Sáng kiến kinh nghiệm Dạy dạng bài tập “Đặt dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu văn cho sẵn” ở phân môn Luyện từ và câu Lớp 3
Cơ sở lí luận của vấn đề
Dạy học phân môn Luyện từ và câu ở cấp Tiểu học nhằm giúp học sinh có những cơ sở ban đầu về các mẫu câu, kiểu câu, các loại dấu câu và đặc biệt là vốn từ của các em được mở rộng. Các em có kỹ năng dùng từ và đặt câu đúng. Dạy học phân môn Luyện từ và câu theo chương trình hiện hành khác với phân môn Từ ngữ - Ngữ pháp theo chương trình cải cách giáo dục trước đây. Nghĩa là học sinh chủ yếu được luyện tập thực hành mà không mấy chú trọng vào phần lý thuyết. Nếu dạy phân môn Luyện từ và câu mà nặng về phần lý thuyết là chưa đạt được yêu cầu của bài dạy. Chính vì vậy, những ngữ liệu mà chương trình đưa ra trong mỗi bài dạy gần gũi, sát thực với học sinh. Thông qua các ngữ liệu, học sinh nắm được các mẫu câu, kiểu câu, dấu câu và mở rộng được vốn từ. Ở chương trình lớp 2, lớp 3 học sinh chưa được học khái niệm câu có nhiều chủ ngữ, vị ngữ hay câu có trạng ngữ như lớp 4, lớp 5 mà các em chỉ được biết: Nếu câu có nhiều chủ ngữ thì được hiểu là trong câu có các bộ phận cùng trả lời cho một câu hỏi Ai? Còn nếu câu có nhiều vị ngữ thì các em được hiểu là trong câu có các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Là gì? Làm gì? hay Thế nào? Còn câu có bộ phận Trạng ngữ thì các em được hiểu là trong câu có bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? Khi nào? hoặc Vì sao? Vậy trong câu có các bộ phận cùng trả lời cho một câu hỏi Ai (con gì, cái gì)? Là gì? Làm gì? Thế nào? hoặc trong câu có bộ phận trả lời cho câu Ở đâu? Khi nào? hoặc Vì sao? chúng cần có dấu hiệu gì để cho học sinh nhận dạng đúng khi làm bài tập. Muốn vậy giáo viên phải giúp học sinh thành thạo và làm tốt các bài tập dạng “Điền dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu văn cho sẵn” mà trước đó sách giáo khoa hay sách giáo viên không hề cung cấp một cái gì về lý thuyết cả. Để làm được điều này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức, phương pháp và khái quát được thành từng dạng bài tập cho học sinh lớp 2, lớp 3 thì chắc chắn lên lớp trên các em sẽ học tốt phân môn Luyện từ và câu nói riêng và môn tiếng Việt nói chung.
I. MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Như chúng ta đã biết, phân môn Luyện từ và câu là một trong những phân môn quan trọng trong dạy học tiếng Việt lớp 3 nói riêng và dạy học môn tiếng Việt bậc Tiểu học nói chung, nó góp phần giúp cho học sinh đạt được các mục tiêu như: Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. Ngoài ra còn cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản ban đầu về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản ban đầu về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Như cha ông ta đã nói: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Quả là vậy, ngữ pháp Việt Nam thật phức tạp. Ở cấp Tiểu học cũng đã không xem nhẹ vấn đề này. Chính vì thế ngay từ lớp 2, chương trình đã đưa vào phân môn Luyện từ và câu các dạng bài tập về dấu câu. Nói thì dễ nhưng khi dạy dạng bài tập này thấy không hề đơn giản. Trong thực tế, nhiều giáo viên còn lúng túng khi tổ chức cho học sinh hoạt động để tự phát hiện cách dùng các dấu câu. Phần lớn đều sa vào giảng giải hoặc mớm sẵn