Kinh nghiệm dạy học sinh cách tháo gỡ một số bài tập khó về Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5

Kinh nghiệm dạy học sinh cách tháo gỡ một số bài tập khó về Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5

“Từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị nhỏ nhất có thể thực hiện chức năng giao tiếp.Vai trò của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ quyết định tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học ” [1]

Hiện nay, dạy học Tiếng Việt nói chung và dạy học phân môn Luyện từ và câu nói riêng đã được đặc biệt quan tâm và đã đạt được kết quả khá khả quan. Tuy nhiên việc dạy học về phân môn Luyện từ và câu, nhất là về “Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như: có những giáo viên chưa chuyển tải hết kiến thức trong SGK đến cho học sinh, có giáo viên còn lúng túng khi hiểu và phân biệt các nghĩa của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, do vậy việc truyền thụ kiến thức cho học sinh, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học còn gặp nhiều khó khăn.Vốn từ của học sinh còn nghèo nàn, vốn ngôn ngữ Tiếng Việt còn hạn chế, nên khi gặp những dạng bài tập về chỉ ra và phân biệt các nghĩa của từ của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa các em rất lúng túng không giải quyết được.

 Xuất phát từ những lí do nêu trên nên tôi đã chọn “ Kinh nghiệm dạy học sinh cách tháo gỡ một số bài tập khó về “Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5 ” làm đề tài nghiên cứu trong quá trình dạy học của mình. Nếu khả thi thì đó là hành trang quan trọng giúp bản thân tôi dạy tốt phân môn Luyện từ và câu nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung đồng thời góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu ở tiểu học.

 

docx 21 trang thuychi01 6973
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kinh nghiệm dạy học sinh cách tháo gỡ một số bài tập khó về Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị nhỏ nhất có thể thực hiện chức năng giao tiếp.Vai trò của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ quyết định tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học ” [1]
Hiện nay, dạy học Tiếng Việt nói chung và dạy học phân môn Luyện từ và câu nói riêng đã được đặc biệt quan tâm và đã đạt được kết quả khá khả quan. Tuy nhiên việc dạy học về phân môn Luyện từ và câu, nhất là về “Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như: có những giáo viên chưa chuyển tải hết kiến thức trong SGK đến cho học sinh, có giáo viên còn lúng túng khi hiểu và phân biệt các nghĩa của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, do vậy việc truyền thụ kiến thức cho học sinh, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học còn gặp nhiều khó khăn.Vốn từ của học sinh còn nghèo nàn, vốn ngôn ngữ Tiếng Việt còn hạn chế, nên khi gặp những dạng bài tập về chỉ ra và phân biệt các nghĩa của từ của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa các em rất lúng túng không giải quyết được.
 	Xuất phát từ những lí do nêu trên nên tôi đã chọn “ Kinh nghiệm dạy học sinh cách tháo gỡ một số bài tập khó về “Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5 ” làm đề tài nghiên cứu trong quá trình dạy học của mình. Nếu khả thi thì đó là hành trang quan trọng giúp bản thân tôi dạy tốt phân môn Luyện từ và câu nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung đồng thời góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu ở tiểu học.
2. Mục đích nghiên cứu.
Giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn về phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Góp phần làm giàu thêm vốn từ cho học sinh ở Tiểu học. 
Giúp học sinh có năng lực sử dụng từ nhiều nghĩa từ đồng âm trong sinh sản văn bản bằng hình thức nói hoặc viết, để từ đó các em sử dụng được Tiếng Việt văn hóa làm công cụ giao tiếp tư duy.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Các biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa cho HS lớp 5.
4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận:
 Nghiên cứu các văn kiện, các công văn, văn bản hướng dẫn giảng dạy môn Tiếng Việt, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo.
4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Tìm hiểu, khảo sát, thu thập các dữ liệu thực tiễn có liên quan.
Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
	- Môn Tiếng Việt ở cấp tiểu học có mục tiêu là: “ Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, nghe, nói, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi ” . [2] Thông qua việc dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ thống..) và góp phần nâng cao phẩm chất tư duy, năng lực nhận thức: “ Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và tri thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp. Cung cấp cho học sinh các hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học Việt Nam và nước ngoài. Đồng thời bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. [2]
	- Dạy Tiếng Việt trong đó có phân môn Luyện từ và câu thông qua hoạt động giao tiếp nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Vậy để đạt được mục tiêu đề ra phân môn Luyện từ và câu có các nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ đặt câu của các em thông qua việc dạy nghĩa của từ, hệ thống hóa, tích cực hóa vốn từ và cung cấp một số kiến thức về từ và câu. Ngoài các nhiệm vụ chuyên biệt trên Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ rèn luyện tư duy và giáo dục thẩm mĩ cho học sinh: “ Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là hai hiện tượng đặc trưng về nghĩa của từ trong ngôn ngữ Tiếng Việt. Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa được hình thành theo quy luật tiết kiệm ngôn ngữ. Sự vật, hiện tượng trong tự nhiên thì nhiều mà từ ngữ thì có hạn”. [2] 
	Do vậy, con người phải sáng tạo trong cách gọi tên các sự vật, hiện tượng . Khi học về từ đồng âm mục tiêu đặt ra là học sinh phải nắm được từ đồng âm là các từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa; nhận ra các từ đồng âm trong các câu văn, thơ ở mức độ đơn giản, biết đặt câu phân biệt hai từ đồng âm; hiểu được biện pháp dùng từ đồng âm để chơi chữ; biết chơi chữ ở mức độ đơn giản. Khi học về từ nhiều nghĩa, yêu cầu đặt ra là học sinh hiểu được từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau; biết đặt câu phân biệt nghĩa của từ. Bước đầu biết phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong một số trường hợp đơn giản.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 
2.1. Một số khó khăn dạy nội dung về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5.
	- Qua quá trình giảng dạy ở lớp 5 nhiều năm về Tiếng Việt, đặc biệt phân môn Luyện từ và câu, nhất là dạng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bản thân tôi thường gặp một số khó khăn sau:
-Thời lượng dạy một bài Luyện từ và câu còn hạn chế, tư duy của các em còn chậm so với yêu cầu đề ra.
VD: ND bài: Từ đồng âm - SGK - TV5- tập1- trang 52 [3]
ND bài: Từ nhiều nghĩa - SGK-TV5- tập1- trang 73
- Đối với đối tượng HS miền núi, nội dung một số bài tập còn có yêu cầu quá cao với trình độ chung của cả lớp:
+ Các bài tập phân biệt nghĩa của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa là những dạng bài tập tương đối khó đối với HS lớp 5 vì các em không nắm được khái niệm của từ đồng âm, khái niệm của từ nhiều nghĩa để xác định được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. 
VD: Bài tập1: Luyện tập về từ nhiều nghĩa - SGK-TV5- tập1- trang 82 [3]
+ GV nhiều khi cũng còn lúng túng khi hiểu và phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, do vậy việc truyền thụ kiến thức cho HS còn gặp nhiều khó khăn. Trong thực tế cả giáo viên lẫn học sinh đang còn nhầm lẫn vì: Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức giống nhau, đọc giống nhau, viết giống nhau mà chỉ khác nhau về mặt ý nghĩa.
VD1: Đá (1) trong hòn đá và đá (2) trong đá bóng. [3]
- Xét về hình thức ngữ âm thì hoàn toàn giống nhau, xét về mặt ý nghĩa thì hoàn toàn khác nhau. Vì đá (1) là danh từ chỉ chất rắn có trong tự nhiên thường thành tảng, khối rất cứng, đá (2) là động từ chỉ hành động của người dùng chân hất mạnh vào vật nhằm đưa ra xa hoặc làm tổn thương. Đây là hai từ đồng âm.
VD2:Ăn (1) trong em đang ăn cơm và ăn (2) trong xe này ăn xăng lắm. [4] 
 - Xét về hình thức ngữ âm thì hoàn toàn giống nhau, xét về mặt ý nghĩa thì ăn (1) được dùng với nghĩa gốc, ăn (2) được dùng với nghĩa chuyển. Đây là từ nhiều nghĩa. + Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có dạng bài phối hợp cả hai kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học sinh rèn kĩ năng phân biệt.
+ Học sinh chưa phân biệt được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa.
