Sáng kiến kinh nghiệm Dạy Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng. Mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu về nhân cách của trẻ và cung cấp cho trẻ những tri thức cần thiết. Đặc biệt là môn Tiếng việt, trong đó phân môn Tập làm văn chiếm vị trí rất quan trọng. Hơn nữa trong bất kỳ nhà trường nào lượng kiến thức cung cấp cho học sinh có hạn mà mong muốn hiểu biết của con người vào xã hội là vô hạn. Do đó ngay từ khi ở trường các thầy cô phải dạy cho học sinh thói quen tự học và lòng ham học. Nhiều giáo viên Tiểu học đã không tiếc công sức, tìm tòi, sáng tạo ra nhiều trò chơi, nhiều phương pháp giúp học sinh nắm được cách viết, cách nói các bài theo phong cách khác nhau. Rèn cho học sinh các kỹ năng phân tích đề, tìm ý lập dàn ý, viết câu, viết đoạn, kỹ năng liên kết câu, ngoài kỹ năng chung còn có các kỹ năng đặc thù để nó gắn với từng kiểu bài. Môn Tập làm văn rèn luyện tư duy hình tượng và tư duy lô gic, rèn luyện óc quan sát, khả năng xây dựng hình tượng, thông qua các kiểu bài Tập làm văn giúp cho học sinh phát triển vốn từ ngữ, bồi dưỡng tình cảm đối với thiên nhiên, con người để hình thành nhân cách cho học sinh.
Qua Tập làm văn, học sinh sản sinh ra văn bản của riêng mình, luyện tập cách nói trước đám đông, thông qua việc trình bày văn bản của riêng mình qua đó rèn luyện cho học sinh thái độ tự tin, bình tĩnh. Nhưng trong thực tế chất lượng giờ Tập làm văn nói của học sinh còn nhiều hạn chế do vốn sống, vốn hiểu biết còn ít và có hạn, vốn từ ngữ nghèo nàn. Mặt khác nhiều trường học chưa chú trọng đẩy mạnh các hoạt động thực tiễn, các hoạt động ngoại khóa hổ trợ cho việc học Tập làm văn . Học sinh bị bó hẹp trong bốn bức tường của lớp học và gia đình. Do vậy cả giáo viên và học sinh đều không có hứng thú khi dạy và học Tập làm văn. Để học sinh học tốt thì giáo viên phải dạy tốt, trên cơ sở nắm vững nội dung chương trình, người giáo viên tổ chức cho học sinh tiến hành hoạt động học để nắm vững tri thức. Như vậy mỗi giáo viên phải tự biến quá trình dạy học của mình thành quá trình tự học của học sinh . Dạy cho học sinh biết học và tự học. Điều đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải có trình độ sư phạm lành nghề, luôn luôn tìm tòi sáng tạo, có phát kiến mới trong dạy học, nắm vững nội dung, kiến thức lớp mình dạy, trang bị cho bản thân kiến thức và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính năng động và tự chủ của học sinh, tạo cho học sinh khả năng làm việc độc lập và tự giải quyết các tình huống nảy sinh trong cuộc sống. Nhờ năng lực này các em được sử dụng Tiếng việt là công cụ tư duy, giao tiếp và học tập. Tập làm văn góp phần mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ hình thành nhân cách cho học sinh.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng. Mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu về nhân cách của trẻ và cung cấp cho trẻ những tri thức cần thiết. Đặc biệt là môn Tiếng việt, trong đó phân môn Tập làm văn chiếm vị trí rất quan trọng. Hơn nữa trong bất kỳ nhà trường nào lượng kiến thức cung cấp cho học sinh có hạn mà mong muốn hiểu biết của con người vào xã hội là vô hạn. Do đó ngay từ khi ở trường các thầy cô phải dạy cho học sinh thói quen tự học và lòng ham học. Nhiều giáo viên Tiểu học đã