giải đáp cho học sinh nên dẫn đến chất lượng, hiệu quả chưa cao. Trong dạy học, khi dạy dạng bài tập “Đặt dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu văn cho sẵn” ở phân môn Luyện từ và câu có không ít giáo viên thường hay lúng túng, chưa tìm ra được lối đi cho đúng và phù hợp với đối tượng học sinh của từng khối lớp. Khi dạy thường áp đặt học sinh là phải làm thế này, thế kia dẫn đến học sinh làm đúng bài mà không hiểu vì sao mình làm đúng hoặc vì sao mình làm sai. Như vậy, khi làm dạng bài tập trên tưởng chừng như là đơn giản nhưng thực tế không đơn giản chút nào, bởi hầu như đa số giáo viên khi dạy chưa khái quát được thành từng dạng bài tập cụ thể để giúp học sinh vận dụng khi làm bài. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã chọn nội dung: Một vài kinh nghiệm dạy dạng bài tập “Đặt dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu văn cho sẵn.” ở phân môn Luyện từ và câu lớp 3 tại trường tiểu học Y Ngông để nghiên cứu và áp dụng vào giảng dạy. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu tâm lí lứa tuổi học sinh, đúc rút kinh nghiệm từ thực tế học sinh mình chủ nhiệm. Từ đó đề ra biện pháp dạy học hiệu quả nhất. Căn cứ vào lý do chọn đề tài và qua quá trình thực tế giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy cần phải có biện pháp dạy dạng bài tập “Đặt dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu văn cho sẵn.” II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1.Cơ sở lí luận của vấn đề Dạy học phân môn Luyện từ và câu ở cấp Tiểu học nhằm giúp học sinh có những cơ sở ban đầu về các mẫu câu, kiểu câu, các loại dấu câu và đặc biệt là vốn từ của các em được mở rộng. Các em có kỹ năng dùng từ và đặt câu đúng. Dạy học phân môn Luyện từ và câu theo chương trình hiện hành khác với phân môn Từ ngữ - Ngữ pháp theo chương trình cải cách giáo dục trước đây. Nghĩa là học sinh chủ yếu được luyện tập thực hành mà không mấy chú trọng vào phần lý thuyết. Nếu dạy phân môn Luyện từ và câu mà nặng về phần lý thuyết là chưa đạt được yêu cầu của bài dạy. Chính vì vậy, những ngữ liệu mà chương trình đưa ra trong mỗi bài dạy gần gũi, sát thực với học sinh. Thông qua các ngữ liệu, học sinh nắm được các mẫu câu, kiểu câu, dấu câu và mở rộng được vốn từ. Ở chương trình lớp 2, lớp 3 học sinh chưa được học khái niệm câu có nhiều chủ ngữ, vị ngữ hay câu có trạng ngữ như lớp 4, lớp 5 mà các em chỉ được biết: Nếu câu có nhiều chủ ngữ thì được hiểu là trong câu có các bộ phận cùng trả lời cho một câu hỏi Ai? Còn nếu câu có nhiều vị ngữ thì các em được hiểu là trong câu có các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Là gì? Làm gì? hay Thế nào? Còn câu có bộ phận Trạng ngữ thì các em được hiểu là trong câu có bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? Khi nào? hoặc Vì sao? Vậy trong câu có các bộ phận cùng trả lời cho một câu hỏi Ai (con gì, cái gì)? Là gì? Làm gì? Thế nào? hoặc trong câu có bộ phận trả lời cho câu Ở đâu? Khi nào? hoặc Vì sao? chúng cần có dấu hiệu gì để cho học sinh nhận dạng đúng khi làm bài tập. Muốn vậy giáo viên phải giúp học sinh thành thạo và làm tốt các bài tập dạng “Điền dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu văn cho sẵn” mà trước đó sách giáo khoa hay sách giáo viên không hề cung cấp một cái gì về lý thuyết cả. Để làm được điều này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức, phương pháp và khái quát được thành từng dạng bài tập cho học sinh lớp 2, lớp 3 thì chắc chắn lên lớp trên các em sẽ học tốt phân môn Luyện từ và câu nói riêng và môn tiếng Việt nói chung. 