Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới kĩ năng đọc hiểu TCT “Tấm Cám” trong giảng dạy theo đặc trưng thi pháp thể loại

Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới kĩ năng đọc hiểu TCT “Tấm Cám” trong giảng dạy theo đặc trưng thi pháp thể loại

Kỹ năng là một khái niệm phức tạp, có nhiều cách định nghĩa quan niệm khác nhau. Theo từ điển tiếng việt phổ thông: kỹ năng hiểu một cách chung nhất là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế.

Có quan niệm cho rằng: kỹ năng đồng nghĩa với việc nắm vững các cách thức của hành động, quan niệm khác lại cho là: kỹ năng nghiêng về mặt năng lực của con người. Nguyễn Thanh Hùng quan niệm kỹ năng là kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiểu biết - năng lực và những thao tác tri giác của chủ thể hoạt động trong một lĩnh vực.

Như vậy có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm kỹ năng. Tóm lại có thể hiểu, kỹ năng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tri thức và kỹ thuật hành động, là sự thực hiện có kết quả một hành động theo một yêu cầu, mục đích nhất định.

* Kỹ năng tiếp nhận văn học

Theo từ điển thuật ngữ văn học, tiếp nhận văn học là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật cho đến sản phẩm sau khi đọc, cách hiểu ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo.

Trong thực tiễn nghiên cứu và dạy học có một số khái niệm được sử dụng với nội hàm tương đương tiếp nhận, chẳng hạn “lĩnh hội” hay “cảm thụ”. Khái niệm lĩnh hội dễ gợi hàm ý thụ động. Khái niệm “cảm thụ” thường gắn với việc thưởng thức các tác phẩm văn chương hình tượng bởi nó yêu cầu có sự tham gia của nhiều yếu tố, năng lực đọc văn đặc thù như cảm xúc, tưởng tưởng, tri giác ngôn ngữ nghệ thuật. Có thể hiểu, kỹ năng tiếp nhận tác phẩm văn học nhà trường là sự thực hiện linh hoạt, sáng tạo, có kết qủa các thao tác theo một trình tự hợp lí để tiếp cận, khám phá thưởng thức giá trị nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm văn học trong nhà trường trên cơ sở các tri thức về tác giả, tác phẩm và các tri thức khác có liên quan.

Trong xu thế đổi mới giáo dục hiện nay, rèn luyện kỹ năng cho học sinh là một trong ba mục tiêu của dạy học nói chung, dạy văn nói riêng. Để hoạt động tiếp nhận văn chương của học sinh mang tính tích cực, chủ động, linh hoạt và hiệu quả.