không tiếc công sức, tìm tòi, sáng tạo ra nhiều trò chơi, nhiều phương pháp giúp học sinh nắm được cách viết, cách nói các bài theo phong cách khác nhau. Rèn cho học sinh các kỹ năng phân tích đề, tìm ý lập dàn ý, viết câu, viết đoạn, kỹ năng liên kết câu, ngoài kỹ năng chung còn có các kỹ năng đặc thù để nó gắn với từng kiểu bài. Môn Tập làm văn rèn luyện tư duy hình tượng và tư duy lô gic, rèn luyện óc quan sát, khả năng xây dựng hình tượng, thông qua các kiểu bài Tập làm văn giúp cho học sinh phát triển vốn từ ngữ, bồi dưỡng tình cảm đối với thiên nhiên, con người để hình thành nhân cách cho học sinh. Qua Tập làm văn, học sinh sản sinh ra văn bản của riêng mình, luyện tập cách nói trước đám đông, thông qua việc trình bày văn bản của riêng mình qua đó rèn luyện cho học sinh thái độ tự tin, bình tĩnh. Nhưng trong thực tế chất lượng giờ Tập làm văn nói của học sinh còn nhiều hạn chế do vốn sống, vốn hiểu biết còn ít và có hạn, vốn từ ngữ nghèo nàn. Mặt khác nhiều trường học chưa chú trọng đẩy mạnh các hoạt động thực tiễn, các hoạt động ngoại khóa hổ trợ cho việc học Tập làm văn . Học sinh bị bó hẹp trong bốn bức tường của lớp học và gia đình. Do vậy cả giáo viên và học sinh đều không có hứng thú khi dạy và học Tập làm văn. Để học sinh học tốt thì giáo viên phải dạy tốt, trên cơ sở nắm vững nội dung chương trình, người giáo viên tổ chức cho học sinh tiến hành hoạt động học để nắm vững tri thức. Như vậy mỗi giáo viên phải tự biến quá trình dạy học của mình thành quá trình tự học của học sinh . Dạy cho học sinh biết học và tự học. Điều đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải có trình độ sư phạm lành nghề, luôn luôn tìm tòi sáng tạo, có phát kiến mới trong dạy học, nắm vững nội dung, kiến thức lớp mình dạy, trang bị cho bản thân kiến thức và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính năng động và tự chủ của học sinh, tạo cho học sinh khả năng làm việc độc lập và tự giải quyết các tình huống nảy sinh trong cuộc sống. Nhờ năng lực này các em được sử dụng Tiếng việt là công cụ tư duy, giao tiếp và học tập. Tập làm văn góp phần mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ hình thành nhân cách cho học sinh. 1.2. Mục đích nghiên cứu Với mục đích góp phần tìm ra những giải pháp hữu hiệu giúp các em sử dụng phương tiện ngôn ngữ Tiếng việt trong giao tiếp ngày càng tốt hơn nên tôi đã tìm hiểu về kinh nghiệm “Dạy Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4”, nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm văn nói riêng và chất lượng Giáo dục nói chung. 1.3. Đối tượng nghiên cứu -Học sinh lớp 4A-Trường tiểu học Hoằng Đại nơi tôi đang công tác hiện nay. -Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4. 1.4. Phương pháp nghiên cứu -Thu thập tài liệu, đọc sách và các tài liệu tham khảo. -Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. -Phương pháp dạy học theo hướng trải nghiệm khám phá. -Sử dụng các phương pháp khác: Phân tích ngôn ngữ, so sánh đối chiếu, thống kê và xử lí các số liệu thu được 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến Dạy Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 là một trong những nội dung có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học vì nó là tổng hợp các phân môn tập đọc , chính tả , luyện từ và câu , kể chuyện trong môn Tiếng Việt. Nó trang bị cho học sinh vốn kiến thức về kĩ năng nói, viết. Giúp cho học sinh biết dùng từ ngữ, hình ảnh hay trong khi làm bài, làm cho bài văn sinh động và giàu tình cảm của người viết, nói vói người nghe, đọc. Qua quá trình giảng dạy tôi đã đúc rút ra kinh nghiệm về dạy Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Nó có thể giúp cho các em rung động trước cái hay, cái đẹp của hình tượng văn học, của ngôn ngữ văn chương. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Qua thống kê lại chất lượng bài làm văn các đợt kiểm tra định kì của các năm học trước, tôi thấy kết quả bài tập làm văn của các em học sinh khối 4 rất thấp, chỉ có khoảng 60% số học sinh viết được bài văn đạt yêu cầu, trong đó tỉ lệ HS hoàn thành tốt là rất hạn hữu. Ở các lớp 1; 2;3 các em chỉ mới viết một đoạn văn ngắn. Trong khi đó yêu cầu: Tập làm văn ở lớp 4 dạy cho học sinh biết quan sát tìm ý, biết lập dàn bài, thực hành làm văn nói và làm văn viết, rèn kỹ năng diễn đạt thông qua bài tập dùng từ đặt câu, dựng đoạn, hình thành văn bản hoàn chỉnh khi viết. Mặc dù vậy, đa số các em lớp tôi giảng dạy đều có thể viết được bài văn với đầy đủ 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài ), nhưng trong bài viết cụ thể của từng em thì dường như hầu hết các bài đều có ít nhiều lỗi về sử dụng từ ngữ và khả năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật còn nhiều hạn chế. Các em sử dụng từ ngữ đơn giản, khô khan, ít giá trị biểu cảm. Khi viết văn, các em mới chỉ dừng ở mức độ cụ thể, thực tế chứ chưa biết sử dụng biện pháp nghệ thuật để cho lời văn có hình ảnh và giàu cảm xúc, làm cho người đọc, người nghe hình dung một cách rõ nét, cụ thể, sinh động về sự vật. Các yêu cầu về trình bày, về chính tả, về chữ viết được chú trọng thường xuyên. Mỗi tiết dạy đều có yêu cầu cụ thể ( thường gắn với một đề bài cụ thể) nhưng đồng thời lại đòi hỏi phải có yêu cầu khái quát hoá cho những kiểu bài và từng bước vận dụng phương pháp chung ở các kiểu bài Tập làm văn. Để kiểm nghiệm các giải pháp của mình tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng về môn tập làm văn của lớp 4A năm học 2017-2018 kết quả cụ thể như sau: Sĩ số học sinh Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % 27 2 7,4 17 63 8 29,6 -Từ kết quả khảo sát trên cho thấy số học sinh chưa hoàn thành chiếm tỉ lệ cao. Do vậy tôi cần phải tìm ra phương pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để kết quả dạy học được nâng lên,thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học. 2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Tập làm văn là một phân môn tổng hợp các kiến thức và kĩ năng về chính tả, tập đọc, luyện từ và câu. Nhưng trong quá trình viết văn miêu tả, các em gặp khá nhiều khó khăn. Giúp học sinh lớp 4 khi viết văn miêu tả biết sử dụng từ ngữ giàu biểu cảm, biết sử dụng biện pháp nghệ thuật (nhân hóa, so sánh) để bài văn thêm sinh động, tôi giúp học sinh làm tốt các yêu cầu sau đây: - Xác định yêu cầu về thể loại, nội dung và trọng tâm của bài, có thể củng cố thêm lý thuyết làm bài theo thể loại. - Vận dụng mối quan hệ giữa các phân mô trong môn Tiếng việt để hỗ trợ nhau trong quá trình học tập. - Hướng dẫn học sinh sử dụng phối hợp nhiều giác quan trong quá trình quan sát