2.2 Thực trạng dạy nội dung từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu ở đơn vị chúng tôi.
Thuận lợi: 
* Về đội ngũ giáo viên: Phần lớn giáo viên có năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm vững vàng, yêu nghề, mến trẻ, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, quan tâm đến các đối tượng học sinh, đổi mới các hình thức tổ chức dạy học, nghiên cứu bài và thiết kế được các hoạt động dạy – học phù hợp với mục tiêu từng bài dạy.
* Về học sinh: Năm học 2016-2017 Trường Tiểu học Nguyệt Ấn 1 gồm 21 lớp, 455 em. Riêng khối lớp 5 là 4 lớp 78 học sinh. Chủ yếu học sinh khối lớp 5 là học sinh thuộc con em dân tộc Mường. Các em ham học, thích tìm tòi và khám phá cái mới.
* Về cơ sở vật chất: Trường của chúng tôi có trang thiết bị đồ dùng dạy học được cấp tương đối đầy đủ. Tranh ảnh nhiều, phong phú, đa dạng cho các môn học. Sách giáo khoa học sinh được mượn. Sách giáo viên, tài liệu sách tham khảo tương đối đầy đủ để giáo viên có thể dạy và bồi dưỡng học sinh năng khiếu ở trên lớp.
Khó khăn
* Về đội ngũ giáo viên: Giáo viên chủ yếu là người địa phương, xa trung tâm nên việc đi lại còn gặp nhiều khó khăn. Trong giao tiếp giáo viên thường sử dụng tiếng địa phương với học sinh nên trong quá trình dạy học gặp rất nhiều khó khăn. Một số GV còn lệ thuộc vào SGV, sách thiết kế, bài soạn ít sáng tạo; chưa chú ý đến việc thiết kế xây dựng hệ thống bài tập cho phù hợp với trình độ từng đối tượng HS.
* Về học sinh: Trường có nhiều đối tượng học sinh, trong địa bàn có nhiều dân tộc sinh sống, chủ yếu là con em dân tộc Mường. Học sinh có hộ nghèo: 145 em chiếm 31,8%. Điều kiện kinh tế gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn trong học tập. Chất lượng học sinh còn thấp. Vốn ngôn ngữ của các em không phong phú, khả năng giao tiếp còn hạn chế. HS thường sử dụng tiếng dân tộc trong sinh hoạt cũng như ở nhà dẫn đến khả năng tiếp thu Tiếng Việt ở trên lớp rất hạn chế. Đối với học từ đồng âm và từ nhiều nghĩa các em còn có những hạn chế sau: Lúng túng trong việc giải nghĩa từ hoặc giải nghĩa từ còn sai; Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn mơ hồ, định tính; Đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa chưa chính xác, chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu. 
- Qua thực tế giảng dạy nhiều năm tôi thấy khi học sinh gặp các dạng bài về nhận diện phân biệt được các từ đồng âm và từ nhiều nghĩa các em hay nhầm lẫn và kết quả đạt được tương đối thấp, chưa theo mong muốn. Chính vì thế mà tôi luôn băn khoăn, trăn trở, suy nghĩ, tìm cách tham khảo, đọc tài liệu, hỏi ý kiến của các đồng nghiệp thì tất cả đồng nghiệp đều trả lời là khi gặp các dạng bài tập về nhận diện từ và phân biệt được các “Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” học sinh chỉ đạt khoảng 70- 75%. Điều đó chứng tỏ việc dạy học các bài về “Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5 chưa đạt mục tiêu của chương trình.
*Về cơ sở vật chất: Trang thiết bị dạy học dành cho phân môn Tiếng Việt nói chung, phần dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa nói riêng rất ít. Chủ yếu là giáo viên phải tự làm đồ dùng dạy học như; bảng phụ, băng giấy..để phục vụ cho tiết dạy của mình.Việc sử dụng đồ dùng dạy học chưa thường xuyên, hầu hết chỉ dùng khi thao giảng,thi giáo viên giỏi ở trường, huyện.
2.3. Kết quả khảo sát:
	- Đầu năm học 2016- 2017 tôi được phân công dạy lớp 5A là lớp có trình độ nhận thức không đồng đều (có nhiều học sinh học tốt nhưng cũng có không ít học sinh yếu kém, tư duy chậm). Một số phụ huynh thiếu sự quan tâm đến việc học của con cái, ý thức học của một số học sinh chưa đạt.