doc 41 trang Mai Loan 19/01/2025 200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới kĩ năng đọc hiểu TCT “Tấm Cám” trong giảng dạy theo đặc trưng thi pháp thể loại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 BÁO CÁO KẾT QUẢ 
 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
 1. Lời giới thiệu 
 Chuyển trọng tâm từ giáo dục tri thức sang giáo dục năng lực cho người học là 
tư tưởng đổi mới trong giáo dục Việt Nam hiện nay. Dạy học môn Ngữ văn ở trường 
phổ thông cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Bên cạnh nhiệm vụ cung cấp kiến 
thức, dạy học văn còn nhằm hình thành, bồi dưỡng và phát triển các kỹ năng, năng lực 
văn học, phát huy sự chủ động, sáng tạo của học sinh. Vì vậy, việc đổi mới phương 
pháp dạy học, tìm hướng tiếp cận mới trong dạy học môn Ngữ văn, tạo hứng thú, nâng 
cao năng lực học tập, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp, biết cảm thông, 
yêu thương chia sẻ với những số phận, cuộc đời thông qua mỗi trang sách, là điều rất 
cần thiết. “Văn học là nhân học” giúp hình thành nhân cách con người. Từ đó khơi 
gợi, đánh thức niềm đam mê với văn học, tìm về với giá trị đời sống tâm hồn của con 
người.
 Những thay đổi về phương pháp dạy học trong môn Ngữ văn nói riêng và trong 
giáo dục nói chung đã làm chuyển đổi toàn bộ cách dạy và học trong nhà trường. Nếu 
không tiếp cận và thay đổi nhận thức đánh giá, kết quả học tập của học sinh sẽ theo 
một hướng khác và không phù hợp với yêu cầu, mục tiêu đặt ra trong đổi mới. Với vai 
trò là người tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn ai 
hết giáo viên phải tìm tòi, xây dựng hướng tiếp cận mới, phương pháp mới để phát huy 
tính tích cực sáng tạo của người học. Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích 
mà học, thích mà học không bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động 
lực lớn thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi chúng 
ta.
 Trong chương trình Ngữ văn THPT các tác phẩm đưa vào giảng dạy khá 
nhiều, phong phú về thể loại từ văn học dân gian đến văn học trung đại. Đặc biệt 
trong số đó văn học dân gian, chương trình lớp 10 chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, 
là bộ phận chính của nền văn học và văn hóa của mỗi dân tộc; là cây đàn muôn điệu, 
cội nguồn của văn học viết. Nhiều thể loại văn học viết được xây dựng và phát triển 
dựa trên sự kế thừa các thể loại văn học dân gian. Nhiều tác phẩm , nhiều hình tượng 
do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm hứng, là thi liệu, văn liệu của văn học 
viết. 
 Văn học dân gian rất đa dạng với nhiều thể loại như: tục ngữ, câu đố, thần 
thoại, truyền thuyết, truyện cổ tíchTrong đó, truyện cổ tích là một thể loại tiêu biểu 
của văn học dân gian nói chung và các thể loại tự sự nói riêng. Truyện cổ tích là di sản 
văn hóa tinh thần phong phú, có giá trị tồn tại lâu dài trong lịch sử hình thành và phát 
triển của dân tộc Việt Nam. Truyện cổ tích thể hiện tập trung và sáng tỏ thế giới quan 
và nhân sinh quan của người dân lao dộng, đấu tranh xã hội cho một cuộc sống tốt đẹp 
hơn theo những khát vọng, ước mơ lí tưởng của nhân dân.
 1 Địa chỉ tác giả sáng kiến: Giáo viên trường THPT Yên Lạc 2
 Số điện thoại: 0975485402. E_mail: bongbang0910@gmail.com
 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
 Phạm Thị Thùy Giang – Trường THPT Yên Lạc 2 – Vĩnh Phúc
 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
 Áp dụng trong giảng dạy học sinh lớp 10 môn Ngữ văn, đặc biệt là các lớp 
chuyên văn và bồi dưỡng học sinh tham gia kì thi chọn học sinh giỏi môn Ngữ văn.
 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu
 Lần 1: Năm học 2017- 2018, áp dụng ở lớp 10C
 Lần 2: Năm học 2019- 2020, áp dụng ở lớp 10A1
 7. Mô tả bản chất sáng kiến
 7.1. Tổng quan về các vấn đề nghiên cứu
 7.1.1. Mục đích nghiên cứu
 Làm thế nào để học sinh có cách tiếp cận mới, có cách nhìn đa chiều, thoát khỏi 
