Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh cách làm bài tập và bài thực hành vẽ biểu đồ nhanh trong chương trình Địa lý Lớp 12 trường Trung học Phổ thông số 2 Văn Bàn
Cơ sở lí luận
Để góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo học sinh thành những con người năng động, độc lập và sáng tạo, tiếp thu được những tri thức khoa học, kỹ thuật hiện đại, biết vận dụng tìm ra các giải pháp hợp lí cho những vấn đề trong cuộc sống của bản thân và xã hội. Với nội dung học tập của môn Địa lí 12 chứa đựng cả một kho tàng kiến thức sinh động và phong phú, hấp dẫn, dễ kích thích tính tò mò ham hiểu biết của học sinh, tạo điều kiện cho việc hình thành động cơ, nhu cầu nhận thức cũng như hứng thú học tập của học sinh. Địa lí là môn khoa học của các môn khoa học, tri thức địa lí chủ yếu được hình thành bằng các phương pháp quan sát, mô tả thực nghiệm, thực hành, tưởng tượng, liên hệ địa phương.Muốn HS chủ động, tích cực tiếp thu, lĩnh hội các bài học trên lớp, giáo viên phải là người hướng dẫn các em chủ động trong giờ học. Từ kiến thức lí thuyết các em đã nắm được để vận dụng sáng tạo theo từng cấp độ để làm tốt các bài tập và các bài thực hành. Qua thực tế hiện nay, hầu hết HS chưa nắm chắc các kĩ năng cơ bản như: đọc, xử lí số liệu, vẽ biểu đồ và phân tích giải thích. Để HS hình thành những kĩ năng và vận dụng thuần thục những kĩ năng trên, mỗi giáo viên đứng lớp cần dành thời gian và quan tâm hơn nữa đến nội dung của các bài tập và bài thực hành. Vì những cơ sở trên đây tôi muốn trao đổi với các bạn, các thầy cô tìm ra những phương pháp tối ưu nhất để giúp các em có đầy đủ các kĩ năng địa lí, từ đó có hứng thú hơn với môn học và đạt kết quả cao nhất trong các kì thi.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI TRƯỜNG THPT SỐ 2 VĂN BÀN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM HỌC 2013 – 2014 TÊN SÁNG KIẾN: HƯỚNG DẪN HỌC SINH CÁCH LÀM BÀI TẬP VÀ BÀI THỰC HÀNH VẼ BIỂU ĐỒ NHANH TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA LÝ LỚP 12 TRƯỜNG THPT SỐ 2 VĂN BÀN Giáo viên: Bùi Hải Định Tổ : Sử - Địa - GDCD Lào Cai tháng 5 năm 2014 Năm học: 2012- 2013 MỤC LỤC Mục lục.....................................................................................................................1 Các từ viết tắt............................................................................................................2 Tài liệu tham khảo....................................................................................................3 A – PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................4 I. Lí do chọn đề tài....................................................................................................4 II. Mục đich nghiên cứu............................................................................................4 III. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu...............................................................4 IV. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu.........................................................................5 V. Điểm mới của đề tài............................................................................................5 B. NỘI DUNG.........................................................................................................6 I. Cơ sở lí luận chung................................................................................................6 II. Thực trạng dạy và học các bài thực hành ở trường THPT số 2 Văn Bàn.............7 III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề..................................................8 1. Khái quát chung về kỹ năng vẽ biểu đồ địa lí trong chương trình THPT..............8 2. Các biểu đồ thường gặp trong chương trình dạy và học địa lý .............................8 3. Cách chọn dạng biểu đồ nhanh – đúng...................................................................9 4. Cách thực hiện nhanh các loại biểu đồ..................................................................11 5. Phần chú giải cho biểu đồ......................................................................................14 6. Các biểu đồ minh họa............................................................................................15 IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm...................................................................18 C – KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ .............................................................................19 I. Kết luận..................................................................................................................19 II. Kiến nghị...............................................................................................................19 CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. GV ( giáo viên) 2. HS ( học sinh ) 3. SGK ( sách giáo khoa) 4. THPT ( trung học phổ thông ) 5. BTTHPT ( bổ túc trung học phổ thông ) 6. CĐ - ĐH ( cao đẳng - đại học ) 7. SKKN ( sáng kiến kinh nghiệm ) TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kĩ thuật biểu đồ - bản đồ ( trang 23 - luận án tiến sĩ, tác giả: Đỗ Vũ Sơn khoa địa lí trường ĐHSP Thái Nguyên, 2008) 2. Kĩ năng thực hiện các bài tập địa lí THPT ( trang 14, tác giả: Nguyễn Minh Tuệ, ĐHSP I - Hà Nội, 2005) 3. Các đề thi tuyển sinh vào Đại học và Cao đẳng ( trang 117, 225, 246, 268, 271, 275, 278, Nxb Hà Nội, 2008) A – PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài : Trong chương trình Địa lí THPT và các bài thực hành có vai trò rất quan trọng, vừa mở rộng kiến thức vừa giúp các em rèn luyện các kỹ năng địa lí. Thực hành trong học tập là một khâu hết sức quan trọng đối với quá trình dạy - học trong nhà trường. Nó có thể giúp HS nắm được kĩ năng cả về mặt lí thuyết cũng như hành động. Có thể nói đây là hình thức dạy kĩ năng chủ yếu và quan trọng nhất. Rõ ràng muốn vận dụng được tri thức vào hành động thì cần phải có kĩ năng, mà kĩ năng xuất phát từ kiến thức, vì vậy muốn hình thành cho HS được kĩ năng, nhất thiết phải làm cho HS vừa có kiến thức lí thuyết vừa có kiến thức hành động. Thực hành là một loại bài học dạy về kĩ năng, trong đó có hai nhiệm vụ: Cung cấp kiến thức lí thuyết làm cơ sở cho kĩ năng và cung cấp kiến thức hành động của kĩ năng. Trước đây, trong chương