Sáng kiến kinh nghiệm Cách thể hiện Thi trung hữu họa trong giảng dạy bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên (Chương trình Ngữ văn Lớp 8)

Sáng kiến kinh nghiệm Cách thể hiện Thi trung hữu họa trong giảng dạy bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên (Chương trình Ngữ văn Lớp 8)

Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ sở khi tiếp nhận tác phẩm văn học đã có khả năng liên tưởng, tưởng tượng, khả năng ghi nhớ, tái hiện hình tượng văn học và khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ những suy nghĩ cảm nhận của mình; Tuy nhiên các em cũng rất dẽ hứng thú tích cực và cũng rất dễ chán nản trong hoạt động học. Chính vì lẽ đó rất cần những biện pháp hỗ trợ, kích thích của người giáo viên đối với học sinh trong một giờ dạy thì năng lực và hứng thú của cá nhân học sinh trong học, đọc văn mới vững bền được.

Xuất phát từ việc dạy học văn vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Người giáo viên với vai trò là người tổ chức hướng dẫn, là người mở cho học sinh con đường tự sáng tạo, chủ động tiếp nhận và cảm thụ văn học, người giáo viên phải huy động linh hoạt tài năng, nghệ thuật sư phạm của mình để các hoạt động học tập văn học của họcsinh đạt được hiệu quả caonhất.

Để có một giờ dạy tốt chính bản thân giáo viên cũng phải chủ động và sáng tạo mới có thể khơi dây được hoạt động tích cực của học sinh trong lớp, mới gây được hứng thú cho học sinh. Tôi nhận thấy dạy học tác phẩm văn học cũng như hướng dẫn học sinh làm một món ăn. Và không phải lúc nào cũng chỉ là phương thức làm một món. Thực đơn cũng cần phải có sự thay đổi khác lạ nhưng mục đích cuối cùng vẫn là cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể. Những món ăn ngon mà lại được trình bày đẹp, ấn tượng bào giờ cũng kích thích được vị giác người ăn, cũng gây được sự chú ý và hứng thú.

Trở lại việc dạy học văn, tôi nhận thấy mỗi tác phẩm được chọn đưa vào chương trình là một sáng tạo của nhà văn, mỗi học sinh lại là một chủ thể tiếp nhận cá biệt. Mà văn học lại là một loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Văn học thông qua chất liệu đặc biệt là ngôn ngữ. Ngôn ngữ

trong tác phẩm văn học có khả năng tái hiện một cách cụ thể, sinh động, gợi cảm hiện thực khách quan. Ví như học sinh có thể cảm nhận được một buổi sớm mai đẹp đẽ, trong lành ở thôn quê chỉ bằng một đoạn thơ:

“ Mặt trời càng lên tỏ Bông lúa chín thêm vàng Sương treo đầu ngọn cỏ Sương lại càng long lanh Bay vút tận trời xanh Chiền chiện cao tiếng hót”.

docx 33 trang Mai Loan 21/12/2023 1781
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Cách thể hiện Thi trung hữu họa trong giảng dạy bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên (Chương trình Ngữ văn Lớp 8)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần một
ĐẶT VẤN ĐỀ
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ sở khi tiếp nhận tác phẩm văn học đã có khả năng liên tưởng, tưởng tượng, khả năng ghi nhớ, tái hiện hình tượng văn học và khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ những suy nghĩ cảm nhận của mình; Tuy nhiên các em cũng rất dẽ hứng thú tích cực và cũng rất dễ chán nản trong hoạt động học. Chính vì lẽ đó rất cần những biện pháp hỗ trợ, kích thích của người giáo viên đối với học sinh trong một giờ dạy thì năng lực và hứng thú của cá nhân học sinh trong học, đọc văn mới vững bền được.
Xuất phát từ việc dạy học văn vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Người giáo viên với vai trò là người tổ chức hướng dẫn, là người mở cho học sinh con đường tự sáng tạo, chủ động tiếp nhận và cảm thụ văn học, người giáo viên phải huy động linh hoạt tài năng, nghệ thuật sư phạm của mình để các hoạt động học tập văn học của học sinh đạt được hiệu quả cao nhất.