sự dập khuôn? Đó chính là mục đích của sáng kiến mà tôi muốn thực hiện.
 Từ đặc trưng thể loại truyện cổ tích, giáo viên định hướng cho học sinh hiểu 
được ý nghĩa của các mâu thuẫn, xung đột và cuộc đấu tranh giữa Tấm và mẹ con 
Cám, từ đó hiểu đúng bản chất của nhân vật Tấm cũng như giá trị của truyện cổ tích 
Tấm Cám, ở hiền gặp lành, ác giả ác báo. Đó cũng chính là ước mơ của nhân dân lao 
động gửi gắm vào truyện cổ tích thần kì. Đồng thời qua Tấm Cám thấy được giá trị 
nghệ thuật của việc sử dụng yếu tố kì ảo và lối kể truyện hấp dẫn với kết thúc có hậu 
của tác giả dân gian đã tạo nên giá trị đặc sắc của truyện cổ tích nói chung và truyện cổ 
tích thần kì nói riêng.
 Như vậy, chúng ta hiểu tác phẩm văn học dân gian theo đúng đặc trưng thi pháp 
thể loại sẽ tạo cho học sinh sự hứng thú, kích thích sự tò mò, sáng tạo của học trò.
 7.1.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu của tôi là kĩ năng đọc hiểu truyện cổ tích và tác phẩm 
Tấm Cám theo đặc trưng thi pháp thể loại.
 Phạm vi nghiên cứu: Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám, đặc biệt là hành 
động Tấm trừng phạt mẹ con Cám ở cuối truyện.
 7.1.3. Phương pháp nghiên cứu
 Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp. Dưới đây là những phương 
pháp chủ yếu:
 - Phương pháp nghiên cứu lí luận
 - Phương pháp thống kê, nêu ví dụ.
 - Phương pháp phân loại, phân tích.
 - Phương pháp đóng vai
 - Phương pháp tổng hợp. 
 - Phương pháp thực nghiệm sư phạm
 3 tài của văn bản, về cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản, và cái 
cách mà ngôn ngữ nói có liên quan đến những ký tự, từ ngữ, yếu tố hình ảnh và những 
kí hiệu trên trang sách. Để người học có thể phát huy tối đa vai trò của mình thì các 
nhà giáo dục phải xây dựng được một môi trường giáo dục giúp học sinh có thể sử 
dụng năng lực tư duy ở mức tối đa. Môi trường ấy sẽ được xây dựng bằng các hoạt 
động tương tác giữa giáo viên với học sinh và giữa học sinh với nhau mà hệ thống câu 
hỏi là công cụ quan trọng để “kích hoạt” và dẫn dắt những hoạt động tương tác đó. 
Việc sử dụng câu hỏi trong những tình huống dạy học nhất định sẽ đòi hỏi học sinh 
phải vận dụng các thao tác tư duy như phân tích, so sánh, phán đoán, suy luận, đánh 
giá và giải quyết vấn đề. Qua quá trình giải quyết vấn đề, học sinh vừa lĩnh hội kiến 
thức, hình thành kỹ năng vừa rèn luyện tư duy
 7.2.1.2. Thực trạng giảng dạy TCT Tấm Cám trong chương trình lớp 10 ở 
trường phổ thông
 Môn Ngữ văn không chỉ là một môn khoa học như những môn học khác mà nó 
còn mang những đặc thù riêng của một môn nghệ thuật - nghệ thuật ngôn từ. Khi xem 
xét một tác phẩm văn học ta phải xem xét cả những yếu tố trong văn bản và yếu tố 
ngoài văn bản. Nếu không có một quan điểm tiếp cận đúng đắn và khoa học dẫn 
đường thì phương pháp dạy học văn chắc chắn sẽ gặp những sai lầm và thiếu sót.
 Nhìn chung giáo viên đều thừa nhận tầm quan trọng của việc kiểm tra đánh giá 
kỹ năng đọc hiểu. Tuy nhiên, thực trạng dạy học ở trường phổ thông cho thấy, giáo 
viên chưa chú ý đúng mức, học sinh chưa nắm được các thao tác cần thiết dẫn đến khả 
năng phát hiện và phân tích luận điểm còn yếu. Chẳng hạn khi tìm hiểu về TCT Tấm 
Cám, người thầy cần hướng cho các em tìm hiểu dưới góc độ thi pháp, thể loại. Thi 
pháp học là cách thức tiếp cận tác phẩm bám vào văn bản là chính, ít đi sâu vào những 
vấn đề nằm ngoài văn bản như: hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, tác dụng xã 
hội. Thi pháp học chỉ chú ý đến những yếu tố hình thức nghệ thuật như: không gian, 
thời gian, nhân vật, kết cấu, cốt truyện, điểm nhìn, ngôn ngữ. của tác phẩm văn học. 
Để giải mã được nội dung, tư tưởng của tác phẩm cần phải tiếp cận hình thức nghệ 
thuật của nó. Bởi tác phẩm văn học là chỉnh thể thống nhất của hai mặt hình thức và 
nội dung. Hình thức là sự biểu hiện của nội dung. Khi tìm hiểu một tác phẩm văn học 
