ngôn ngữ, tư duy, về các mặt năng lực trí tuệ cho học sinh. 
- Giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh. Qua đó góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh. 
3.1. Chuẩn bị cho việc đọc.
- Hướng dẫn học sinh tạo tâm thế để đọc: Cần đàng hoàng, bình tĩnh. Khi cho học sinh ngồi cần phải đúng khoảng cách từ mắt đến sách (20 - 30 em) thở sâu và mạnh để lấy hơi.
- Giáo viên đọc mẫu cần bình tĩnh, tự tin và truyền thụ được cái hay của bài qua giọng đọc (tránh trường hợp thái qóa, cường điệu hoá trong giọng đọc).
- Tiêu chí cường độ và tư thế khi đọc: Rèn đọc to, đọc đàng hoàng, người đọc nhập vai người tiếp nhận sản sinh, người trung gian truyền thông tin văn bản đến người nghe. Chính vì vậy, người đọc có thể vừa đọc cho mình, cho người khác hoặc cho một người. Như vậy đọc và phát biểu trước lớp là hình thức giao tiếp đầu tiên cho trẻ nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn vị để đảm bảo sự thành công khi đọc cho học sinh.
- Khi đọc thành tiếng các em phải tính đến người nghe. Vì vậy cần hướng dẫn các em biết nghe “Bạn đọc không chỉ cho cô nghe mà cả lớp nghe - nghe để đọc tiếp, để nhận xét” Như thế không có nghĩa là đọc quá to gào lên mà đọc đủ lớn.
- Để rèn luyện cho những học sinh đọc quá nhỏ: Tôi đã luyện cho các em đọc to chừng nào bạn cuối lớp nghe rõ được. Đồng thời tư thế đứng đọc cần đàng hoàng, thoải mái.
 3.2. Giáo viên đọc mẫu 
 Việc đọc mẫu của giáo viên đòi hỏi phải chuẩn mực, chính xác có tác dụng làm cơ sở định hướng cho học sinh. Mặt khác không hạn chế việc đọc mẫu 1lần. Trong quá trình giảng dạy, có thể đọc diễn cảm khi luyện đọc lại, đọc diễn cảm, đọc nâng cao. Việc đọc mẫu của giáo viên trong bài Tập đọc phải tốt và diễn cảm vì đây là một hình thức mang tính nghệ thuật lồng với cảm xúc. Đọc diễn cảm làm cho mọi người (cụ thể là học sinh) rung cảm với người đọc (giáo viên hoặc học sinh), là người nối liền tác phẩm với người nghe. Khi đọc mẫu cần dùng ngữ điệu, chỗ ngừng giọng và các thủ pháp khác để làm nổi bật ý nghĩa và tình cảm của tác giả đã gửi gắm trong nội dung bài đọc. Qua việc đọc mẫu tốt của giáo viên, học sinh cảm nhận được một phần cái hay cái đẹp của bài tập đọc, các em hào hứng, phấn khởi muốn tìm hiểu, khám phá bài Tập đọc hơn. 
 3.3. Luyện đọc đúng: 
 Đọc đúng là sự tái hiện âm thanh bài đọc, cần đọc chính xác, không đọc thừa, thiếu, sót âm vần. Đọc đúng phải thể hiện ngữ âm chuẩn để hệ thống ngữ âm tiếng mẹ đẻ không bị lẫn lộn.
- Đọc đúng cần đúng âm và thanh (đúng âm vị).
- Đọc đúng còn có nghĩa đọc đúng ngữ điệu - ngắt nghỉ hơi đúng.
- Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh đọc đúng Âm vị tiếng việt:
+ Đúng phụ âm đầu: d/r/gi; ch/tr; s/x.
+ Đúng âm chính: iên/in; iêm/in; uôi/ui.
+ Đúng thanh?/~
Đọc đúng bao gồm cả tiết tấu ngắt, nghỉ (ở dấu chấm, dấu phẩy) thay đổi giọng với tình cảm bài đọc.