Để có một giờ dạy tốt chính bản thân giáo viên cũng phải chủ động và sáng tạo mới có thể khơi dây được hoạt động tích cực của học sinh trong lớp, mới gây được hứng thú cho học sinh. Tôi nhận thấy dạy học tác phẩm văn học cũng như hướng dẫn học sinh làm một món ăn. Và không phải lúc nào cũng chỉ là phương thức làm một món. Thực đơn cũng cần phải có sự thay đổi khác lạ nhưng mục đích cuối cùng vẫn là cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể. Những món ăn ngon mà lại được trình bày đẹp, ấn tượng bào giờ cũng kích thích được vị giác người ăn, cũng gây được sự chú ý và hứng thú.
Trở lại việc dạy học văn, tôi nhận thấy mỗi tác phẩm được chọn đưa vào chương trình là một sáng tạo của nhà văn, mỗi học sinh lại là một chủ thể tiếp nhận cá biệt. Mà văn học lại là một loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Văn học thông qua chất liệu đặc biệt là ngôn ngữ. Ngôn ngữ
trong tác phẩm văn học có khả năng tái hiện một cách cụ thể, sinh động, gợi cảm hiện thực khách quan. Ví như học sinh có thể cảm nhận được một buổi sớm mai đẹp đẽ, trong lành ở thôn quê chỉ bằng một đoạn thơ:
“ Mặt trời càng lên tỏ Bông lúa chín thêm vàng Sương treo đầu ngọn cỏ Sương lại càng long lanh Bay vút tận trời xanh Chiền chiện cao tiếng hót”.
Một tác phẩm thơ ca có tính chất tạo hình là 1 tác phẩm đem đến cho người đọc những bức tranh sinh động về cuộc sống và hiện thực thực tế khiến người ta có thể cảm nhận được. Trong văn học truyền thống của ta có rất nhiều bài thơ hay, giàu sức tạo hình. Có nhiều bài thơ, đoạn thơ khi đọc lên, người đọc có cảm tưởng như đang đứng trước 1 bức họa. Chẳng hạn đoạn mở đầu bài thơ “Qua đèo Ngang” của bà Huyện Thanh Quan :
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá, đá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Đoạn thơ giống như bức tranh thủy mạc, rất hữu tình và rất nên thơ. Nó không lòe loẹt với nhiều màu sắc của những từ hoa mĩ mà giản dị như cảnh, như người. Cảnh ở đây được tả rất thực nhưng rất thi vị: nhiều đá, nhiều cây, nhiều hoa, nhiều lá- một khung cảnh của thiên nhiên, núi rừng đang đua nhau thi sắc. Đọc câu thơ này người đọc cảm thấy tâm trạng lâng lâng thì bỗng nhiên cmr xúc lại trải rộng và lắng xuống với hình ảnh vài chú tiều, vài ngôi nhà chợ lác đác bên sông. Cảnh vật được miêu tả vừa đẹp lại vừa buồn , cái buồn mênh mông xa vắng gợi lòng chạnh nhớ về dĩ vãng xa xưa.
Trong thực tiễn thi ca những bài thơ hay giàu chất tạo hình nhiều khi gần giống như là bức họa hoàn chỉnh. Người ta nói: “ Thi trung hữu họa” ( Trong thơ có họa) chính vì đặc trưng của văn học như vậy nên có những thi phẩm,
người họa sĩ có thể minh họa bằng một bức tranh cụ thể hoặc một vài đường nét tạo hình, tạo không gian dựa trên nội dung tác phẩm đó. Tôi thấy “ Ông Đồ” của Vũ Đình Liên là 1 thi phẩm như thế!?
Đặc biệt hơn, Thơ tác động đến người đọc vừa bằng sự nhận thức cuộc sống vừa bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm xúc suy nghĩ cụ thể, vừa gián tiếp qua liên tưởng, tưởng tượng phong phú, vừa theo những mạch cảm nghĩ và đặc biệt là bằng sự rụng động của ngôn từ giàu hình ảnh và nhạc điệu.
Để tạo sự khác lạ, sinh động cho bài dạy và cũng để khắc sâu nét đặc trưng của loại thể văn học, người giáo viên có thể đưa ra tranh vẽ minh họa, hát một bài hát mà bài thơ đang dạy được phổ nhạc, đóng một đoạn kịch  nhằm kích thích thị giác, thính giác và các giác quan của học sinh, từ đó gây hứng thú cho học sinh đối với bộ môn.