sự vật để có kết quả quan sát đầy đủ, chi tiết từ đó có thể lập dàn bài một cách tốt nhất. - Hướng dẫn học sinh lập dàn bài; vận dụng vốn sống; khai thác và sử dụng lớp ngôn từ nghệ thuật có giá trị biểu cảm và giá trị hình tượng và hoàn thiện bài đó chuẩn bị để tập nói. - Biết khai thác và sử dụng biện pháp nghệ thuật (nhân hóa, so sánh) trong học Tập làm văn miêu tả để hoàn thành bài viết. - Hướng dẫn học sinh bộc lộ cảm xúc cho bài làm văn, phân tích các bài văn mẫu để học thêm về cách dùng từ, đặt câu, liên kết đoạn... * Giải pháp thực hiện: 2.3.1. Vận dụng các mối quan hệ giữa các phân môn Tiếng việt Chương trình Tiếng việt bao gồm các phân môn như sau: Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Chính tả, Kể chuyện ...Người giáo viên Tiểu học cần phải hiểu rõ được mối quan hệ giữa các phân môn này. Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải có ý thức thể hiện mối quan hệ đó và tạo thành cơ sở giúp các em học tốt môn Tập làm văn . Ví dụ: Khi dạy cho các em bài Tập đọc “Con chuồn chuồn nước” giáo viên cần cho học sinh thấy đây là một bài văn miêu tả, thấy được sự quan sát tinh tế của nhà văn về chú chuồn chuồn, kết hợp tả với cảnh vật, không gian xung quanh đối tượng chính cần tả là chú chuồn chuồn. Ngoài ra còn cho học sinh học tập cách sử dụng các biện pháp tu từ nghệ thuật khi tả hình dáng và hoạt động của con chuồn chuồn : + Biện pháp so sánh : Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng; hai con mắt long lanh như thuỷ tinh. + Biện pháp nhân hoá : Bốn cánh khẽ rung rung như còn đang phân vân. ... Hoặc khi dạy bài “Bè xuôi sông La” mặc dù là bài thơ nhưng phân tích để học sinh cảm nhận được sự quan sát và dùng từ ngữ, hình ảnh miêu tả rất hay của tác giả về bè gỗ, về cảnh vật hai bên bờ sông. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nghệ thuật so sánh nước sông trong với ánh mắt; bè gỗ với đàn trâu, sóng nước với vẩy cá,... Hay biện pháp nhân hoá về bờ tre xanh mang dáng vẻ của một thiếu nữ, ... Ở một số bài tập đọc thuộc thể loại miêu tả khác cần cho học sinh thấy được bố cục của bài văn gồm ba phần . Tập đọc, kể chuyện có nhiệm vụ chủ yếu là rèn luyện kỹ năng đọc và hiểu, nghe và hiểu các ngôn bản của bài tập đọc, câu chuyện kể. Bên cạnh đó các phân môn nàycũng góp phần rèn luyện kỹ năng sản sinh văn bản qua việc lập dàn bài và tập kể lại các câu chuyện. Ngoài ra các môn này còn cung cấp cho học sinh vốn từ ngữ phong phú, đa dạng, các ví dụ điển hình về nghệ thuật dùng từ, đặt câu, viết đoạn, viết bài văn, các em được học cách dùng từ hay, các bài kể chuyện sinh động, gợi cảmđể phục vụ cho Tập làm văn. Phân môn Luyện từ và câu cũng góp phần to lớn trong dạy Tập làm văn. Nó cung cấp vốn từ cho học sinh , giúp các em có thêm công cụ tư duy để viết bài văn . Học tốt môn này giúp các em viết câu rõ ràng ... Tóm lại : Tập làm văn có tính chất tổng hợp, có quan hệ chặt chẽ với việc học Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện. Bài Tập làm văn trở thành sản phẩm tổng hợp, là nơi trình bày kết quả đích thực nhất của việc học Tiếng Việt . Chính vì mối quan hệ này, tôi cho rằng muốn nâng cao được chất lượng môn Tiếng Việt ta phải nâng cao chất lượng môn Tập làm văn cho các em. 2.3.2. Xây dựng trường từ vựng qua việc nói miệng Tập làm văn miệng còn rèn