trình và SGK Địa lí thường mới chỉ chú trọng đến các bài dạy kiến thức, mà chưa chú ý đến các bài thực hành, nên tỉ lệ các bài thực hành thường quá thấp. Nội dung các bài thực hành cũng tuỳ tiện, nhiều khi đơn điệu, thiếu hệ thống và chưa được sắp xếp theo một trình tự từ dễ đến khó, chưa bao quát được hết các loại kĩ năng cần thiết. Một quan niệm khá phổ biến, xuất phát từ phương pháp dạy học truyền thống, cho rằng thực hành chỉ là một bài học vận dụng tri thức, có mục đích củng cố kiến thức và kĩ năng đã học. Với quan niệm đó bài thực hành không đem lại kiến thức gì mới cho HS, cũng không làm cho HS thấy hứng thú. Khi dạy bài thực hành GV thường coi nhẹ và xem nó như một bài tập tự làm bình thường của HS, GV không cần chuẩn bị cũng không cần soạn giáo án, nhiều GV dạy bài thực hành cũng giống như dạy bài lí thuyết. Quan niệm về bài thực hành như vậy hoàn toàn không đúng. Trong quá trình giảng dạy môn học địa lí lớp 12, từ thực tiễn giảng dạy của đồng nghiệp, nhận thức của học sinh và kết quả các kì thi tốt nghiệp THPT trong những năm qua đối với bộ môn ở trong trường THPT Số 2 Văn Bàn, tôi rất trăn trở, suy nghĩ về nội dung các bài tập và bài thực hành trong chương trình địa lí 12 vì đã không thực sự được quan tâm và nhìn nhận một cách đúng mức, nhiều giáo viên còn chưa coi trọng và chưa tận tình hướng dẫn học sinh làm các bài tập và bài thực hành trong sách giáo khoa, đó chính là lí do cấp thiết khiến tôi mạnh dạn chọn đề tài “Hướng dẫn học sinh cách làm bài tập và bài thực hành vẽ biểu đồ nhanh trong chương trình địa lý lớp 12 trường THPT số 2 Văn Bàn” II. Mục đích nghiên cứu - Việc nghiên cứu và thử nghiệm biện pháp hướng dẫn thực hành kỹ năng địa lí vẽ các loại và dạng biểu đồ cơ bản trong các bài tập và bài thực hành địa lí lớp 12 có ý nghĩa lí luận và thực tiễn cấp bách. - Với mục đích là trang bị và hình thành cho cho HS những kĩ năng cần thiết nhất về biểu đồ, cách vẽ biểu đồ nhanh, đúng và chính xác. III. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu - Để đảm bảo đạt được kết quả cao trong việc học tập bộ môn, các thầy giáo, cô giáo cần phải tự bố trí thời gian nhất định và phù hợp để hướng dẫn học sinh thực hành những kỹ năng cơ bản về vẽ biểu đồ thường gặp trong các bài thi chất lượng học kỳ và thi tốt nghiệp bộ môn. Đồng thời phát huy được khả năng vẽ biểu đồ nói chung và vẽ biểu đồ địa lí nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa và kết quả các bài thi học kì và thi tốt nghiệp từ năm học 2011 – 2012 trở lại đây. + Đúc rút kinh nghiệm từ bản thân trong quá trình giảng dạy môn địa lý ở trường THPT. + Học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường. + Tham khảo một số tài liệu nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học. IV. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu - Đề tài có thể áp dụng hoặc làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy địa lí nói chung và hướng dẫn thực hành các kỹ năng xử lí số liệu, vẽ biểu đồ, phân tích, nhận xét và giải thích trong chương trình địa lí lớp 12 nói riêng ở trường THPT Số 2 Văn Bàn - Làm tài liệu tham khảo học tập, ôn luyện thi tốt nghiệp THPT và thi ĐH - CĐ cho học sinh 12. V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu - Trong các lớp tôi tiến hành thực nghiệm HS đã tích lũy được những kĩ năng cơ bản về : + Xử lí số liệu + Xác định nhanh biểu đồ cần vẽ + Vẽ nhanh và đúng biểu đồ theo yêu cầu B – NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận chung của vấn đề : 1. Cơ sở lí luận Để góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo học sinh thành những con người năng động, độc lập và sáng tạo, tiếp thu được những tri thức khoa học, kỹ thuật hiện đại, biết vận dụng tìm ra các giải pháp hợp lí cho những vấn đề trong cuộc sống của bản thân và xã hội. Với nội dung học tập của môn Địa lí 12 chứa đựng cả một kho tàng kiến thức sinh động và phong phú, hấp dẫn, dễ kích thích tính tò mò ham hiểu biết của học sinh, tạo điều kiện cho việc hình thành động cơ, nhu cầu nhận thức cũng như hứng thú học tập của học sinh. Địa lí là môn khoa học của các môn khoa học, tri thức địa lí chủ yếu được hình thành bằng các phương pháp quan sát, mô tả thực nghiệm, thực hành, tưởng tượng, liên hệ địa phương...Muốn HS chủ động, tích cực tiếp thu, lĩnh hội các bài học trên lớp, giáo viên phải là người hướng dẫn các em chủ động trong giờ học. Từ kiến thức lí thuyết các em đã nắm được để vận dụng sáng tạo theo từng cấp độ để làm tốt các bài tập và các bài thực hành. Qua thực tế hiện nay, hầu hết HS chưa nắm chắc các kĩ năng cơ bản như: đọc, xử lí số liệu, vẽ biểu đồ và phân tích giải thích. Để HS hình thành những kĩ năng và vận dụng thuần thục những kĩ năng trên, mỗi giáo viên đứng lớp cần dành thời gian và quan tâm hơn nữa đến nội dung của các bài tập và bài thực hành. Vì những cơ sở trên đây tôi muốn trao đổi với các bạn, các thầy cô tìm ra những phương pháp tối ưu nhất để giúp các em có đầy đủ các kĩ năng địa lí, từ đó có hứng thú hơn với môn học và đạt kết quả cao nhất trong các kì thi. 2. Khái quát về chương trình địa lí lớp 12 : Toàn bộ phân phối chương trình khung của chương trình địa lí lớp 12 ban cơ bản là 52 tiết, trong đó có 32 tiết kiến thức lí thuyết, 2 tiết địa lí địa phương, 10 tiết thực hành, 8 tiết kiểm tra 1 tiết và ôn tập kiểm tra học kì. - Bài mở đầu : 1tiết Phần I: Địa lí tự nhiên 14 tiết + 4 tiết ôn tập và kiểm tra, - Vị trí địa lí 2 tiết - Đặc điểm chung của tự nhiên 8 tiết - Vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên 2 tiết Phần II: Địa lí dân cư 4 tiết + 1 tiết kiểm tra Phần III: Địa lí kinh tế 1 tiết Phần IV: Địa lí các ngành kinh tế 11 tiết Phần V : Địa lí các vùng kinh tế 12 tiết + 2 tiết ôn tập kiểm tra Phần VI: Địa lí địa phương 2 tiết 3. Thời lượng, nội dung các bài tập và bài thực hành. - Nội dung chương trình chủ yếu là các bài lí thuyết, ở cuối mỗi bài thường có từ 3 đến 4 câu hỏi bài tập. Trong đó có khoảng > 50% câu hỏi tái hiện và mở rộng kiến thức, 25% câu hỏi suy luận, < 25% là các dạng bài tập về kỹ năng (trong đó vẽ biểu đồ khoảng 15%) II. Thực trạng dạy và học các bài thực hành địa lí lớp 12 ở trường THPT số 2 Văn Bàn : 1. Thuận lợi - Đa số các tiết thực hành HS đều có hứng thú tham gia học tập tốt, bởi những giờ học này không nặng về kiến thức lý thuyết, mà chủ yếu rèn luyện kĩ năng thực hành. HS có cơ hội thể hiện khả năng của mình như thuyết trình, nhận xét, phân tích , đánh giá... các em không chỉ ghi nhớ , củng cố kiến thức lý thuyết đã học mà còn biết mô hình hóa các kiến thức đó qua các bài tập vẽ biểu đồ. - Một số em HS đã có kĩ năng cơ bản sau khi học song chương trình lớp 10 và lớp 11. - Bản thân GV khi thiết kế những bài tập thực hành cũng nhẹ nhàng hơn, bởi không nặng nề về nội dung lý thuyết mà chủ yếu là đi sâu về các bước tiến hành, dẫn dắt học sinh các thao tác để các em hoàn thanh bài tập. 2. Khó khăn - Phần lớn HS và một bộ phận phụ huynh coi môn Địa lý là môn phụ nên chưa thực sự coi trong, chưa thực sự chú tâm học. - HS còn xem nhẹ việc rèn luyện kĩ năng thực hành địa lý so với việc rèn luyện kĩ năng các môn học khác như văn, toán, lý hóa, ngoại ngữ... nên rất yếu kỹ năng thực hành địa lý. - Nhiều HS chưa chuẩn bị tốt các đồ dùng học tập cho bài thực hành như thước kẻ, bút chì, compa, mấy tính.. còn coi nhẹ yêu cầu các bài thực hành nên cũng ảnh hưởng nhiều tới kết quả : Vẽ biểu đồ chưa đẹp, chưa chính xác... - Khi GV hướng dẫn các bước tiến hành một số HS chưa chú ý nên các em lúng túng các thao tác: ví dụ cách xử lý số liệu, cách chọn tỷ lệ... - Trong quá trình thực hành vẽ biểu đồ còn nhiều HS chưa biết cách nhận dạng biểu đồ cần vẽ nên còn vẽ sai nhiều. - HS thường quên ghi tên biểu đồ và chưa biết cách chú giải cho đúng với từng dạng biểu đồ. - Về phía GV: Xuất phát từ phương pháp dạy học truyền thống cho rằng thực hành chỉ là một bài học vận dụng tri thức, có mục đích củng cố kiến thức và kĩ năng đã học không đem lại kiến thức gì mới cho học sinh. Do đó khi dạy bài thực hành giáo viên thường coi nhẹ và xem nó như một bài tập tự làm bình thường của học sinh, không cần chuẩn bị cũng không cần soạn giáo án, hoặc dạy bài thực hành cũng giống như dạy bài lí thuyết. - Kết quả khỏa sát đầu năm năm học 2013- 2014 của khối lớp 12 rất thấp. Tổng bài Tổng bài dưới 5 Tổng bài từ 5 trở lên 230 Điểm từ 0- <3 Điểm từ 3- < 5 Điểm từ 5- < 7 Điểm từ 7- < 9 Điểm 9- 10 36 93 68 30 3 + Đặc biệt có 94 HS không làm đúng bài thực hành vẽ biểu đồ với các lỗi cơ bản như: Xác định sai dạng biểu đồ cần vẽ, chia tỉ lệ không đúng, không ghi tên biểu đồ, không chú giải, chú giải không khớp với biểu đồ. III. Các biện pháp đã tiến hành 1. Khái quát chung về kỹ năng vẽ biểu đồ địa lí trong chương trình cấp THPT - Biểu đồ là một hình vẽ cho phép mô tả một cách dễ dàng động thái phát triển của một đại lượng (hoặc so sánh động thái phát triển của 2, 3, 4 đại lượng); so sánh tương quan về độ lớn của 1 đại lượng (hoặc 2, 3, 4 đại lượng); thể hiện quy mô và cơ cấu thành phần của 1 tổng thể . - Các loại biểu đồ rất phong phú và đa dạng. Mỗi loại biểu đồ lại có thể dùng để biểu hiện nhiều mục đích khác nhau. Vì vậy, việc đầu tiên là phải nắm hiểu đặc điểm của từng loại và dạng biểu đồ, sau đó xem xét kĩ bảng số liệu và phần yêu cầu cụ thể của đề bài (có thể nói: đây là 3 căn cứ cơ bản và khoa học để chọn nhanh, đúng loại và dạng biểu đồ thích hợp nhất). - Tuy vậy, bất kỳ một biểu đồ nào sau khi vẽ xong cũng cần phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau : + Tính khoa học (chính xác) + Tính trực quan (đúng, đầy đủ) + Tính thẩm mỹ (rõ ràng, đẹp). 