Nhận thấy bài thơ “ Ông Đồ” của Vũ Đình Liên (Văn 8) có thể phân ra cảnh cụ thể theo bố cục của bài thơ. Bài thơ gợi ra cảm xúc, cảm xúc được vận động trên nền cảnh cơ bản mà có thể tái hiện bằng tranh. Với những lý do trình bày trên tôi mạnh dạn thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “ Cách thể hiện Thi trung hữu họa trong giảng dạy bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên ( Chương trình Ngữ văn lớp 8).
MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI:
Nhà trường phổ thông dạy cho học sinh kiến thức về các bộ môn từ khoa học xã hội đến khoa học tự nhiên không ngoài mục đích phát triển toàn diện học sinh. Đặc biệt hiện nay với phương pháp giảng dạy mới theo hướng “tích hợp” (hiểu theo nghĩa rộng là tích hợp các kiến thức của bộ môn này trong việc giảng dạy bộ môn kia) thì thiết nghĩ có lẽ đề tài này cũng là một sự đổi mới theo hướng “tích hợp” chăng? Dù sao cũng là suy nghĩ của riêng cá nhân tôi nên chắc chắn không tránh khỏi sự phiến diện và khiếm khuyết. Rất mong các đồng nghiệp chỉ bảo tôi để tôi hoàn thiện hơn đề tài này theo quan điểm tích hợp của chương trình sách giáo khoa.
Thực hiện đề tài này tôi không ngoài mục đích nâng cao chất lượng và làm phong phú thêm một giờ dạy học văn và gây hứng thú học cho học sinh, rèn kĩ năng tưởng tượng cho học sinh thông qua tranh vẽ - những bức họa minh họa cho thơ.
Mặt khác vần đề tôi đưa ra cũng phần nào giúp cho người giáo viên suy nghĩ thêm về việc đưa đồ dùng trực quan vào giờ dạy học Văn như thế nào để đạt hiệu quả nhất mà vẫn bảo đảm đặc trưng bộ môn và sự chủ động sáng tạo trong lĩnh hội của trò.
Theo yêu cầu của đổi mới về phương pháp dạy học trong đổi mới giáo dục phổ thông thì vai trò của giáo cụ, của phương tiện dạy học không phải là chứng minh kiến thức mà là cung cấp kiến thức cho học sinh. Đó cũng là mục tiêu của đề tài này.
LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Việc sử dụng kênh hình là rất cần thiết và quan trọng đối với việc dạy học của người giáo viên. Kênh hình là 1 phần của đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học. Nó có vị trí và tác dụng nhất định, nếu được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ thì hiệu quả sư phạm lại rất cao. Điều này không ai có thể phủ nhận.
Song, đối với các bộ môn khoa học như Toán, Lý, Sinh, Sử, Địa thì kênh hình bao giờ cũng rất rõ ràng, không thể thiếu, thậm chí có rất nhiều tác giả tác phẩm nói về vấn đề sử dụng tranh ảnh minh họa đồ dùng trực quan như thế nào trong từng bài dạy. Còn với riêng Văn học lại khác hẳn. Ngôn ngữ là một phương tiện biểu hiện hiện thực khách quan và biểu thị cả thế giới nội tâm mà người đọc chỉ có thể cảm nhận được chứ không thể thể hiện rõ ràng mạnh lạc và cụ thể bằng hành động hay tranh vẽ được. Nói như vậy không phải tôi đang tự phản biện lại chính mình mà tôi muốn nói tới cái khó khăn khi tôi thực hiện đề tài. Chính điều này khiến người giáo viên đứng trên bục giảng lười sáng tạo đồ dùng trực quan bởi vì từ xưa đến nay chưa có một tài liệu nào nói về việc dạy học Văn phải tạo và sử dụng tranh vẽ như thế nào trong một giờ dạy học Văn. Theo tôi thì hiệu quả của việc sử dụng tranh vẽ là do nhiều yếu tố quyết định nhưng chủ yếu là phương pháp sử dụng, kỹ năng và năng lực sư phạm của giáo
viên khi đặt học sinh vào tình huống có vấn đề để học sinh tự tri giác từ ngôn ngữ chuyển sang tri giác về hình ảnh và ngược lại.
