Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học Địa lí 12

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học Địa lí 12

Lí do chọn sang kiến

Bất kì ở một môn học nào cũng luôn tồn tại hai mặt của nó đó là mặt tích cực và hạn chế. Chúng ta luôn tìm diệt mặt yếu, dung dưỡng mặt mạnh tích cực. Nhưng việc làm này phải chăng là đơn giản: Đấu tranh với nó không chỉ là một sớm một chiều mà là cả một quá trình nghiên cứu và học hỏi.

Trước tình hình như vậy đặt ra cho mỗi người giáo viên chúng ta làm sao để nâng cao hiệu quả chất lượng môn học và ngày càng thu hút học sinh học tập tốt hơn, muốn vậy chúng ta phải tìm ra nguyên nhân của nó. Nhà trường là cái nôi nuôi mầm và phát triển uốn nắn trở thành những con người đủ tài- đức để cống hiến tích cực cho xã hội . Cùng với xu thế chung của cả thế giới trong thập kỉ cuối của thế kỉ XX cả nước ta đã khởi động trào lưu đổi mới phương pháp dạy học từ các trường Đại học đặc biệt là các trường phổ thông như A.KO Men Xi đó viết “GD có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách.hãy tìm ra phương pháp cho giáo viên dạy ít hơn, học sinh hiểu nhiều hơn”.

Qua nhiều năm giảng dạy môn địa lí lớp 12 ở Trường THPT Số 2 Bát Xát, đặc biệt là khi thay SGK và đổi mới phương pháp dạy học, tôi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích về lý luận cũng như thực tiễn. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng bộ môn , bởi vì đối tượng là học sinh lớp 12 về mặt thể chất cũng như tinh thần , sự nhận thức, năng lực tư duy của các em đã phát triển ở mức độ cao để làm được việc đó phải trang bị cho họ một tiềm lực kiến thức kỹ năng cơ bản tối thiểu. Xuất phát từ tình hình thực tế như trên tôi xin đưa ra đề tài sáng kiến nghiệm“ Một số biện pháp phát huy tính tích cực hoc tập của học sinh trong dạy học địa lí lớp 12” để đồng nghiệp và các em học sinh tham khảo đóng góp ý kiến cho tôi để tôi hoàn thiện hơn.

 

doc 16 trang cuonglanz2a 12111
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học Địa lí 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
 STT
 Nội dung
Trang
Ghi chú
 1
Phần I: Phần mở đầu
2
 2
Lý do chọn đề tài
2
 3
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
2
 4
Mục đích nghiên cứu
3
 5
Phương pháp nghiên cứu
3
 6
Phần II: Nội dung nghiên cứu
5
 7
Cơ sở lí luận
5
 8
Cơ sở thực tiễn
6
 9
Tình trạng của vấn đề đặt ra và sự cần 
thiết để tiến hành thực hiện đề tài
6
 10
Tính thuyết phục của đề tài
7
 11
Một số biện pháp phát huy..
7
 12
Minh họa bài giảng 
10
 13
Kết quả thực hiện
14
 14
 Phần III: Kết luận 
15
 15
Danh mục tài liệu tham khảo 
16
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 12
PHẦN I: MỞ ĐẦU
 I. Lí do chọn sang kiến
Bất kì ở một môn học nào cũng luôn tồn tại hai mặt của nó đó là mặt tích cực và hạn chế. Chúng ta luôn tìm diệt mặt yếu, dung dưỡng mặt mạnh tích cực. Nhưng việc làm này phải chăng là đơn giản: Đấu tranh với nó không chỉ là một sớm một chiều mà là cả một quá trình nghiên cứu và học hỏi.
Trước tình hình như vậy đặt ra cho mỗi người giáo viên chúng ta làm sao để nâng cao hiệu quả chất lượng môn học và ngày càng thu hút học sinh học tập tốt hơn, muốn vậy chúng ta phải tìm ra nguyên nhân của nó. Nhà trường là cái nôi nuôi mầm và phát triển uốn nắn trở thành những con người đủ tài- đức để cống hiến tích cực cho xã hội . Cùng với xu thế chung của cả thế giới trong thập kỉ cuối của thế kỉ XX cả nước ta đã khởi động trào lưu đổi mới phương pháp dạy học từ các trường Đại học đặc biệt là các trường phổ thông như A.KO Men Xi đó viết “GD có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách...hãy tìm ra phương pháp cho giáo viên dạy ít hơn, học sinh hiểu nhiều hơn”.
Qua nhiều năm giảng dạy môn địa lí lớp 12 ở Trường THPT Số 2 Bát Xát, đặc biệt là khi thay SGK và đổi mới phương pháp dạy học, tôi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích về lý luận cũng như thực tiễn. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng bộ môn , bởi vì đối tượng là học sinh lớp 12 về mặt thể chất cũng như tinh thần , sự nhận thức, năng lực tư duy của các em đã phát triển ở mức độ cao để làm được việc đó phải trang bị cho họ một tiềm lực kiến thức kỹ năng cơ bản tối thiểu. Xuất phát từ tình hình thực tế như trên tôi xin đưa ra đề tài sáng kiến nghiệm“ Một số biện pháp phát huy tính tích cực hoc tập của học sinh trong dạy học địa lí lớp 12” để đồng nghiệp và các em học sinh tham khảo đóng góp ý kiến cho tôi để tôi hoàn thiện hơn.
 II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Trong năm học này, tôi đã làm công tác giảng dạy và tiến hành nghiên cứu học sinh khối lớp 12 trường THPT số 2 Bát Xát, bên cạnh đó tôi còn học hỏi kinh nghiệm của một số anh chị em đồng nghiệp.
Cụ thể tình hình như sau:
 Tổng số học sinh khối lớp 12 là 143 em đa số học sinh là con em dân tộc ở vùng cao xuống, trình độ nhận thức chậm còn mải chơi, một số có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đi học xa nhà, một số bố mẹ ít quan tâm đến viêc học hành của con cái, đồ dùng sách vở còn thiếu thốn đã phần nào ảnh hưởng đến việc học tập của con em mình.
 III. Mục đích nghiên cứu
 	Với nhu cầu của một xã hội ngành GD phải đổi mới phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Nhìn lại việc học của con em ở địa phương, tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rốn luyện rất ớt, điều kiện học tập cũn nhiều thiếu thốn. 
 	Các em chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên không ham học. Là một người đứng trong ngành nghề dạy học tôi luôn băn khoăn là làm thế nào để phát huy tính tích cực , chủ động, tự giác của học sinh trong học tập. Đây là một vấn đề nóng bỏng cần phải thực hiện nhanh và đúng cách để những thế hệ do chúng ta đào tạo là những người làm chủ tương lai, đất nước, biết xây dựng quê hương và đưa trình độ hiểu biết của toàn dân đi lên sánh được với các nước phát triển trên thế giới. Đặc biệt là giáo dục ở các vùng miền nông thôn và miền núi. Qua đổi mới các phương pháp dạy học sẽ giúp các em học sinh nông thôn, dân tộc mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết cách tự đánh giá việc học của mình cũng như biết đánh giá kết quả học tập của các bạn khác. Từ đó các em có tính chủ động hơn trong học tập và biết phấn đấu thi đua nhau để việc học có kết quả cao hơn. Luật giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định: “ Mục tiêu của giáo dục là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ thể chất”nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách con người và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh lớp 12 tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
 	 Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của THCS hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp . Cung cấp những kiến thức cơ bản củng cố phát triển nội dung, giúp các em hình thành những nhân cách, tình cảm yêu nước, yêu quê hương.
 IV. Phương pháp nghiên cứu
 1 Phương pháp quan sát
 	Đây là phương pháp giúp ta quan sát thái độ, hành vi của học sinh, phát hiện ra những hành vi, cử chỉ của học sinh trong học tập, sinh hoạt...Để phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh.
 2 Phương pháp phân tích, tổng hợp , thực hành, thực nghiệm
 	Nhờ phương pháp này mà người nghiên cứu có thể tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm của giáo viên chỉ đạo về việc phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh qua các mặt hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt tập thể và hoạt động ngoại khoá, từ đó rút ra bài học và nêu được những biện pháp khắc phục và đề xuất.