- Đọc đúng từng câu : Học sinh tiếp nối nhau đọc từng câu (hoặc 2 câu) trong mỗi đoạn, cả bài tập đọc (một, hai lượt ). Giáo viên chỉ định một học sinh đầu bàn (hoặc đầu dãy) đọc, sau đó lần lượt từng em đứng lên đọc nối tiếp nhau đến hết bài (có thể đọc liền 2 câu lời của một nhân vật). Khi học sinh nối tiếp nhau đọc từng câu giáo viên theo dõi, hướng dẫn các em đọc đúng các từ ngữ học sinh địa phương dễ phát âm sai và viết sai.Việc hướng dẫn phát âm đúng các từ ngữ nói trên nhằm làm cho học sinh có ý thức phân biệt các âm, vần, thanh dễ lẫn và viết đúng chính tả. Do đó, giáo viên rèn cho học sinh đọc, phát âm đúng: l/n, s/x, tr/ch...hoặc cả lớp cùng phát âm các từ ngữ, tên riêng nước ngoài. Việc luyện đọc từng câu này giúp cho các em sự tập trung cao để theo dõi bạn đọc đồng thời rèn cho tất cả học sinh trong lớp đều được luyện đọc. Phần đọc từng câu này muốn học sinh đọc tốt trước hết phải rèn cho học sinh phát âm đúng, rõ ràng, chuẩn xác các âm đầu l/n, s/x, ch/tr... Phần lớn những học sinh đọc yếu thường chưa phân biệt được cách phát âm ngoài ra còn phát âm sai theo thói quen địa phương. Để khắc phục lỗi này tôi đã điều tra, phân loại lỗi ngay từ đầu năm cho từng em, từng nhóm để có kế hoạch bồi dưỡng uốn nắn. Trong bảng theo dõi phát âm của học sinh, tôi ghi rõ mức độ tiến bộ, những khuyết điểm còn mắc phải trong từng tháng để từng bước dứt điểm. Khi hướng dẫn phát âm, tôi phân tích cho các em thấy sự khác biệt của phát âm đúng với phát âm sai mà các em mắc phải. Giáo viên có thể làm mẫu hay dùng hình vẽ để minh hoạ để các em thấy được hệ thống môi, răng, lưỡi khi phát âm. 
 - Đọc từng đoạn trước lớp. Học sinh tiếp nối nhau đọc từng đoạn trong bài (một hoặc hai lượt) trong khi theo dõi học sinh đọc, giáo viên kết hợp rèn cho học sinh biết ngừng, nghỉ hơi đúng chỗ, biết phân biệt câu thơ và dòng thơ có những bài thơ phải đọc vắt hai dòng thơ vào thành một câu thơ. Ngoài việc rèn cho học sinh biết ngắt hơi sau dấu phẩy, nghỉ hơi sau dấu chấm, việc nghỉ hơi sau dấu chấm cảm, chấm lửng, chấm phẩy cũng hết sức cần thiết. Đối với câu văn dài, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc thành cụm từ, biết giữ hơi để khỏi phải ngắt quãng giữa các âm tiết. Ngoài việc rèn đọc cho học sinh giáo viên kết hợp sửa cho học sinh những câu học sinh đọc bị vấp, bị ngắt quãng nửa chừng, đọc rời các âm tiết, giáo viên cho học sinh đọc lại và sửa cho các em. Giáo viên kết hợp giúp học sinh hiểu nghĩa các từ ngữ mới xuất hiện trong từng câu, đoạn (gồm các từ được chú giải ở cuối bài và những từ ngữ khác mà học sinh chưa hiểu) giáo viên có thể yêu cầu học sinh dựa vào phần chú giải trong sách giáo khoa để giải nghĩa từ hoặc áp dụng một vài biện pháp giúp học sinh nắm được nghĩa của những từ mới như giải nghĩa bằng từ đồng nghĩa, bằng từ trái nghĩa, bằng tranh minh hoạ, bằng cách mô tả hoặc bằng cách đặt câu với từ cần giải nghĩa. Không nên áp dụng các biện pháp giải nghĩa quá cồng kềnh, làm mất thời gian và chệch trọng tâm bài. 