Thực hiện đề tài này bản thân tôi vẫn còn nhiều trăn trở nên chỉ coi như đây là một ý kiến nhỏ đưa ra từ phương pháp giảng dạy của chính mình mong mọi người đón nhận và cho ý kiến. Tôi đã làm và rất muốn thể hiện ý tưởng nếu “Thi trung hữu họa” thì tại sao không thể giúp mỗi học sinh thể hiện cảm thụ của riêng mình, mỗi em một vẻ, phong phú, đa dạng giàu cảm xúc, tưởng tượng những hình ảnh khác nhau theo gợi mở và định hướng của người thầy giáo?!
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Với đề tài này tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi tác giả, tác phẩm thơ “ Ông Đồ”, những nét thực tế cuộc sống mà bài thơ phản ánh có thể tái hiện lai nội dung của bài thơ bằng tranh vẽ và những bài phê bình xung quanh bài thơ “ Ông Đồ” chứ không nghiên cứu cách vẽ tranh bằng những chất liệu nào.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đọc các tài liệu có liên quan và đề cập đến các vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là cách khai thác đồ dùng trực quan và tích hợp trong giảng dạy- một trong những đổi mới phát huy vai trò tích cực, chủ động của học sinh.
Đọc các tài liệu về thi pháp thơ, dự giờ văn của các đồng chí giáo viên ngữ văn, đặc biệt là cách họ sử dụng đồ dùng và khai thác tính hiệu quả của đồ dùng trong dạy học văn.
Nghiên cứu thực trạng học sinh
Phương pháp tiếp cận hệ thống thi pháp học
Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp để có thể rút ra kết luận tìm tòi phục vụ giảng dạy.
Phần hai
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A.KHẢO SÁT THỰC TẾ
ĐỐI TƯỢNG VÀ MÔI TRƯỜNG NGHIÊN CỨU:
Tôi được phân công giảng dạy môn văn 8 trong nhiều năm. Đề tài này tôi thực hiện từ năm 2000 cho đến nay. Cụ thể:
Năm học 2000 - 2001
Lớp dạy 8B, 8D, 8E – Trường THCS Đồng Quang, Huyện Quốc Oai.
Năm học 2001 – 2002
Lớp dạy 8B, 8E – Trường THCS Đồng Quang, Huyện Quốc Oai.
Năm học 2002 – 2003
Lớp dạy 8D, 8E – Trường THCS Thị Trấn, Huyện Quốc Oai.
Năm học 2004- 2005
Lớp dạy 8A, 8B – Trường THCS Kiều Phú, Huyện Quốc Oai.
Năm học 2005- 2006
Lớp dạy 8A, 8C – Trường THCS Kiều Phú, Huyện Quốc Oai.
Năm học 2010- 2011
Lớp dạy 8A, 8D – Trường THCS Thái Thịnh, Quận Đống Đa.
Đây là những lớp có sức học tương đương nhau nên rất dễ thực hiện trên một lớp và đối chiếu với lớp kia về kết quả.
Thuận lợi:
Ban giám hiệu các nhà trường mà tôi đã dạy rất sâu sát với các vấn đề chuyên môn.
Giáo viên trong trường hầu hết đều có trình độ Cao đẳng và Đại học có chuyên môn vững vàng, luôn thi đua dạy và học khá sôi nổi, có nhiều thành tích
trong giảng dạy, giáo dục học sinh. Đó là điều kiện thuận lợi giúp các giáo viên phấn đấu hết mình với công việc được giao.
Về phía tổ chuyên môn, thường xuyên tổ chức thao giảng, tổ chức những chuyên đề về những vấn đề bức xúc trong chuyên môn nên phần nào tổ đã giải quyết những vấn đề khó khăn mà trong quá trình dạy học giáo viên mắc phải.