 3 Phương pháp đàm thoại
 	Với học sinh, phương pháp đàm thoại trò chuyện là một hình thức tốt nhất để giáo viên có thể gần gũi các em, đồng thời thăm hỏi trò chuyện với một số phụ huynh học sinh.Qua đó chúng ta có thể biết tâm sự, tình cảm, nguyện vọng của các em về việc học ở lớp cũng như việc học ở nhà của các em như thế nào? Để từ đó, giáo viên có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm làm cho người dạy đạt kết quả tốt nhất.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
 I. Cơ sở lí luận
 	 1. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đó phân tích và nhận định sâu sắc thực trạng phương pháp giảng dạy ở nước ta thời gian qua còn chậm đổi mới, chưa phát huy được khả năng sáng tạo của người học và yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành lối tư duy sáng tạo ở người học.
2. Luật giáo dục của nước CHXHCNVN trong điều 4 (yêu cầu về nội dung phương pháp giáo dục) cũng chỉ rừ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo ở người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục - trang 9 - 1998)
So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản. Xin trích dẫn một vài ví dụ của của Giáo sư Phan Ngọc Liên để thấy rõ sự khác biệt đó.
Kiểu dạy học truyền thống
phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực
1. Cung cấp nhiều sự kiện được xem là tiêu chí cho chất lượng giáo dục, học sinh nhớ tốt, thuộc lòng
2. Gv là nguồn kiến thức duy nhất, phần lớn thời gian trên lớp dùng cho giáo viên giảng học sinh lắng nghe và ghi lại lời giáo viên
3. Học sinh chỉ làm việc một mình trên lớp, ở nhà hoặc với giáo viên khi kiểm tra
4. Việc ghi chép được đơn giản hóa làm sao cho dễ nhớ
5. Các môn học chỉ dùng lại ở câu hỏi, bài tập thực hành một cách thụ động . Việc đánh gá kết quả được đo bằng trí nhớ
6. Việc học lý thuyết không gắn với thực hành, nhất là các môn khoa học xã hội
7. Nguồn kiến thức thu nhận của học sinh rất hạn hẹp, thường giới hạn ở bài giảng của giáo viên, sgk..
1. Cung cấp những kiến thức cơ bản được lựa chọn phù hợp với yêu cầu trình độ 
2. Ngoài lời giảng của giáo viên trên lớp, học sinh được tiếp xúc với nhiều nguồn kiến thức khác: bạn bè, SGK, vốn kiến thức đã học...
3. Học sinh ngoài việc tự làm việc còn trao đổi, thảo luận với các bạn trong tổ, trên lớp, ngoài giờ học..
4 .Các vấn đề thu nhận ngoài ghi chép còn được thể hiện ở các bảng biểu, mô hình ..giúp học sinh trên cơ sở nhớ, biết để hiểu sâu sắc, nắm chắc kiến thức.
5. Ngoài câu hỏi kiểm tra, bài tập thực hành học sinh được tự đặt vấn đề, câu hỏi để trình bày , trao đổi, được nêu ý kiến của riêng mình
6. Việc dạy lý thuyết để nâng cao trình độ nhận thức của học sinh, làm cơ sở để vận dụng những kiến thức đó học vào thực hành bộ môn và trong cuộc sống
7. Nguồn kiến thức của học sinh phong phú, đa dạng lời nó, tài liệu ..
Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên nó đòi hỏi giáo viên và học sinh phải được tích cực hóa trong quá trình dạy- học phải chủ động sáng tạo để học sinh tiếp thu kiến thức sâu hơn.
 II. Cơ sở thực tiễn
 1.Tình trạng của vấn đề đặt ra và sự cần thiết để tiến hành thực hiện đề tài
 1.1.Tình trạng chung
 Hiện nay trình độ dân trí của nước ta nói chung và dân trí ở các vùng nông thôn và miền núi nói riêng đang còn rất thấp so với các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới. Vậy làm thế nào để giải quyết vấn đề đó? Để nâng cao trình độ nhận thức của người dân thì những người đứng trong ngành giáo dục phải có trách nhiệm khá nặng nề, mà muốn giải quyết được vấn đề thì đòi hỏi phải đổi mới chương trình SGK, đổi mới PPDH cũng như hình thức tổ chức dạy học để phù hợp với đối tượng, phù hợp với sự phát triển của xã hội.