2. Thực trạng vấn đề Chương trình lớp 3 thì kiến thức không nặng như chương trình lớp 4, lớp 5. Cái khó ở đây không phải là kiến thức mà là phương pháp truyền thụ để cho học sinh hiểu nội dung của vấn đề. Học sinh lớp 3, tất cả các khái niệm chưa được định nghĩa cụ thể như lớp 4 – 5. Trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3, các nội dung để dạy cho học sinh đều phải trên phương diện cụ thể chứ chưa hình thành cho học sinh khái niệm hoặc quy tắc cụ thể nào cả. Chẳng hạn: Khi dạy học sinh dạng bài tập: “Đặt dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu văn cho sẵn”. Sách giáo khoa chỉ đưa ra cụ thể một bài tập chứ không đưa ra lý thuyết trước, học sinh chỉ việc làm bài tập. Nếu giáo viên không biết cách khai thác và khắc sâu thì chắc chắn học sinh sẽ không hiểu nội dung bài tập và sẽ không ghi nhớ được lâu. Mặt khác, qua thăm lớp dự giờ của đồng nghiệp cùng khối, tôi thấy hầu như đa số giáo viên khi dạy dạng bài tập này chưa làm rõ được nội dung vấn đề của bài dạy đưa ra. Giáo viên cũng chỉ mới dừng lại một cách mập mờ, chung chung; chưa khái quát được thành dạng bài cụ thể. Bởi lý do giáo viên còn có nhiều hạn chế về kiến thức dấu câu hoặc còn nhiều hạn chế về kiến thức của phân môn Luyện từ và câu. Đặc biệt khi chữa bài cho học sinh, giáo viên chưa làm rõ được vì sao bài của học sinh làm đúng hoặc vì sao bài của học sinh làm sai. Để có biện pháp dạy HS nắm được cách đặt dấu phẩy trong câu hiệu quả, ở học kì I năm học 2017- 2018 tôi đã tiến hành khảo sát 28 học sinh lớp 3A trường tiểu học Y Ngông và cho kết quả đạt được như sau: Số HS dự khảo sát 28 Nắm vững và vận dụng tốt kiến thức Nắm và vận dụng được kiến thức Nắm chưa vững và vận dụng kiến thức còn lúng túng Học kì I Số lượng (em) Tỉ lệ % Số lượng (em) Tỉ lệ % Số lượng (em) Tỉ lệ % 03 10,7 20 71,4 05 17,9 Nhìn vào kết quả khảo sát cho thấy chất lượng HS chưa đồng đều, GV cần phải phân loại đối tượng HS để dạy học đạt hiệu quả cao hơn. 3. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Dạng bài tập “Đặt dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu văn cho sẵn” ở phân môn Luyện từ và câu lớp 3 chưa được phân thành dạng cụ thể mà chỉ được dạy đan xen với các nội dung khác. Vì thế, khi học, các em thường khó nắm được nội dung từng dạng bài cụ thể. Do vậy, khi dạy giáo viên cần biết phân thành từng dạng bài cụ thể để giúp học sinh dễ dàng thực hành khi làm bài. Ví dụ: * Các dạng bài tập “Đặt dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu văn cho sẵn” ở phân môn Luyện từ và câu lớp 3 theo chương trình. Dạng 1: Dấu phẩy ngăn giữa các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Ai (con gì, cái gì)?; Là gì ? Làm gì ? Thế nào ? hoặc dấu phẩy ngăn cách giữa các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Ở đâu ? Khi nào ? (nếu có trong câu) trong 3 mẫu câu: Ai là gì ?; Ai làm gì ?; Ai thế nào ? Dạng 2: Dấu phẩy ngăn cách giữa bộ phận trả lời cho các câu hỏi: Ở đâu?; Khi nào ? với bộ các bộ phận đứng sau trong câu. Dạng 3: Dấu phẩy ngăn cách giữa bộ phận trả lới