luyện cho học sinh kỹ năng diễn đạt bằng lời nói thông qua khẩu ngữ và những yếu tố phi ngôn ngữ ( cử chỉ, điệu bộ ,ánh mắt, nụ cười) sao cho phù hợp với yêu cầu diễn đạt. Muốn làm tốt bước này giáo viên cần có sự sáng tạo để tổ chức giờ dạy sao cho tự nhiên, gây hứng thú, tạo cho học sinh nhu cầu nói, nhu cầu giao tiếp chứ không phải đơn thuần là trả lời các câu hỏi trong phiếu bài tập một cách gượng gạo, thiếu tự nhiên. Để đạt được điều này giáo viên cần chú ý: - Giáo viên chuẩn bị cho mình lời mở đầu sao cho có sự thu hút người nghe hoặc tạo không khí lớp học sôi nổi, nên gọi một số em nói tốt để mở đầu. - Cần tạo không khí sôi nổi nhưng hết sức tôn trọng học sinh để kích thích các em nói. Cần quan tâm, hướng dẫn các em nói sao cho đúng phong cách và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Với đề xuất này tôi chỉ giữ vai trò tổ chức, hướng dẫn, điều khiển hành vi trong quá trình tìm ra tri thức mới, tổ chức cho cá nhân tự tìm tòi, trao đổi ở nhóm và các hoạt động chung ở lớp học. Các em giữ vai trò tích cực, chủ động, biến yêu cầu của thầy thành yêu cầu nhận thức của học sinh. Các nhóm báo cáo được kết quả của mình, em đại diện nhóm nói được ý tưởng của nhóm mình. Ví dụ : Học sinh đọc bài tập 2 ( trang 61) Sách Tiếng việt 4 tập 2. Yêu cầu của bài tập là: Viết thêm vào chỗ trống trong từng đoạn đã nêu để đoạn văn được hoàn chỉnh. + Đoạn 1: Là đoạn mở bài cụ thể thêm vào phần mở đầu như sau: ( Khu vườn nhà em trồng nhiều loại cây ăn quả, nào mít, nào nhãn, nào vải thiều.... và nhiều hơn là chuối) .Em thích nhất một cây chuối tiêu sai quả trong bụi chuối ở góc vườn. (Hoặc là : Vườn nhà em trồng nhiều loại cây: cây chuối ,chuối cau, chuối hột, chuối ngự, ...chuối nào cũng đem lại lợi ích cho gia đình em. Tất cả loại chuối trong vườn em, em thích nhất một cây chuối tiêu sai quả trong bụi chuối ở góc vườn.) + Đoạn 2: Là đoạn thân bài, tả bao quát cây chuối rồi tả thân cây chuối có thể thêm vào như sau: Nhìn từ xa cây chuối như một chiếc ô xanh mát rượi. Thân cây cao hơn đầu người, mọc thẳng, không cành, xung quanh là mấy cây con đứng sát lại thành bụi ( trông như người mẹ dắt đàn con đi dạo mát trong những ngày hè oi bức. Sờ vào thân cây chuối có buồng, tay em không còn cảm giác mát rượi vì cái vỏ nhẵn bóng đã hơi khô). + Đoạn 3: Cũng là đoạn thân bài, tả những tàu lá chuối và ngọn của cây chuối, có thể thêm vào phần tiếp theo của đoạn này như sau: Cây chuối có nhiều tàu lá, có tàu đã già khô, bị gió đánh rách ngang và rũ xuống gốc. Các tàu lá còn xanh thì liền tấm, to như cái máng nước úp sấp. Những tàu lá ở dưới màu xanh thẩm, những tàu lá ở trên màu xanh mát, nhạt dần (Những tàu lá như muốn che chở, ôm ấp cho buồng chuối. Buồng chuối dài lê thê như muốn kéo thân chuối ngã về một phía. Những nải chuối úp sát nhau, trái nhỏ dần phía dưới. Mỗi nải chen chúc những quả chuối to bằng cổ tay em bé, dáng cong cong phía dưới có cọng nhỏ héo đen). + Đoạn 4: Là đoạn kết bài , có thể vào thêm vào trước câu cuối như sau : (Cây chuối cống hiến trọn vẹn cho con người. Củ chuối, thân chuối người ăn được nhưng chủ yếu để nuôi heo, nuôi gà. Lá chuối gói giò, gói bánh và hoa chuối làm nộm hoặc ăn sống.Quả chuối chín vừa ngọt, thơm và bổ). Chuối có ích như thế nên mẹ em thường xuyên chăm bón cho cây chuối tốt