 1.2.Tình hình địa phương
 Bát xát là một huyện miền núi tuy có các điều kiện khá thuận tiện so với một số huyện khác trong tỉnh như : Simacai, Mường Khương,...Song trình độ dân trí ở đây còn thấp, điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn...Nên sự quan tâm đến việc học tập của con em trên địa bàn của một số gia đình còn nhiều hạn chế.
 1.3.Tình hình trường, lớp
 Trường THPT số 2 Bát Xát là một ngôi trường tuy mới được thành lập được 9 năm.Trường nằm cách đường quốc lộ khoảng 20 mét nên giao thông khá thuận lợi cho việc đến trường của cỏc em HS.Tuy mới được thành lập những nhà trường cũng đã có cơ sở khang trang sạch đẹp được trang bị về cơ sở vật chất nhưng trường vẫn còn có nhiều khó khăn. Nhìn chung tình hình học sinh đầu năm đến trường còn nhiều khiếm khuyết về mọi mặt: đồ dùng học tập và sách vở còn nhiều thiếu thốn, thiếu sự quan tâm của phụ huynh, ý thức học tập chưa cao, một số học sinh dân tộc còn rụt rè, thiếu tự tin trước đám đông...
 2.Tính thuyết phục của đề tài
 	 Trong tình hình hiện nay, việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm nó đòi hỏi ở học sinh một yêu cầu cao là học sinh phải độc lập, tự giác, sáng tạo trong học tập. Quá trình dạy học này gồm hai mặt quan hệ hữu cơ với nhau: Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Người giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy với hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo, tự tổ chức. Điều cần chú ý trong học tập là phải hoạt động một cách tích cực chủ động có nhận thức sâu sắc. Bằng hoạt động học tập học sinh tự hình thành và phát triển nhân cách của mình không ai có thể làm thay được.
 Như vậy, dạy học phải xây dựng trên nhu cầu hứng thú, thói quen, năng lực của học sinh ở các trình độ khác nhau nhằm làm cho học sinh lĩnh hội được những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ giá trị cần thiết, phát huy được đầy đủ năng lực của các em.Vai trò của giáo viên là truyền đạt tri thức, là người hướng dẫn, người cố vấn cho học sinh trong việc học tập. Chỉ có sự phối hợp hữu cơ và sự liên hệ qua lại chặt chẽ giữa những tác động bên ngoài của giáo viên, biểu lộ trong việc trình bày tài liệu chương trình và tổ chức công tác học tập của học sinh với sự căng thẳng trí tuệ “bên trong” của các em mới tạo được cơ sở của sự học tập có hiệu quả. Tính tích cực nhận thức của bản thân các em càng cao thì sự cân bằng năng lượng sinh hoá cơ sở tư duy sẽ càng phong phú và những kiến thức được lĩnh hội càng sâu sắc, đầy đủ hơn và vững chắc hơn.
 3. Một số biện pháp phát huy tính tích cực hoc tập của học sinh trong dạy học địa lí lớp 12
 3.1. Sử dụng SGK 
 3.1.1. Sử dụng SGK để trình bày bài giảng
 	Sau khi soạn giáo án xong, cần nghiên cứu nội dung toàn bài , xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rừ nội dung mà tác giả mong muốn ở học sinh về từng mặt giáo dục, giáo dưỡng, phát triển. Sau đó đi sâu vào từng mục, tìm ra kiến thức cơ bản..giáo viên dựa vào cuốn chuẩn kiến thức kĩ năng để xác định kiến thức cơ bản, xác định các khái niệm cần hình thành cho học sinh.
3.1.2. Sử dụng SGK trong quá trình dạy học trên lớp
 	Trong giời học học sinh thường theo dõi bài giảng của giáo viên rồi so sánh đối chiếu với SGK, thậm chí có những em không thích ghi theo bài giảng của giáo viên mà lại chép theo SGK. Vì vậy bài giảng của giáo viên không nên lặp lại ngôn ngữ trong sgk mà nên diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình.