cho câu hỏi: Vì sao? Tại sao ? với các bộ phận đứng sau trong câu. * Nội dung và cách thực hiện các dạng bài tập trên Nội dung dạng bài tập “Điền dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu văn, đoạn văn” được dạy ngay từ lớp 2, lên lớp 3 dạng bài tập này tiếp tục được dạy nhiều trong phân môn Luyện từ và câu (chiếm khoảng 1/6 lượng kiến thức của phân môn). Nội dung này được dạy đan xen với các nội dung khác trong cùng một tiết học chứ không tách ra dạy riêng một tiết. Bởi vậy khi dạy giáo viên phải biết phân ra các dạng để học sinh nhớ và làm bài tốt. Điều đó được thể hiện: Dạng 1: Dấu phẩy ngăn giữa các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Ai (con gì, cái gì)?; Là gì ? Làm gì ? Thế nào ? hoặc dấu phẩy ngăn cách giữa các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Ở đâu ? Khi nào ? (nếu có trong câu) trong 3 mẫu câu: Ai là gì ?; Ai làm gì ?; Ai thế nào ? Ở dạng bài tập này nếu như đối tượng lớp 4- 5 thì giáo viên có thể nói với HS một cách rất dễ dàng bởi HS lớp này đã được học thuật ngữ “đồng chức”. “Đồng chức” tức cùng giữ một chức vụ trong câu như cùng giữ chức vụ chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ. Còn đối với HS lớp 2- 3 thì thuật ngữ này chưa được nói với học sinh. Khi dạy dạng bài tập này đối với HS lớp 2- 3 GV chỉ được nói “Dấu phẩy ngăn giữa các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Ai (con gì, cái gì)?; Là gì ?; Làm gì ?; Thế nào ? hoặc Ở đâu ? Khi nào ? trong 3 mẫu câu: Ai là gì?; Ai làm gì ?; Ai thế nào ?”. Đây là nền tảng để các em lên các lớp 4- 5 học dạng câu có nhiều chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ. Vậy để lên lớp 4- 5 các em học tốt dạng bài tập: Xác định chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ trong mỗi câu văn cho sẵn thì ngay từ lớp 2, lớp 3 giáo viên phải hướng dẫn các em cách xác định bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai (con gì, cái gì)? và bộ phận trả lời cho câu hỏi: Là gì ? Làm gì ? Thế nào? hoặc bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? Khi nào ? Sau đây là các bước để dạy tốt dạng bài tập trên: Bước 1: Đọc kỹ yêu cầu bài tập và đọc kỹ các câu văn, đoạn văn đề bài cho sẵn. Bước 2: Xác định các câu văn đó thuộc mẫu câu nào đã học. Bước 3: Trong mỗi câu, cần tìm những bộ phận nào cùng trả lời cho câu hỏi: Ai (con gì, cái gì)? hoặc Là gì ? Làm gì ? Thế nào ? hoặc các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Ở đâu? Khi nào? (nếu có trong câu). Bước 4: Dùng dấu phẩy để ngăn cách giữa các bộ phận cùng trả lời cho một câu hỏi trên. Bước 5: Đọc lại các câu văn vừa điền dấu phẩy và xem lại các dấu phẩy mình đặt đã đúng vị trí chưa. Giáo viên cần lưu ý học sinh - Đọc đúng các câu văn có dấu phẩy. - Các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi: Ai (con gì, cái gì) ? thường là những từ chỉ sự vật, còn các bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì ? Làm gì ? Thế nào ? thường là các từ chỉ hoạt động, trạng thái, đặc điểm. Ví dụ minh họa: Ví dụ 1: Chép các câu sau vào vở, thêm dấu phẩy vào chỗ thích hợp a. Bạn Hà bạn Nga bạn Lan đều là học sinh lớp 3A. b. Các bạn học sinh lớp 3C đều ngoan học giỏi và siêng năng. c. Ông em đang tưới nước bắt sâu và nhổ cỏ cho cây. d. Trên cánh đồng bà con nông dân đang gặt lúa. Thực tế trong giảng