Khó khăn:
Khi tôi tiến hành thực hiện đề tài này là lúc chương trình dạy là sách giáo khoa cũ ( chưa thay sách). Tôi cũng hi vọng rằng “ Ông Đồ” là tác phẩm Văn được chọn dạy trong chương trình thay sách lớp 8 các năm tới. Tinh thần đổi mới mà linh hồn là sự đổi mới phương pháp đã được tôi vận dụng ngay trong chương trình chưa thay sách. Đó là một sự đón đầu có ý nghĩ thiết thực mà phần nào tôi đã thu được. Sau đó là chương trình thay sách giáo khoa. Và thật may là bài thơ “ Ông đồ” mà tôi tâm đắc vẫn được chọn giảng dạy trong chương trình. Sau đó bùng nổ trào lưu hiện đại và tất yếu là việc đưa công nghệ thông tin vào trong giảng dạy nên kênh hình được phát huy tối đa – một bước đột phá mới trong công tác giảng dạy nói chung và trong dạy học văn nói riêng. Tôi không biết đề tài và những trăn trở của tôi có đến nỗi lạc hậu lắm không nhưng tôi vẫn thấy mình thu được những kết quả đầy khích lệ để tôi có thể tiến hành tiếp ý tưởng của mình và bổ sung dần theo yêu cầu đổi mới và hiện đại.
Một khó khăn nữa là không phải giáo viên nào cũng biết vẽ để thể hiện ý tưởng của mình. Trong trường số giáo viên họa có thể giúp đỡ ở đề tài này còn rất khó khăn hạn chế, và đặc biệt chưa có tiếng nói đồng điệu giữa hai phạm trù nghệ thuật – tạo hình và nghệ thuật văn chương.
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH QUA KHẢO SÁT
Về phía giáo viên:
Tôi có dự giờ của nhiều đồng nghiệp. Hầu hết khi dạy giáo viên chỉ đưa ra bức tranh về cuối tiết dạy nhằm gây ấn tượng cho học sinh về một nhân vật nào đó hoặc cho học sinh phát biểu cảm nghĩ và chủ yếu là giáo viên tỏ ra bị khiên cưỡng, bắt buộc cần có đồ dùng trực quan trong giờ dạy học với ý nghĩa là “đổi mới” và “có sử dụng đồ dùng” Mặc dù có sự đầu tư vào tranh vẽ, song sự khai
thác còn hạn chế lãng phí vì phần lớn giáo viên sợ thời gian không cho phép nên lờ quên bức tranh mình đưa ra hoặc có muốn khai thác tranh thì cũng bình được một vài câu rồi không biết nói gì nữa. Vai trò tranh vẽ không phải là phương tiện cung cấp kiến thức có lẽ nhiều giáo viên cũng nhận ra điều này nên hiện trạng phổ biến là:
Hầu hết các giờ dạy học Văn gần như không có giáo cụ trợ giúp ngoài ngôn ngữ nói và viết của thầy
Giáo viên luôn mặc cảm đây là môn không thể và không cần có giáo cụ. Ngôn ngữ nói và viết là duy nhất và vạn năng.
Hoặc nếu vẽ tranh chủ yếu cũng chỉ là gây hứng thú thẩm mĩ, cùng lắm là áp đặt, minh họa kiến thức một cách rời rạc và khiên cưỡng.
Về phía học sinh:
Học sinh tỏ ra lúng túng khi giáo viên đưa ra tranh vẽ bởi học sinh còn chưa định hình được bức tranh ứng với đoạn nào của bài hoặc không biết nên phát biểu cảm nghĩ thế nào.
Ví dụ như tôi đã dự 1 đồng chí dạy bài thơ Lượm, sau khi dạy xong cô đưa ra bức tranh vẽ một chú bé đội ca nô (hình ảnh Lượm) rất tươi đang đi trên cánh đồng lúa. Cô hỏi “Em nào có thể đọc đoạn thơ trong bài gắn với hình ảnh trên?” Một học sinh chú ý ngay tới tâm điểm của bức tranh là chú bé Lượm nên đọc đoạn đầu “ Chú bé loắt choắt – Cái xắc xinh xinh – Cái chân Nhảy trên đường vàng” thì cô bảo chưa chính xác. Bởi vì cô muôn lưu ý học sinh ở đoạn “ Lúa trổ đòng đòng – Ca nô chú bé – Nhấp nhô trên đồng”.
Học sinh rất chú ý đến đường nét của tranh minh họa, đã có sự bị cuốn hút, chú ý vào tranh, vào sự khác lạ với mọi ngày trong cách dạy của thầy và đặc biệt các em chú ý bức tranh đẹp hay xấu, nhân vật được họa sĩ vẽ ra sao và xì xào bàn bạc nhận xét về tranh.