Ví dụ: Khi dạy bài“Đặc điểm nền nông nghiệp nước ta“ mục 1b, giáo viên vừa chỉ bản đồ vừa phân tích hiện nay một số cây trồng chính được trồng tập trung tại các vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi và phù hợp hơn-> hình thành vùng sản xuất quy mô lớn-> vùng chuyên canh.
- Các loại cây trồng vật nuôi được phân bố phù hợp hơn với các vùng sinh thái.( HS cần nắm)
3.1.3. Hướng dẫn học sinh sử dụng SGK để học ở nhà 
 	 Đối vời học sinh khối 12 việc học ở nhà là vô cùng quan trọng giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể, vừa sức, nếu hoàn thành tốt là điều kiện để tư duy của các em phát triển.
Ví dụ: Khi học bài“ Đặc điểm nền nông nghiệp nước ta“ mục 2 giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng so sánh giữa hai hình thức sản xuất nông nghiệp cổ truyền và hàng hóa: Quy mô, hình thức sản xuất, năng suất lao động, mục đích.... để học sinh hiểu rõ nội dung bài học và học nhanh hơn.
3.2 Sử dụng hệ thống các câu hỏi 
- Câu hỏi phải vừa sức, đúng đối tượng không quá khó hoặc quá dễ, cần đặt câu hỏi phân theo đối tượng học sinh
- Mỗi giờ học chỉ nên sử dụng từ 5- 7 câu hỏi. Sau mỗi chương có câu hỏi bài tâp.
- Triệt để khai thác các câu hỏi trong SGK kết hợp với câu hỏi sáng tạo.
3.2.1. Nêu câu hỏi đầu giờ học
Đầu giờ học giáo viên có thể kiểm tra hay không kiểm tra kiến thức bài cũ nhưng trước khi cung cấp kiến thức của bài học cho học sinh, giáo viên cần nêu ngay câu hỏi định hướng cho học sinh, không yêu cầu học sinh trả lời ngay.
 	Ví dụ: Khi dạy bài “Vấn đề sử dụng hợp lí và cải tạo tự nhiên ở Đồng bằng Sông Cửu Long’’ thì đầu giờ học giáo viên đặt câu hỏi học sinh suy nghĩ: Tại sao phải đặt vấn đề sử dụng hợp lí và cải tạo tự nhiên ở Đồng bằng Sông Cửu Long?
3.2.2. Xác định mối liên hệ giữa câu hỏi và các hiện tượng địa lí, quá trình địa lí trong bài học
Ví dụ: Trong bài“ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Đồng bắng Sông Hồng“, giáo viên đặt câu hỏi: Phân tích thế mạnh hạn chế của ĐBSH?, Trình bày thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ở ĐBSH? Để học sinh liên hệ được định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ở ĐBSH.
 3.2.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp
 	Câu hỏi phải được chuẩn bị từ khi soạn giáo án phải dự kiến nêu ra lúc nào? Học sinh sẽ trả lời ra sao? Đáp án trả lời như thế nào? Cần tránh câu hỏi mà các em trả lời một cách đơn giản là“ có’’ hay“ không’’, “ đúng’’ hay ‚“sai’’.hoặc câu hỏi quá dễ làm học sinh chủ quan về vốn hiểu biết của mình.
 3.3. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan 
 	Đồ dùng trực quan sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan: tai nghe, mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực chú ý quan sát.
3.3.1. Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh, video
 	Hình vẽ, tranh ảnh trong sgk là một phần đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học, giáo viên nên sử dụng triệt để. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng, giáo viên luyện cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách khoa học, có xem xét, phân tích, giải thích..