tươi. * Tóm lại : Những phần trong ngoặc các nhóm có thể tùy ý lựa chọn từ ngữ để đưa vào các đoạn sao cho phù hợp với yêu cầu của từng đoạn mà không gò ép các em phải theo câu văn mà giáo viên làm mẫu. Mỗi nhóm trình bày theo một ý tưởng riêng mình. Như vậy qua phần trình bày của nhóm trưởng giáo viên đã cung cấp và xây dựng trường từ vựng cho học sinh. Từ đó bài văn của học sinh sẽ chất lượng hơn. 2.3.3. Hướng dẫn dùng tất cả các giác quan để quan sát sự vật cần tả để có thể miêu tả chi tiết cụ thể Giáo viên chia nhóm học sinh thảo luận, mỗi nhóm từ bốn đến sáu em. Cử một nhóm trưởng, một thư ký, em thư ký cókhả năng ghi chép, em nhóm trưởng cókhả năng bao quát, tính tổ chức cao. Giáo viên cần phát câu hỏi cho nhóm trưởng, phát giấy cho thư ký. Em nhóm trưởng đọc to từng câu hỏi cho cả nhóm nghe, cả nhóm thảo luận, thư ký ghi lại những ý kiến của nhóm. Trong khi chờ đợi thư ký ghi nhóm trưởng chỉ định cho các bạn trong nhóm thảo luận. Như vậy mỗi câu hỏi được đưa ra được các thành viên trong nhóm trả lời từ một đến hai lần. Sau khi thảo luận xong, nhiều em đó thuộc bài ngay tại lớp. Nhóm trưởng cho bạn khác trả lời, bạn yếu nhắc lại. Thảo luận xong thư ký đọc lại toàn bài theo đề đã yêu cầu cho cả lớp nghe. Ví dụ: Đề bài: Quan sát một đồ chơi em thích và ghi lại những điều đã quan sát được (Búp bê, gấu bông,...) Giáo viên phát câu hỏi cho từng nhóm, nội dung các câu hỏi như sau: 1/ Mở bài cần nêu ý gì? 2/ Quan sát, dùng mắt để xem hình dáng, kích thước, màu sắc của đồ vật như thế nào? 3/ Dùng tay để biết đồ vật mềm hay rắn, nhẳn nhụi hay thô ráp, nặng hay nhẹ? 4/ Dùng tai để nghe đồ vật khi được sử dụng có phát ra tiếng động không, tiếng động ấy như thế nào? Sau khi thảo luận (khoảng 10 phút) giáo viên gọi nhóm trưởng lên trình bày ý kiến tổng hợp của nhóm để có một dàn bài hoàn chỉnh nhất trước lớp. Sau khi học sinh trình bày xong giáo viên giúp học sinh chỉnh sửa và hoàn chỉnh dàn ý, đưa ra một dàn bài cho học sinh tham khảo. Ví dụ: Tả chú gấu bông. Mở bài: Trong những đồ chơi mà em thích, em rất thích gấu bông. Thân bài: - Đây là một chú gấu ngồi, em ôm rất vừa tay, được làm bằng loại len pha bông mềm và mịn. - Gấu khoác một cái áo và đội một chiếc mũ vàng chanh, đầu, tay, chân màu nâu xám. - Lột mũ ra, cái đầu tròn vo, hai tai vểnh lên, mắt đen tròn như hai hạt nhãn, miệng u lên và cái mũi đen. - Thân mình và tay chân mập ú, tay chân dang ra trông rất tự nhiên. - Em thắt cho gấu một cái nơ và đính cho gấu một trái banh bằng vải trông rất ngộ. - Ôm mịn mát, ngủ cùng gấu rất thích. Kết bài: Em rất thích gấu bông vì đây là quà mẹ tăng em nhân ngày sinh nhật. Chú ý: Tùy theo từng bài dạy mà giáo viên có thể sử dụng các giải pháp cho phù hợp, ngoài giải pháp thảo luận nhóm theo từng câu hỏi cụ thể, còn dùng phiếu bài tập để tiến hành khai thác nội dung bài học. 2. 