	-Khi trực tiếp giảng dạy trên lớp và dạy bài “ Từ đồng âm”, “ Luyện tập về từ nhiều nghĩa” trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5, sau khi học sinh học song bài này tôi đã cho học sinh làm bài trực tiếp ở trên lớp với đề bài như sau:
Thời gian làm bài : 10 phút
Đề bài:
Bài 1: Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là từ nhiều nghĩa : 
- Bà em mua hai con mực.
 - Mực nước đã lên cao.
 - Trình độ văn chương của anh ấy cũng có mực. [4]
 - Theo cách GV dạy theo SGV thì kết quả thu được ở bài tập 1 như sau:
Số HS làm bài
20 em
Nhận diện từ đồng âm và từ nhiều nghĩa (đúng)
Nhận diện đồng âm và từ nhiều nghĩa (chậm)
Nhận diện đồng âm và từ nhiều nghĩa (sai)
Chưa nhận diện được đồng âm và từ nhiều nghĩa 
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
4
20
6
30
5
25 
5
25
	-Trên đây là bài làm của HS trước khi tôi chưa áp dụng các biện pháp dạy học tìm ra những khó khăn và cách tháo gỡ vì vậy học sinh chưa nhận diện, phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
2.4 Nguyên nhân kết quả của thực trạng:
*Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là:
	- Trong quá trình dạy học các bài này, mỗi giáo viên đều làm đúng vai trò hướng dẫn, tổ chức cho học sinh. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết học có hạn nên giáo viên chưa lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong các bài học. Do đó, sau các bài học, học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội dung học một cách tách bạch. Đôi khi giảng dạy nội dung này, giáo viên còn khó khăn khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể từ bên ngoài SGK để minh họa phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Giáo viên ít tư duy, sáng tạo, không gắn với thực tiễn về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa có trong cuộc sống hàng ngày để các em dễ tìm, dễ hiểu. Có trường hợp GV chỉ truyền đạt giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong SGK và SGV, thường để học sinh học tập một cách thụ động, chưa tập trung thời gian và trí tuệ vào việc soạn bài và đồ dùng dạy học, chưa linh động sáng tạo,cải tiến nội dung và phương pháp dạy học để phù hợp với đối tượng học sinh vì thế kết quả dạy học chưa cao. 
	-Với những nguyên nhân và kết quả khảo sát như trên, tôi nhận thấy rằng: hoàn cảnh, điều kiện cũng như đặc điểm ngôn ngữ của học sinh đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy học. Bên cạnh đó, chương trình SGK lại dùng chung cho cả nước nên không tránh khỏi những bài tập còn khó so với trình độ chung của học sinh ở địa phương, đòi hỏi người giáo viên trong quá trình dạy học phải có biện pháp, cách tháo gỡ giúp học sinh đạt được mục tiêu của chương trình.
3. Các biện pháp thực hiện:
 Biện pháp 1. Giúp HS nắm được những kiến thức về “Nghĩa của từ”. 
-Nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối tượng của hiện thực (một hiện tượng, một quan hệ, một tính chất, hay một quá trình) trong nhận thức, được ghi lại bằng một tổ hợp âm thanh xác định. Để tăng vốn từ cho học sinh, ngoài việc hệ thống hóa vốn từ, công việc quan trọng là làm cho học sinh hiểu nghĩa từ, phân biệt được các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc dạy nghĩa của từ được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, thì ở đó có dạy nghĩa từ. Bài tập giải nghĩa từ xuất hiện trong phân môn LTVC không nhiều nhưng việc giải nghĩa từ lại chiếm vị trí rất quan trọng trong các bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Việc cho các em hiểu nghĩa các từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, từ trung tâm của mỗi trường nghĩa là vô cùng cần thiết. Chính vì thế mà tôi đã hướng dẫn cho học sinh về biện pháp dạy nghĩa của từ cho học sinh lớp 5 là: 
- GV định hướng các biện pháp giải nghĩa từ thích hợp với lượng từ ngữ cần cung cấp cho học sinh về phân môn Luyện từ và câu lớp 5. Tôi đã hướng dẫn học sinh giải nghĩa từ bằng các cách sau:
Cách 1: Giải nghĩa bằng định nghĩa. 
Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung nghĩa, gồm tập hợp các nét nghĩa bằng một định nghĩa. Tập hợp nét nghĩa được liệt kê theo sự sắp xếp nét nghĩa khái quát, cũng là nét nghĩa từ loại lên trước hết và các nét nghĩa càng hẹp, càng riêng thì càng ở sau. 
VD: Dùng tay phát ra tiếng nhạc hoặc âm thanh là đánh trống.
Cách 2: Giải nghĩa bằng từ đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa. 
-Đây là cách giải nghĩa một từ bằng cách quy nó về những từ đã biết, các từ dùng để quy chiếu đó phải được giảng kĩ.
VD: Từ đồng nghĩa với “ hợp tác” là: cộng tác.
 Trái nghĩa với từ trẻ con là từ : người lớn
Cách 3: Giải nghĩa theo cách miêu tả 
VD: Vàng giòn: là màu vàng của rơm, rạ phơi rất khô. 
Cách 4: Giải nghĩa theo cách phân tích từ ra từng tiếng và giải nghĩa từng tiếng 
-Cách giải nghĩa này có ưu thế đặc biệt khi giải nghĩa từ Hán việt. Việc giải nghĩa từng tiếng rồi khái quát nêu ý nghĩa chung của cả từ sẽ giúp học sinh
cơ sở nắm vững nghĩa từ.
VD: Tổ quốc là một từ ghép gốc Hán. Tổ là ông cha ta từ xa xưa, quốc là nước, đất nước.
Cách 5: Giải nghĩa theo cách đối chiếu, so sánh. 
VD: Giải nghĩa bà nội, bà ngoại bằng cách đối chiếu: bà ngoại là người sinh ra mẹ, bà nội là người sinh ra bố.
Cách 6: Giải nghĩa bằng từ điển. 
-Đây là biện pháp giải nghĩa từ phổ biến nhất, là biện pháp giải nghĩa làm cơ sở cho rất nhiều bài tập giải nghĩa khác nhau. Giải nghĩa bằng từ điển tức là GV và HS nêu nội dung nghĩa của một từ bằng một định nghĩa.
VD: Tự trọng là coi trọng phẩm giá của mình.
Cách 7: Giải nghĩa bằng tìm từ lạc. 
VD: Trong các từ sau từ nào không cùng nhóm nghĩa?
 a. Lạc quan b. Yêu đời. c. Tốt đẹp d. Tin tưởng
 Đáp án: Tốt đẹp 
- Dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa: từ đồng âm, từ nhiều nghĩa...
Biện pháp 2. Dạy học sinh cách tháo gỡ một số bài tập khó về từ đồng âm trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5.
	-Để làm được việc này giáo viên không nên chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu có sẵn trong SGK, SGV, sách thiết kế. Không làm việc máy móc và ít quan tâm đến khả năng sáng tạo của học sinh. Không nên để học sinh học tập một cách thụ động chủ yếu là nghe giảng, ghi nhớ rồi làm bài theo mẫu. Vì nếu thế học sinh sẽ ít hứng thú học tập, không phát huy năng lực và vốn có của cá nhân học sinh. 
	-Tôi đã nghiên cứu và tìm hiểu những khó khăn và tìm cách tháo gỡ từng bài trong từng tiết dạy nhất là thời gian ở phần luyện tập để học sinh hiểu được, tìm ra, nhận diện, phân biệt được các từ đồng âm. Như vậy muốn tìm, nhận diện, phân biệt được các từ đồng âm trước hết học sinh phải: Hiểu và nắm được nghĩa của từ đồng âm.
 2.1 Khái niệm về từ đồng âm: 
-Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa.
- Từ đồng âm là nhiều từ nhưng trong văn cảnh đều là nghĩa gốc còn gọi là nghĩa chính hay nghĩa đen.
VD: Ba (1) và má – ba (2) tuổi .
 Ba (1) trong Ba và má: là cha.
 ba (2) trong ba tuổi: là số tự nhiên lớn hơn hai và nhỏ hơn bốn.