2. Các loại biểu đồ thường gặp trong chương trình dạy và học địa lí : - Biểu đồ đường (đồ thị): bao gồm các dạng: 1 đường, 2 hoặc 3 đường trong cùng 1 biểu đồ . - Biểu đồ cột : bao gồm các dạng : cột đơn (1đại lượng); cột nhóm (nhiều đại lượng ); cột chồng (cơ cấu thành phần của một tổng thể). - Biểu đồ kết hợp (cột và đường) : thường gồm 1 cột + 1 đường để thể hiện cả động thái phát triển và tương quan độ lớn giữa các đại lượng (biểu đồ cột thể hiện tương quan độ lớn, biểu đồ đường thể hiện động thái phát triển) qua thời gian. Chỉ vẽ được ở giá trị tuyệt đối . - Biểu đồ hình - hình học (thường dùng hình tròn): Dùng để thể hiện quy mô và cơ cấu thành phần của một tổng thể. Chỉ vẽ được ở giá trị tương đối (%) 2 hình tròn cho 2 năm, 3 hình tròn cho 3 năm, (chú ý đặt 2, (3) hình tròn ngang nhau và tính toán - xác định bán kính (r) của 2, (3) năm đó . - Biểu đồ miền (thực chất là biểu đồ đường (đồ thị) : thường được sử dụng để thể hiện cả cơ cấu và động thái phát triển của một đối tượng (1tổng thể) qua thời gian , chỉ vẽ được ở giá trị tương đối (%). 3. Cách chọn loại, dạng biểu đồ nhanh - đúng : Các câu hỏi về kĩ năng vẽ biểu đồ thường có ba phần: lời dẫn (đặt vấn đề), bảng số liệu thống kê, lời kết (yêu cầu cần làm). Dựa vào những phần trên, HS xác định vẽ biểu đồ nào thích hợp nhất. - Phần lời dẫn (đặt vấn đề): Câu hỏi thường có những dạng sau: + Dạng lời dẫn có chỉ định: Từ bảng số liệu, hãy vẽ biểu đồ hình tròn thể hiện cơ cấu sử dụng năm Từ thông tin này, HS có thể xác định được dạng biểu đồ cần thể hiện + Dạng lời dẫn kín: Cho bảng số liệu sau hãy vẽ biểu đồ thích hợp nhất thể hiện và cho nhận xét. Ở dạng này, muốn xác định được biểu đồ cần vẽ, HS cần nghiên cứu kĩ các thành phần của câu hỏi, phần cuối trong câu kết thường hàm chứa những gợi ý nên vẽ biểu đồ gì + Dạng lời dẫn mở: Cho bảng số liệu sau Hãy vẽ biểu đồ sản lượng công nghiệp nước ta phân theo các vùng kinh tế năm Như vậy, câu hỏi đã ngầm gợi ý là vẽ một loại biểu đồ nhất định, với dạng “lời dẫn mở” này, HS cần chú ý vào một số từ gợi mở trong câu hỏi như biểu đồ đường biểu diễn: Thường có những từ gợi mở đi kèm như “tăng trưởng”, “biến động”, “phát triển”, “qua các năm từ đến”. VD: Tốc độ tăng dân số của nước ta qua các năm; Tình hình biến động về sản lượng lương thực; tốc độ phát triển của nền kinh tế; Biểu đồ hình cột: Thường có các từ gợi mở như “khối lượng”, “sản lượng”, “diện tích”, “từ năm đến năm” hay “qua các thời kì”. VD: Khối lượng hàng hóa vận chuyển, Sản lượng lương thực của; Diện tích trồng cây công nghiệp; Biểu đồ cơ cấu: Thường có các từ gợi mở như “cơ cấu”, “phân theo”, “trong đó”, “bao gồm”, “chia ra”, “chia theo” Nếu bảng số liệu cho có từ ba mốc năm trở xuống thì vẽ biểu đồ tròn, trên bốn mốc năm thì vẽ biểu đồ miền. - Phần căn cứ vào bảng số liệu thống kê: Khi nghiên cứu đặc điểm của bảng số liệu để chọn vẽ biểu đồ nào thích hợp, HS cần lưu ý những điểm sau: Nếu bảng số liệu đưa ra dãy số liệu: tỷ lệ (%) hay giá trị tuyệt đối phát triển theo một chuỗi thời gian (có ít nhất 4 năm trở lên), HS nên chọn biểu đồ đường biểu diễn; nếu có một dãy số liệu tuyệt