Cũng có khi sự hào hứng của học sinh được khơi ra thì cô thầy gọi học sinh hoặc tự cô thuyết minh một vài câu rồi cất tranh đi, hoặc là hết giờ, làm học sinh bỗng cụt hứng.
Có khi học sinh không thấy gì vui mừng cả khi mà giáo viên đưa tranh ra minh họa ra vẽ giống hệt như tranh đã có sẵn trong sách giáo khoa nên có vẻ cô thầy ý thức “đổi mới” trong giờ học ấy thì lại hóa ra là không mới gì cả.
Kết luận thực trạng
Giáo viên lười đầu tư vào việc sáng tạo tranh vẽ. Một tác phẩm 1 dòng thơ 1 câu văn đâu phải chỉ sử dụng có một cảnh mà tạo ra liên tưởng về cảnh ở nhiều góc độ. Vậy người giáo viên còn lười suy nghĩ sáng tạo xem nên làm tranh vẽ nhân vật hay cảnh ở góc độ nào là hợp lý nhất, học sinh dễ cảm nhận nhất, không làm mất văn thơ ở đường nét của tranh.
Giáo viên thấy khó ở vấn đề là sợ rằng tạo tranh vẽ triệt đi mất ý thơ. Do vậy việc vẽ tranh không hề đơn giản chưa kể đến việc sử dụng tranh thế nào để hiệu quả phát huy được tư duy sáng tạo và cảm hứng cảm thụ tác phẩm thơ cho học sinh.
Thứ nữa là việc đầu tư “kinh phí” cho tranh vẽ là giáo viên phải tự túc, giáo viên muốn tranh vẽ phải thuê họa sĩ, phải nói ý tưởng khi đặt đơn với họ. Mà họa sĩ họ chỉ có tài thẩm cảnh chứ đâu chắc đã có tài thẩm văn chương, do đó nhiều lúc đi vẽ không ưng ý, giáo viên đành thôi không dùng vì cả 2 lý do này. Cứ dạy theo kiểu truyền thống đỡ rắc rối. Như vậy học sinh luôn được học theo một kiểu dễ gây sự nhàm chán, chán nản cho học sinh. So sánh sang các môn học khác ta thấy các em rất háo hức với giờ thực hành sinh học, với bản đồ lịch sử, với bản đồ địa lý. Còn môn Văn thì sao? Chẳng thấy thầy cô dùng tranh gì ngoài mấy sơ đồ ngữ pháp ghi vào tờ tôki làm bảng phụ cho nhanh. Do vậy việc sử dụng và sáng tạo tranh minh họa là hi hữu khi phải thao giảng chẳng hạn. Cho nên học sinh thường “lạ” vì động tác đưa tranh rất “mới mẻ’ của thầy, gây nên sự xì xào bàn tán. Kể cả giáo viên hát bài thơ được phổ nhạc – việc đơn giản nhất cũng ít được làm nên khi lần đầu tôi hát, tôi còn thấy học sinh ở dưới “cô, cô giáo hát hay quá” có khi giáo viên trở nên lúng túng vì xấu hổ. Nếu những cách này được sử dụng không phải thường xuyên nhưng cũng vài ba lần thì học sinh thoải mái không thấy lạ lẫm.
- Thử đặt vấn đề chúng ta luôn đổi mới bằng cách này hay cách khác “thêm gia vị” cho giờ dạy thường xuyên thì những tình trạng về phía học sinh sẽ không diễn ra như vậy.