Ví dụ: Khi dạy các bài về địa lí các ngành kinh tế giáo viên nên cho học sinh quan sát các hình ảnh về hoạt động sản xuất của các ngành: hình ảnh thu hoạch cao su, cà phê, hình ảnh một số sản phẩm ngành sản xuất hàng tiêu dùng, lương thực thực phẩm, hình ảnh về các loại hình giao thông vận tải .... để khắc sâu kiến thức cho học sinh và tăng khả năng vận dụng liên hệ kiến thức vào thực tiễ
3.3.2. Sử dụng bản đồ, át lát trong dạy học
Bản đồ và át lát địa lí 12 là phương tiện trực quan rất quan trọng và sinh động trong dạy học, trên bản đồ các sự kiện luôn được thể hiện một không gian, thời gian, địa điểm cùng các yếu tố địa lí có liên quan. Tập bản đồ địa lí 12 và atlat địa lí 12 như một cuốn sách giáo khoa 12 thứ 2 mô tả đầy đủ khá chi tiết các hiện tượng, sự kiện và các ngành và các vùng kinh tế một cách sinh động thực tiễn.Trong mỗi tiết học giáo viên nên lựa chọn bản đồ phù hợp sử dụng đúng với nội dung để giúp học sinh tìm tòi và khắc sâu kiến thức.
Ví dụ: Nếu chỉ dùng lời giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về vị trí địa lí của nước ta nhưng kết hợp giữa SGK và bản đồ Đông Nam Á hoặc atlat trang 4-5 giáo viên có thể hình thành biểu tượng cho học sinh một cách dễ dàng.Khi sử dụng bản đồ và atlat giáo viên nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí hiệu ghi trên bản đồ,tỉ lệ, đồng thời tập cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung địa lí được thể hiện trên bản đồ, các muối quan hệ địa lí trên bản đồ, sử dụng bản đồ, atlat để trả lời cho một câu hỏi địa lí.
 3.3.3. Sử dụng máy chiếu
Sử dụng máy chiếu là một phương pháp mới trong dạy học. Một số tranh ảnh, phần bài học quan trọng giáo viên có thể phôtô hoặc viết vào giấy trong, sau đó đưa lên máy chiếu học sinh sẽ thấy thích thú hơn, nhớ lâu hơn khi được học trên máy chiếu. Nhưng giáo viên cần phải lựa chon nội dung và hình ảnh phù hợp không được quá lạm dụng máy chiếu làm mất sự tập chung của học sinh vào bài học.
3.3.4. Sử dụng giáo án điện tử
Đây là một phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay, việc sử dụng các thiết bị dạy học này cũng không phải là điều dễ dàng hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị công phu, phải biết sử dụng các phương tiện hiện đại nhất là phần mềm powerpoint, xác định rõ các nội dung cần truyền tải vào các slie một cách ngắn gọn chính xác, rõ ràng. Giáo viên cần nắm rõ quy trình thiết kế bài giảng và sử dụng bài giảng một cách linh hoạt. Cần kết hợp trình chiếu, viết bảng và lời giảng của giáo viên một cach linh hoạt, phù hợp để đạt hiệu quả cao.
 	Như vậy việc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học địa lí là một việc rất quan trọng và ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy, cô quán triệt một cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình. Để làm được tốt điều này, đòi hỏi người giáo viên ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì phải có ý thức trách nhiệm cao, phải có cái tâm mang đặc thù của nghề dạy học bởi vì phương pháp dạy học dù hay đến mấy nhưng người thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề và thương yêu học sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy chúng ta mới góp phàn đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà : có trình độ văn hóa, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe, thông minh..đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
 4. Minh họa bài giảng
Để tiến hành thực nghiệm các vấn đề đó nêu ra tôi xin đưa ra một bài học cụ thể đề minh họa
Tiết 34- Bài 31: VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI VÀ DU LỊCH
I. Mục tiêu
 Sau tiết học HS cần đạt:
1. Về kiến thức 
- Nêu cơ cấu phân theo ngành của thương mại và tình hình hoạt động nội thương của nước ta.
- Phân tích tình hình, cơ cấu giá trị xuất, nhập khẩu và các thị trường chủ yếu của Việt Nam
- Chứng minh rằng tài nguyên du lịch chính ở nước ta tương đối phong phú và đa dạng.
- Nêu tình hình phát triển và các trung tâm du lịch quan trọng
2. Về kỹ năng 
- Xác định trên bản đồ các thị trường xuất, nhập khẩu chủ yếu; các loại tài nguyên du lịch, các trung tâm du lịch có ý nghĩa quốc gia và vùng của nước ta.
- Phân tí

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_huy_tinh_tich_cu.doc
  • docDơn+ BC tom tat hieu qua.doc