đối về quy mô, số lượng của một (hay nhiều) đối tượng biến động theo một số thời điểm (hay theo các thời kì), HS nên chọn biểu đồ hình cột đơn; trong trường hợp có 2 đối tượng với 2 đại lượng khác nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ như diện tích (ha), năng suất (tạ/ ha) của một vùng miền nào đó theo chuỗi thời gian, HS nên chọn biểu đồ dạng kết hợp; nếu bảng số liệu có từ 3 đối tượng trở lên với các đại lượng khác nhau (tấn, mét, ha) diễn biến theo thời gian, HS nên chọn biểu đồ chỉ số; trong trường hợp bảng số liệu trình bày theo dạng phân ra từng phần: tổng số, chia ra: nông - lâm - ngư, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ Với bảng số liệu này, HS chọn dạng biểu đồ cơ cấu (hình tròn, cột chồng, miền). Tuy nhiên, khi lựa chọn cần chú ý các điểm sau đây: Biểu đồ hình tròn (điều kiện là các thành phần khi tính toán tổng toàn bộ phải bằng 100%); biểu đồcột chồng (khi một tổng thể có quá nhiều thành phần, nếu vẽ biểu đồhình tròn thì các góc cạnh hình quạt sẽ quá hẹp. Trường hợp này nên chuyển sang vẽ biểu đồ cột chồng theo đại lượng tương đối (%) cho dễ thể hiện); biểu đồ miền (chỉ sử dụng khi trên bảng số liệu các đối tượng trải qua từ 4 thời điểm trở lên, không nên vẽ hình tròn). - Căn cứ vào lời kết của câu hỏi: Trong nhiều trường hợp, nội dung lời kết của câu hỏi chính là gợi ý cho vẽ một loại biểu đồ nào đó. VD: Cho bảng số liệu sau Anh (chị) hãy vẽ biểu đồ thích hợp Nhận xét về sự chuyển dịch cơ cấu và giải thích nguyên nhân của sự chuyển dịch đó. Như vậy, lời kết của câu hỏi đã ngầm cho HS biết nên chọn loại biểu đồ thuộc nhóm biểu đồ cơ cấu là thích hợp. 4. Cách thực hiện nhanh việc vẽ các loại biểu đồ : 4.1. Biểu đồ đường _đồ thị Đồ thị hay còn gọi là đường biểu diễn hoặc biểu đồ dạng đường, là dạng biểu đồ dùng để thể hiện tiến trình phát triển, sự biến thiên của các đối tượng qua thời gian *Các bước tiến hành khi vẽ biểu đồ đường _đồ thị - Bước 1: Kẻ hệ trục tọa độ vuông góc (trục đứng thể hiện độ lớn của các đối tượng như số người, sản lượng, tỉ lệ %.. còn trục nằm ngang thể hiện thời gian) - Bước 2: Xác định tỉ lệ thích hợp ở cả 2 trục (chú ý tương quan giữa độ cao của trục đứng và độ dài của trục nằm ngang sao cho biểu đồ đảm bảo được tính trực quan và mĩ thuật) - Bước 3: Căn cứ vào các số liệu của đề bài và tỉ lệ đã xác định đẻ tính toán và đánh dấu tọa độ của các điểm mốc trên 2 trục. Khi đánh dấu các năm trên trục ngang cần chú ý đến tỉ lệ (cần đúng tỉ lệ cho trước). Thời điểm năm đầu tiên nằm trên trục đứng - Bước 4: Nối các điểm đã xác định lại với nhau, ghi số liệu tương ứng vào các điểm - Bước 5 : Ghi tên cho biểu đồ và thiết kế chú giải: + Ghi tên dựa vào câu hỏi trong đề thi. + Thiết kế chú giải: * Lưu ý : + Nếu vẽ 2 hoặc nhiều đường biểu diễn có chung 1 đơn vị thì mỗi đường cần dùng 1 kí hiệu riêng biệt và có chú giải kèm theo +Nếu vẽ 2 đường biểu diễn có đơn vị khác nhau thì vẽ 2 trục đứng ở 2 bên biểu đồ, mỗi trục thể hiện 1 đơn vị +Nếu phải vẽ nhiều đường biểu diễn mà số liệu đã cho lại thuộc nhiều đơn vị khác nhau thì phải tính toán để chuyển số liệu
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_cach_lam_bai_tap_va.doc