2.2. Một số ví dụ về cách tháo gỡ tháo gỡ các bài tập khó về từ đồng âm trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5. 
 Bài : Từ đồng âm : Tuần 5 tiết 2 (SGK TV5 -Tập 1 trang 51) 
Đây là bài dạng lý thuyết.
a) Nội dung bài học gồm có 3 phần:
* Phần 1: Nhận xét gồm có: 02 yêu cầu 
Yêu cầu 1: Đọc các câu sau đây:
+ Ông ngồi câu cá.
 	+ Đoạn văn này có 5 câu.
 Yêu cầu 2: Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa của mỗi từ câu ở bài tập 1?
 	+ Bắt cá,tôm,.. bằng móc sắt nhỏ (thường có mồi) buộc ở mỗi đầu sợi dây.
 	+ Đơn vị của lời nói diễn đạt một ý trọn vẹn, trên văn bản được mở đầu bằng một chữ cái viết hoa và kết thúc bằng một dấu ngắt câu.
* Phần 2: Ghi nhớ
* Phần 3: Bài tập: Phần này gồm có 4 bài tập.
* Mục tiêu của các bài tập này:
- Giúp học sinh nhân diện được một số từ đồng âm trong giao tiếp.
- Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm.
- Biết đặt được câu để phân biệt các từ đồng âm. Biết được từ đồng âm có các nét nghĩa như thế nào? cách vận dụng các từ đồng âm vào mẩu chuyện vui.
Bài tập 1: Phân biệt được nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau:
 	+ Cánh đồng – tượng đồng – một nghìn đồng
 	+ Hòn đá – đá bóng
+ Ba và má – ba tuổi 
Bài tập 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm bàn, cờ, nước.
 M: - Nhà nhà treo cờ mừng ngày quốc khánh.
- Cờ là một môn thể thao được nhiều người ưa thích.
Bài tập 3: Đọc mẩu chuyên vui dưới đây và cho biết vì sao Nam tưởng ba mình đã chuyển sang làm việc tại ngân hàng.
 Tiền tiêu 
Nam: - Cậu biết không, ba mình mới chuyển sang ngân hàng làm việc đấy!
Bắc: - Sao cậu bảo ba cậu là bộ đội ?
Nam: - Đúng rồi , thư trước ba mình báo tin:“ Ba đang ở hải đảo”. Nhưng thư này ba mình nói là ba đang giữ tiền tiêu cho Tổ quốc.
Bắc: !!!
Bài tập 4 : Đố vui
Trùng trục như con chó thui
Chín mắt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu. (Là con gì?)
Hai cây cùng có một tên
 Cây xòe mặt nước, cây trên chiến trường
 Cây này bảo vệ quê hương
Cây kia hoa nở soi gương mặt hồ. (Là cây gì?) [3].
A. Khó khăn:
 	Theo tôi ở phần bài tập này có 3 bài tập khó đó là bài tập1, bài tập2 và
bài tập 3.
* Cái khó ở bài tập1 là: HS chưa hiểu được các nét nghĩa của các từ đồng âm
trong các cụm từ sau:
 	+ Cánh đồng – tượng đồng – một nghìn đồng
 	+ Hòn đá – đá bóng
* Cái khó ở bài tập 2 là: 
	-HS chưa hiểu được các nét nghĩa của các từ đồng âm: bàn, cờ, nước. Mà mỗi câu phải đặt tối thiểu hai câu, trong đó từ đồng âm dùng ở mỗi câu theo một nét nghĩa khác nhau cho nên các em không đặt được các câu để phân biệt được các từ đồng âm đã cho.
* Cái khó ở bài tập 3 là:
	-HS phải tìm ra câu nói của ba bạn Nam có một từ mà đã làm cho bạn Nam đã hiểu nhầm là ba mình đang làm việc tại ngân hàng. GV giúp HS hiểu được cái hay, cái thú vị, tính khôi hài của mẩu chuyện vui.
B. Cách tháo gỡ: 
* Ở bài tập 

Tài liệu đính kèm:

  • docxkinh_nghiem_day_hoc_sinh_cach_thao_go_mot_so_bai_tap_kho_ve.docx