chủ thể tiếp nhận cần phải nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa hình thức và nội 
dung. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy văn, không ít cách dạy, cách học vi phạm 
nguyên tắc tách nội dung ra khỏi hình thức. Học tác phẩm văn học nhưng thoát ly văn 
bản (nhất là với các tác phẩm dài), có rất nhiều hiện tượng dạy tác phẩm văn chương 
nhưng lại tìm hiểu qua loa văn bản, học sinh học đôi khi chỉ học lướt qua văn bản, giáo 
viên thì chỉ coi trọng tìm “ý”, vì thế mới có tình trạng dạy thơ không cần thuộc, dạy 
truyện không không cần kể mà chỉ nêu ý chính. Do áp lực thi cử, hiện nay, tình trạng 
giáo viên “đọc hộ”, “hiểu hộ”, “cảm thụ hộ” học sinh diễn ra khá phổ biến. Trong các 
giờ đọc hiểu văn học, học sinh thường nghe và chép lại những bài giảng của giáo viên 
hơn là tự mình cảm thụ, tìm kiếm, khám phá văn bản.
 5 7.2.2.1. Khái quát về văn học dân gian
 VHDG là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, sản phẩm của quá 
trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau 
trong đời sống cộng đồng.
* Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
 VHDG là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng: đây là dặc trưng nổi 
bật nhất tạo nhật tạo nên điểm khác biệt rất cơ bản giữa văn học dân gian và văn học 
viết. Văn học dân gian thường được truyền miệng theo không gian (từ vùng này qua 
vùng khác), hoặc theo thời gian (từ đời trước đến đời sau). Quá trình truyền miệng 
thường được thực hiện thông qua diễn xướng - tức là hình thức trình bày tác phẩm một 
cách tổng hợp (nói, hát, kể).
 Ảnh hưởng: Làm cho tác phẩm văn học dân gian được trau chuốt, hoàn thiện, phù 
hợp hơn với tâm tình của nhân dân lao động. Tạo nên tính dị bản (nhiều bản kể) của 
văn học dân gian.
 Văn học giân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể. Quá trình sáng tác 
tập thể: cá nhân khởi xướng - tập thể hưởng ứng (tham gia cùng sáng tạo hoặc tiếp 
nhận) cùng tu bổ, sửa chữa, thêm bớt cho phong phú, hoàn thiện. Trong khi tham gia 
lao động sản xuất, mọi người thường có những câu ca hay những câu chuyện hay kể 
cho cả một tập thể nghe. Đã có những câu hò hay những điệu nhạc reo vang, nó trở 
thành những tác phẩm vẻ vang trong thời kì lịch sử .
 Ngoài ra, văn học dân gian còn có tính thực hành, là sự gắn bó và phục vụ trực tiếp 
cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
* Những giá trị cơ bản của Văn học dân gian Việt Nam.
 Giá trị nội dung: phản ánh chân thực cuộc sống lao động, chiến đấu để dựng 
nước và giữ nước của dân tộc; thể hiện truyền thống dân chủ và tinh thần nhân văn của 
nhân dân; bộc lộ đời sống tâm hồn phong phú, tinh tế và sâu sắc của nhân dân (yêu 
đời, lạc quan, yêu cái thiện, cái đẹp trong cuộc sống, căm ghét cái xấu, sự độc ác, 
sống tình nghĩa, thuỷ chung,...); tổng kết những tri thức, kinh nghiệm của nhân dân về 
mọi lĩnh vực trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và chính bản thân 
mình.
 Giá trị nghệ thuật: xây dựng được những hình ảnh nhân vật đẹp, tiêu biểu cho 
truyền thống quý báu của dân tộc; văn học dân gian là nơi hình thành nên những thể 
loại văn học cơ bản và tiêu biểu của dân tộc do nhân dân lao động sáng tạo nên. Văn 
học dân gian còn là kho lưu trữ những thành tựu nghệ thuật mang đậm bản sắc dân tộc 
mà các thế hệ đời sau cần học tập và phát huy.
* Vai trò của văn học dân gian
 Vai trò và tác dụng trong đời sống tinh thần của xã hội: văn học dân gian nêu cao 
những bài học về phẩm chất tinh thần, đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc: tinh 
thần nhân đạo, lòng lạc quan, ý chí đấu tranh bền bỉ để giải phóng con người khỏi bất 
công, ý chí độc lập, tự cường, niềm tin bất diệt vào cái thiện... Văn học dân gian góp 
 7

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_ki_nang_doc_hieu_tct_tam_cam_t.doc
  • docBìa, mục lục.doc