 - Đọc từng đoạn trong nhóm. Đây là hình thức mới, khá được coi trọng. Việc làm này được hình thành cho học sinh kĩ năng, kĩ xảo đọc. Đọc trong nhóm là học sinh từng cặp hay từng nhóm nhỏ tập đọc (em này đọc, em khác nghe nhận xét, giải thích, góp ý để cùng nhau tìm ra cách đọc). Trong khi học sinh đọc trong nhóm, giáo viên theo dõi, hướng dẫn các nhóm đọc đúng. Giáo viên tổ chức cho học sinh đọc thi đua giữa các nhóm. Hình thức đọc trong nhóm tạo điều kiện cho học sinh được rèn luyện đọc nhiều nhằm kích thích nhu cầu tìm hiểu bài văn, bài thơ như: Bài văn bài thơ nói về ai ? Có những nhân vật nào trong bài ? Trong bài có ai đang trò chuyện ?... 
 - Đọc đồng thanh: Học sinh đọc đồng thanh một đoạn hoặc cả bài. Học sinh đọc đồng thanh với cường độ vừa phải, không đọc quá to. Việc đọc đồng thanh không áp dụng đối với một số văn bản có nội dung buồn, cần đọc với giọng nội tâm sâu lắng và một số văn bản thông thường. Việc đọc đồng thanh giúp học sinh đọc lưu loát, rõ ràng trôi chảy, đặc biệt đối với học sinh đọc yếu thì đọc đồng thanh giúp các em đọc được văn bản và tạo sự hào hứng trong giờ học.
 - Luyện đọc thành tiếng: Giáo viên có thể chọn đọc mẫu một đoạn giáo viên hướng dẫn học sinh đọc thể hiện đúng nội dung bài. Với một số câu văn, câu thơ đặc biệt, giáo viên đánh dấu nhấn giọng hoặc ngắt giọng để giúp học sinh nắm chắc cách đọc. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc ngắt giọng, nhấn giọng một cách tự nhiên, không đọc nhát gừng vì hiểu một cách máy móc hoặc đọc quá to những tiếng cần nhấn giọng. Luyện đọc thành tiếng bao gồm các hình thức: §ọc cá nhân, ®ọc nhóm, đọc đồng thanh( nhóm, tổ, lớp ); đọc phân vai.Trong việc luyện đọc cho học sinh, giáo viên cần biết nghe học sinh đọc để có cách rèn luyện thích hợp với từng em và cần khuyến khích học sinh trong lớp trao đổi, nhận xét về chỗ được chỗ chưa được của bạn, nhằm giúp học sinh rút kinh nghiệm để đọc tốt hơn. 
 - Luyện đọc thầm: Hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc thầm, những kĩ năng này con người sẽ sử dụng suốt đời. Đọc thầm có tác dụng làm cho học sinh dễ cảm nhận nội dung bài đọc. Việc đọc thầm của cả lớp là khâu chuẩn bị cho các em đọc thành tiếng tốt và phần nào nắm được nội dung bài. Giáo viên có thể giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh nhằm định hướng việc đọc - hiểu (đọc câu, đoạn hay khổ thơ nào? Đọc để biết, hiểu nhớ điều gì?...). Có đoạn văn, thơ cần cho học sinh đọc thầm 2; 3 lượt với tốc độ nhanh dần và từng bước thực hiện các yêu cầu từ dễ đến khó, nhằm rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu. Cần khắc phục tình trạng học sinh đọc thầm một cách hình thức, giáo viên không nắm được kết quả đọc - hiểu của học sinh để xử lí trong quá trình dạy học. 
 - Luyện học thuộc lòng: Ở bài dạy có yêu cầu học thuộc lòng, giáo viên c

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_kinh_nghiem_ren_ky_nang_doc_cho_hoc_si.doc