dạy những năm trước cho thấy, khi học sinh làm bài tập này hầu như các em đều làm đúng, chỉ trừ một vài em còn gặp khó khăn trong lớp là không làm được. Nhận xét bài xong, đến lúc chữa bài tôi hỏi: Vì sao em điền được dấu phẩy vào chỗ đó? thì hầu như không em nào trả lời được. Tôi biết vì sao các em làm đúng bài mà không hiểu lý do mình làm đúng, có 2 lý do chính là: - Có thể các em được bố mẹ hoặc anh chị hướng dẫn trước ở nhà hoặc nhìn vào sách giải trước ở nhà rồi đến lớp chỉ chép vào vở. - Do các em điền dấu phẩy theo cảm tính vậy thôi. Còn những em làm sai bài tập này thì sai chủ yếu ở chỗ: a. Bạn Hà, bạn Nga, bạn Lan, đều là học sinh lớp 3A. b. Các bạn học sinh lớp 3C đều ngoan, học giỏi, và siêng năng. Rõ ràng ở hai câu trên học sinh đều sai ở chỗ là điền thừa dấu phẩy ở chỗ không cần thiết và điền như vậy dẫn đến sai cả câu. Ở câu a điền thừa dấu phẩy thứ 3 còn ở câu b thì thừa dấu phẩy thứ 2, giáo viên cần lưu ý cho học sinh trong câu trước từ “và” ta không cần dùng dấu phẩy bởi vì từ “và” là từ nối giữa hai bộ phận trong câu. Vậy để giúp các em làm tốt và nhớ lâu dạng bài tập trên, giáo viên cần hướng dẫn như sau: Bước 1: Giáo viên ghi bài tập lên bảng, học sinh đọc 2 lần các câu văn đã cho. Bước 2: Giáo viên nêu câu hỏi dẫn dắt: GV hỏi: Các câu trên thuộc mẫu câu gì? HS: Câu a thuộc mẫu câu Ai là gì ?; Câu b thuộc mẫu câu Ai thế nào ? Câu c thuộc mẫu câu Ai làm gì ?; Câu d thuộc mẫu câu Ai làm gì ? Bước 3: GV hướng dẫn câu a: + Trong câu a, những bộ phận nào cùng trả lời cho câu hỏi Ai ? bộ phận nào trả lời cho câu hỏi Là gì ?(Bạn Hà, bạn Nga, bạn Lan / đều là học sinh lớp 3A.) Ai ? Là gì ? + Câu trên có mấy bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Ai ? (3 bộ phận) + Vậy ở câu trên ta đặt dấu phẩy vào những chỗ nào cho thích hợp ? (Ta đặt dấu phẩy vào chỗ ngăn cách các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Ai ?) Bước 4: Hãy đặt dấu phẩy vào chỗ thích hợp. Bạn Hà, bạn Nga, bạn Lan đều là học sinh lớp 3A. Bước 5: Đọc lại câu văn vừa điền dấu phẩy. Lưu ý: Ta không thể đặt dấu phẩy vào sau từ “bạn Lan” nếu như vậy thì sẽ sai vì dấu phẩy đặt ở chỗ đó là ngăn cách giữa hai bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai? và bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì? mà giữa 2 bộ phận đó thì không thể ngăn cách với nhau bằng dấu phẩy. Tương tự như câu a giáo viên yêu cầu các em thực hiện câu b, c và trình bày nhưng câu b,c thì dùng dấu phẩy để ngăn cách các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Là gì? Làm gì? hoặc các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Ở đâu? Học sinh hoàn chỉnh bài tập a. Bạn Hà, bạn Nga, bạn Lan đều là học sinh lớp 3A. b. Các bạn học sinh lớp 3B đều ngoan, học tốt và siêng năng. c. Ông em đang tưới nước, bắt sâu và nhổ cỏ cho cây. d. Trên cánh đồng, bà con nông dân đang gặt lúa. Sau khi học sinh hoàn thành bài tập này thì giáo viên đưa ra 5 bước để thực hiện dạng bài tập trên cho các em ghi vào vở. Làm như vậy học sinh sẽ nhớ bài lâu và nhận dạng được khi gặp bài tập tương tự. Sau khi có 5 bước làm cho dạng bài tập này, giáo viên có thể đưa ra công thức chung sau để học sinh áp dụng khi làm bài, đó là: Ai (con gì, cái gì)? là gì?,.; Ai (con gì, cái gì)? làm gì?,.; Ai (con gì, cái gì)? thế nào?; Ở đâu? ai (con gì, cái