3.4. Cung cấp cho học sinh vốn từ có giá trị nghệ thuật Khi dạy bất kì dạng bài tập làm văn miêu tả nào cho học sinh lớp 4, tôi xác định rõ mục tiêu và cung cấp cho các em vốn từ ngữ phù hợp (nếu vốn từ ngữ trong sách giáo khoa còn hạn chế thì tôi cung cấp thêm từ ngữ trong vốn từ ngữ dân gian), giải nghĩa những từ học sinh khó hình dung. Chẳng hạn khi dạy dạng bài miêu tả đồ vật, tôi cung cấp và giúp học sinh hiểu nghĩa của những từ có liên quan đến đặc điểm của các đồ vật. Nếu miêu tả đồ dùng , tôi lưu ý học sinh những đặc điểm chung của vật. Như “thước thì mình vuông, mặt phẳng lì, cái bàn cái ghế thì có các chân thon thả, mặt phẳng, nhẵn bóng, nổi vânCái mũ, cái áo thì mềm mại, thùng thình, hơi dài hay vừa vặn Nếu miêu tả đồ chơi tôi lưu ý học sinh những đặc điểm của đồ chơi. Như con gấu bông, con búp bê thì mình tròn, mập mạp hay thanh mảnhbộ lông mềm mại, hồng hồng, đỏ tía hay vàng cam Còn khi dạy dạng bài miêu tả cây cối, tôi lưu ý học sinh những đặc điểm chung về cây. Như là thân cây thì to tướng, hơi to, cổ thụ hay sừng sữnglá cây thì xanh đậm, xanh non, xanh biếc hay xanh umvỏ cây thì xanh xám, nâu xỉn, bạc phếch, xù xì hay nhẵn nhụi tán cây thì tròn, sum sê hay toả rộng,rễ cây ngoằn ngoèo Khi dạy dạng bài miêu tả con vật- đây là dạng bài miêu tả sự vật sống động nên cũng phải chân thực sinh động hơn, các con vật với các đặc điểm và các hoạt động sống động cho nên việc sử dụng từ ngữ độ chính xác phải cao. Khi miêu tả con chó, con mèo, con gàthì màu lông của chúng màu trắng ( trắng bạch, trắng tinh hay trắng xen lẫn đốm vàng.. ), màu vàng (vàng sậm, vàng óng hay vàng như nắng), đôi mắt của chúng cú thể tròn, trong, nâu, xanh hay long lanh,chân của chúng có thể cao cao, thon thon, nhanh nhẹn hay chắc chắn, săn mồi( chồm, vồ..), thể hiện thái độ thân thiết, quấn quýt (với chủ) * Hướng dẫn học sinh thực hành sử dụng lớp ngôn từ có giá trị nghệ thuật kết hợp tả với kể . Trong thực tế, khi dạy bất kì một tiết luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả nào, tôi đều yêu cầu các em nêu đoạn văn miêu tả đặc điểm từng bộ phận của sự vật đó, gợi cho các em hình dung, tưởng tượng sự vật đó một cách cụ thể, sinh động. Ví dụ 1: Khi yêu cầu học sinh viết đoạn văn ngắn tả hình dáng bên ngoài chiếc cặp của em. Học sinh có thể nêu miệng cách tả hình dáng bên ngoài cái cặp như sau: Chiếc cặp của em đen, hình chữ nhật nằm ngang, to và dày. Cặp còn thơm mùi da. Mặt ngoài cặp mềm, sờ vào êm. Nắp cặp hình chữ nhật, hơi vát ở hai bên, cũng bằng da mềm và có màu da đen. Xung quanh mép được viền bằng một loại chỉ to màu vàng trang trí cho nổi. Hai khoá chốt bằng kim loại nằm cân xứng hai bên, đẩy ra, đẩy vào nhẹ và kêu rất thích. Tôi hướng dẫn em sửa lại cách dùng từ như sau: - Chiếc cặp của em màu đen như thế nào? (đen sẫm. đen nhánh hay đen ..) - Cặp của em hơi to hay rất to? so với những vật đựng bên trong nó thì thế nào? - Mặt ngoài cặp mềm mềm, mềm mại hay mềm như nhung? - Sờ vào êm như thế nào? - Đẩy nhè nhẹ hay nhẹ nhàng? - Em nghe âm thanh khoá cặp ra sao? (lách cách hay tanh tách) Học sinh sửa lại đoạn văn : Chiếc cặp của em màu đen nhánh, hình chữ nhật nằm ngan,. to hơn quyển sách Tiếng Việt của em một chút. Cặp còn mới, được làm bằng da thuộc. Mặt ngoài cặp mềm mại, sờ vào êm êm. Nắp cặp hình chữ nhật, hơi vát ở hai bên, cũng bằng da mềm và có màu vàng cam. Xung quanh mép được viền bằng một loại chỉ to màu vàng trang trí cho nổi. Hai khoá chốt bằng kim loại nằm cân xứng hai bên, đẩy ra, đẩy vào nhẹ nhàng và kêu tanh tách rất vui tai. Đằng sau có hai quai đeo làm bằng chỉ to bản vừa chắc lại vừa êm vai. Vídụ 2: Khi yêu cầu học sinh viết đo
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_day_tap_lam_van_mieu_ta_cho_hoc_sinh_l.doc