Gần đây chúng ta tìm được giải pháp hữu hiệu là đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy, việc đưa tranh, đưa hình ảnh trở nên dễ dàng hơn. Thực tế đã cho thấy những trang giáo án vi tính, những bài powerpoin được thiết kế sinh động, hấp dẫn đã tạo được sự lôi cuốn khá mạnh mẽ đối với cả giáo viên với học sinh. Và thậm chí nó còn được đo cho tính hiệu quả của bài dạy. Tất nhiên giáo án điện tử có ưu thế riêng của nó, nó tận thu được rất nhiều nguồn tư liệu và truyền tải được dung lượng kiến thức khá đồ sộ. Tuy nhiên nhiều khi giáo viên đã quá lạm dụng tính hiệu quả của công nghệ thông tin trong khi bản thân nó cũng còn có một số vấn đề cần trao đổi: Cơ sở vật chất của hầu hết các nhà trường còn chưa cho phép. Một trường mới trang bị được 3 hoặc 4 máy chiếu nên không phải lúc nào người giáo viên cũng có thể sử dung máy chiếu được, chưa kể những lúc mất điện thì lại đành phải dạy bình thường như trước đây.Vì thế để đạt hiệu quả trong từng bài dạy, để phù hợp với điều kiện từng trường, chúng ta nên khai thác 1 cách hiệu quả những phương tiện đồ dùng trực quan khác. Những phương tiện truyền thống chiếm một vị trí khá khiêm tốn nhưng khi biết khai thác hợp lí nó sẽ tạo được hiệu quả cao trong việc dạy học. Với đề tài này tôi muốn nói tới việc khai thác ý tưởng thi trung hữu họa bằng cách đưa giáo cụ trực quan là tranh vẽ của giáo viên chuẩn bị.
B.BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
SỐ LƯỢNG, YÊU CẦU CỦA TRANH VẼ:
Dễ thấy bài thơ “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên chia làm 5 khổ. Nhà thơ đã dự cảm bước đi im lìm mà quyết liệt của thời gian. Hai đoạn thơ đầu (khổ 1 +2) tươi vui nhảy nhót với cái nền hoa đào nở của ngày tết, của mùa xuân với giấy đỏ, mực đen, với người qua lại tấp nập. Ba đoạn cuối (khổ 3,4,5) miêu tả những biến động của thời gian: Ông đồ vẫn ngồi đó, người thuê viết không còn (khổ 3) ông đồ ngồi đây không người nào biết (khổ 4) ông đồ không còn ở đây nữa (khổ 5) Riêng khổ 5 thể hiện rõ nhất, xúc động nhất tấm lòng nhà thơ. Do vậy tôi thấy ông đồ là biểu tượng của một thời gian cụ thể, xóa dần, xóa dần rồi mất hẳn. Sự ra đi của ông đồ, với nhà thơ có ý nghĩa sự ra đi của một thời xưa đẹp, một nền văn hóa đang đô thị hóa. Ở một phương diện nào đó thật dữ dằn và tàn nhẫn. Điều này được nhà thơ biểu đạt bằng ngôn từ thoạt đầu đầy âm thanh màu sắc tươi vui dần dần xa vắng nhạt nhòa mênh mông. Tôi quyết định vẽ 3 bức tranh tương ứng
Số lượng 5 tranh
Tranh 1:Tương ứng với 2 khổ thơ đầu:
Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Tranh 2: Tương ứng với 2 khổ tiếp theo:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay
Tranh 3,4: Tương ứng với 1 khổ còn lại:
Năm nay đào lại nở Chẳng thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ.
Tranh 5: Không tương ứng với khổ nào trong bài thơ, tôi muôn khắc sâu cho học sinh hiểu rõ hơn về hình ảnh và quan niệm về ông đồ tôi cho làm tranh ông đồ đang dạy học trò.
Tôi xin đưa ra đây 4 tranh tôi đã sử dụng trong giảng dạy.
Yêu cầu
TRANH 1
Tranh 1 thể hiện thời vàng son trọng vọng của ông đồ nên yêu cầu bức tranh phải màu mẻ rực rỡ hơn các tranh khác.
Tôi đã nhờ một đứa cháu có năng khiếu vẽ. Thật ngạc nhiên vì cô bé vẽ ông đồ mặc áo com lê và những người xung quanh người thì mặc tân thời, người thì quần âu sơ vin. Tôi đành vứt bỏ và đặt câu hỏi phải chăng học sinh không hiểu được thời đại đó.
Vậy tranh vẽ cần đảm bảo:
+Cách ăn mặc của nhân vật trong tranh phải đúng, thể hiện được nét văn hóa phương đông như áo dài, khăn gõ, guốc mộc, nón lá, nghiên mực bút lôngngười thuê viết phải ăn mặc tương tự, dân dã như áo thâm hoặc áo dài đời xưa không vuông vức kiểu cách, chiết eo hiện đại.
+ Ông đồ 

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_cach_the_hien_thi_trung_huu_hoa_trong.docx
  • pdfSKKN_Van_8_Phan_Van_Anh.pdf