gì)? là gì (làm gì, thế nào)?; Khi nào? ai (con gì, cái gì)? là gì (làm gì, thế nào)? Ngoài những bài tập trên, trong các giờ ôn tập để phát huy năng khiếu văn cho học sinh, tôi đưa ra một số bài tập có nâng cao hơn như: Viết một đoạn văn ngắn (5- 7 câu) kể về một người thân của em, trong đó có ít nhất 2 câu có sử dụng dấu phẩy mà mỗi câu có ít nhất 2 dấu phẩy để ngăn cách các bộ phận cùng trả lời cho câu hỏi Ai? Là gì? Làm gì? Thế nào? GV: Vậy dấu phẩy còn dùng khi ta liệt kê sự vật, sự việc. Dạng 2: Dấu phẩy ngăn cách giữa bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? Khi nào? với bộ phận đứng sau trong câu. Với dạng bài tập này được dạy ở tuần 20 và tuần 22 trong chương trình phân môn Luyện từ và câu lớp 3. Một thực tế cho thấy khi dạy dạng bài tập này, về cơ bản là học sinh làm được nhưng chưa nắm chắc và hiểu bản chất của nó. Bởi các em chưa hiểu rõ được bản chất của bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? hoặc bộ phận trả lời cho câu hỏi Khi nào? trong câu. Với dạng bài tập này nếu ở dạng đơn giản thì các em làm ít sai nhưng với những trường hợp phức tạp thì các em thường hay làm nhầm hoặc làm sai vì các em không biết ngắt và tách bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? hoặc bộ phận trả lời cho câu hỏi Khi nào? trong câu. Mặt khác ở lớp 3 các em chưa được học khái niệm “Trạng ngữ chỉ nơi chốn” hoặc “Trạng ngữ chỉ thời gian” trong câu. Ở lớp 4- 5 trong câu hai bộ phận này được ngăn cách với bộ phận đứng sau trong câu bằng dấu phẩy. Ví dụ: * Dạng đơn giản Điền dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong các câu sau: - Trên cành cây chim hót líu lo. - Trong lớp các bạn đang học bài. - Ngày mai lớp ta đi lao động. * Dạng phức tạp Điền dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong các câu sau: - Trên cánh rừng mới trồng chim chóc lại bay về ríu rít. - Xa xa trên cánh rừng mới trồng chim chóc lại bay về hót ríu rít. - Kỳ nghỉ hè năm nay em được bố mẹ cho đi tham quan ở Nha Trang. Ở 2 ví dụ trên thì dạng đơn giản học sinh làm bài tốt nhưng dạng phức tạp thì học sinh làm hay sai và thường sai ở chỗ: Không xác định đươc hết bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? hoặc bộ phận trả lời cho câu hỏi Khi nào? VD: Ở câu a học sinh hay sai ở chỗ: Trên cánh rừng, mới trồng chim chóc lại bay về ríu rít. HS xác định không hết bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? Ở câu a HS phải làm như thế này mới đúng: Trên cánh rừng mới trồng, chim chóc lại bay về ríu rít. Vậy, để giúp học sinh làm tốt dạng bài tập này giáo viên cần đưa ra các bước sau: Bước 1: Đọc nội dung bài tập, xác định yêu cầu bài tập. Đọc kỹ các câu văn hoặc đoan văn cho sẵn. Bước 2: Xem các câu đó thuộc mẫu câu nào, xác định bộ trả lời cho câu hỏi Ai (con gì, cái gì)? bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì? Làm gì? Thế nào? Bước 3: Bộ phận còn lại trả lời cho câu hỏi nào trong câu? Bước 4: Dùng dấu phẩy để ngăn cách bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? bộ phận trả lời cho câu hỏi Khi nào? với bộ phận còn lại trong câu. Bước 5: Đọc lại các câu văn, đoạn văn vừa điền. Lưu ý: Bộ phận trả lời cho câu hỏi Khi nào? dùng để chỉ thời gian, bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? dùng để chỉ nơi chốn. Trong đoạn văn có thể có những câu có bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? hoặc bộ phận trả lời cho câu hỏi Khi nào? đứng ở cuối câu thì ta không thể dùng dấu phẩy để ngăn cách chúng với bộ phận khác đứng trước trong câu. Giáo viên có thể giải thích thêm cho học sinh năng khiếu hiểu: Bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? câu hỏi Khi nào? đứng ở đầu câu dùng để bổ sung thêm ý nghĩa cho “câu”; còn nếu bộ phận đó đứng sau thì bổ sung thêm ý nghĩa cho “từ” trong câu mà bộ phận bổ sung thêm ý nghĩa cho “từ” thì không thể dùng dấu phẩy để ngăn cách chúng với bộ phận khác trong câu. Ví dụ: - Hai bạn đang bơi giữa hồ. - Giữa hồ, hai bạn đang bơi. Ở hai câu trên, câu thứ nhất, bộ phận “giữa hồ” bổ sung thêm ý nghĩa cho từ chỉ hoạt động “bơi” Câu thứ hai, bộ phận “giữa hồ” bổ sung thêm ý nghĩa cho câu và là bộ phận trả lời cho câu hỏi: Ở đâu?. Tóm lại: Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết bộ phận trả lời cho câu hỏi Khi nào? câu hỏi Ở đâu? phải được ngăn cách với bộ phận khác đứng sau nó bằng dấu phẩy (lên lớp 4- 5 ta gọi hai bộ phận trên là trạng ngữ chỉ nơi chốn và trạng nhữ chỉ thời gian, mà bộ phận trạng ngữ thì thường đứng đầu câu). Đối với dạng bài tập này, sau khi giáo viên khái quát cho học sinh các bước làm rồi thì giáo viên có thể đưa ra một công thức chung để các em dễ nhớ và nhớ được lâu hơn như sau: Ở đâu, ai ( con gì, cái gì)? là gì (làm gì, thế nào)?; Khi nào, ai (con gì, cái gì)? là gì (làm gì, thế nào)?(Phía sau bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? Khi nào? là các mẫu câu đã học). Lưu ý: Trong câu có hai bộ phận cùng trả lời cho một câu hỏi Ở đâu? Khi nào trở lên thì ta phải dùng thêm dấu phẩy để ngăn cách chúng như đã nêu ở dạng thứ nhất. Ví dụ: Em đặt dấu phẩy vào chỗ nào trong mỗi câu sau: a. Ở nhà em thường giúp bà xâu kim. b. Trong lớp Liên luôn chăm chủ nghe giảng. c. Hai bên bờ sông những bãi ngô bắt đầu xanh tốt. d. Trong lớp cô giáo đang giảng bài cho học sinh. e. Ngày mai lớp 3B đi lao động trồng cây. Để các em làm tốt bài tập trên, giáo viên cần hướng dẫn: Bước 1: Giáo viên ghi đề lên bảng, một em đọc lại đề, xác định yêu cầu của đề bài. Bước 2: Học sinh đọc 2 lần các câu văn đã cho (2 em đọc). Bước 3: Giáo viên nêu các câu hỏi: + Các câu trên thuộc mẫu câu nào các em đã học? HS: Câu a, b, c thuộc mẫu câu: Ai thế nào? Câu d, e thuộc mẫu câu: Ai làm gì? + Hãy xác định bộ phận trả lời cho câu hỏi: Ai (con gì, cái gì)? bộ phận trả lời cho câu hỏi: Thế nào? Làm gì? HS trả lời: a. Ở nhà em /thường giúp bà xâu kim. Ai ? Làm gì ? b. Trong lớp Liên /luôn chăm chủ nghe giảng. Ai ? thế nào ? c. Hai bên bờ sông những bãi ngô / bắt đầu xanh tốt. Cái gì ? thế nào ? d. Trong lớp cô giáo /đang giảng bài cho học sinh. Ai ? làm gì ? e. Ngày mai lớp 3B / đi lao động trồng cây. Ai ? làm gì ? - GV nêu câu hỏi chốt lại vấn đề: + Vậy những bộ phận câu đứng trước các bộ phận ta vừa xác định trong mỗi câu trên trả lời cho câu hỏi nào? (câu hỏi Ở đâu? Khi nào?) + Trong câu, bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? Khi nào? được ngăn cách với bộ phận đứng sau nó bởi dấu gì? (dấu phẩy). Bước 4: Học sinh làm bài vào vở. Bước 5: Đọc lại các câu vừa điền. Sau khi nhận xét bài cho h
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_day_dang_bai_tap_dat_dau_phay_vao_cho.doc