Hướng dẫn học sinh thực hiện dạng đề so sánh nhân vật trong tác phẩm văn xuôi – Ngữ văn 12

Hướng dẫn học sinh thực hiện dạng đề so sánh nhân vật trong tác phẩm văn xuôi – Ngữ văn 12

Đối với học sinh, đặc biệt là học sinh khối 12, thi cử luôn là một áp lực gây căng thẳng tâm lí. Thời gian ôn tập không nhiều, kiến thức của các môn thi thì quá lớn. Vậy làm thế nào để cho việc ôn tập 4 môn thi tốt nghiệp THPT QG đạt kết quả tốt? Thiết nghĩ đây không phải là bài toán đơn giản cho học sinh và cũng là cho mỗi người thầy trong quá trình hướng dẫn học sinh yêu quí của mình ôn thi đạt hiệu quả.

Trong thực tế các môn thi tốt nghiệp THPT, môn văn bao giờ cũng là môn cố định có tính bắt buộc đối với các kì thi. Môn học này chiếm một lượng kiến thức tương đối lớn đòi hỏi học sinh cần phải có kế hoạch ôn tập chu đáo thì mới có thể đạt điểm cao. Để làm được điều này, bên cạnh việc nắm vững các kĩ năng làm bài đòi hỏi mỗi học sinh phải có phương pháp làm bài hữu hiệu thì mới có thể đạt được kết quả tốt. Tuy nhiên, vấn đề học môn văn hiện nay không phải học sinh nào cũng làm được điều đó.

Để tránh gây áp lực căng thẳng về tâm lí và tạo được hứng thú cho học sinh trong quá trình ôn thi, mỗi người thầy cần phải có một phương pháp thiết thực để hướng dẫn các em ôn tập đạt hiệu quả cao nhất.

Trong quá trình ôn tập Ngữ văn và hướng dẫn cho các em thi cử, thiết nghĩ có rất nhiều phương pháp được áp dụng và tất nhiên mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Song tôi thấy hiệu quả vẫn là phương pháp hướng dẫn ôn tập cho học sinh theo cấu trúc đề thi. Trong những năm gần đây, cấu trúc đề thi môn Ngữ văn gồm 2 phần: phần I: đọc – hiểu; phần II: làm văn. Trong phần làm văn, đề thi có định hướng 1 câu nghi luận xã hội (3,0 điểm) và 1 câu nghị luận văn học ( 4,0 điểm). Riêng đối với câu nghị luận văn học đề ra có thể tồn tại ở rất nhiều dạng, chẳng hạn như: Cảm nhận về một đoạn thơ, đoạn văn, một nhân vật, một phong cách nghệ thuật. hoặc so sánh hai đoạn thơ của hai tác giả, hai phong cách, hai nhân vật.Đề ra rất phong phú. Cho nên việc giáo viên cần định hướng cho học sinh các phương pháp học, phương pháp tư duy là rất cần thiết. Đặc biệt là ở dạng đề so sánh.

 

doc 22 trang thuychi01 7223
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Hướng dẫn học sinh thực hiện dạng đề so sánh nhân vật trong tác phẩm văn xuôi – Ngữ văn 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
HƯỚNG DẪN HỌC SINH THỰC HIỆN DẠNG ĐỀ SO SÁNH NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN XUÔI – NGỮ VĂN 12
1. MỞ ĐẦU
1. 1. Lí do chọn đề tài
Đối với học sinh, đặc biệt là học sinh khối 12, thi cử luôn là một áp lực gây căng thẳng tâm lí. Thời gian ôn tập không nhiều, kiến thức của các môn thi thì quá lớn. Vậy làm thế nào để cho việc ôn tập 4 môn thi tốt nghiệp THPT QG đạt kết quả tốt? Thiết nghĩ đây không phải là bài toán đơn giản cho học sinh và cũng là cho mỗi người thầy trong quá trình hướng dẫn học sinh yêu quí của mình ôn thi đạt hiệu quả.
Trong thực tế các môn thi tốt nghiệp THPT, môn văn bao giờ cũng là môn cố định có tính bắt buộc đối với các kì thi. Môn học này chiếm một lượng kiến thức tương đối lớn đòi hỏi học sinh cần phải có kế hoạch ôn tập chu đáo thì mới có thể đạt điểm cao. Để làm được điều này, bên cạnh việc nắm vững các kĩ năng làm bài đòi hỏi mỗi học sinh phải có phương pháp làm bài hữu hiệu thì mới có thể đạt được kết quả tốt. Tuy nhiên, vấn đề học môn văn hiện nay không phải học sinh nào cũng làm được điều đó.
Để tránh gây áp lực căng thẳng về tâm lí và tạo được hứng thú cho học sinh trong quá trình ôn thi, mỗi người thầy cần phải có một phương pháp thiết thực để hướng dẫn các em ôn tập đạt hiệu quả cao nhất.
Trong quá trình ôn tập Ngữ văn và hướng dẫn cho các em thi cử, thiết nghĩ có rất nhiều phương pháp được áp dụng và tất nhiên mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Song tôi thấy hiệu quả vẫn là phương pháp hướng dẫn ôn tập cho học sinh theo cấu trúc đề thi. Trong những năm gần đây, cấu trúc đề thi môn Ngữ văn gồm 2 phần: phần I: đọc – hiểu; phần II: làm văn. Trong phần làm văn, đề thi có định hướng 1 câu nghi luận xã hội (3,0 điểm) và 1 câu nghị luận văn học ( 4,0 điểm). Riêng đối với câu nghị luận văn học đề ra có thể tồn tại ở rất nhiều dạng, chẳng hạn như: Cảm nhận về một đoạn thơ, đoạn văn, một nhân vật, một phong cách nghệ thuật... hoặc so sánh hai đoạn thơ của hai tác giả, hai phong cách, hai nhân vật...Đề ra rất phong phú. Cho nên việc giáo viên cần định hướng cho học sinh các phương pháp học, phương pháp tư duy là rất cần thiết. Đặc biệt là ở dạng đề so sánh.
Dạng đề so sánh các nhân vật văn học là một dạng đề khó. Dạng đề này cần kiến thức tổng hợp , khái quát nhưng chỉ một số học sinh là có thể làm được còn đại bộ phận thì rất mơ hồ, lúng túng (kể cả đối với học sinh ở các lớp khối C, khối D). Hơn nữa thời gian bồi dưỡng cho các em học sinh ở khối A,B chưa nhiều, nên lâu nay các em chỉ quen với những dạng đề phân tích từng tác phẩm, từng nhân vật, hình ảnh, chi tiết, còn kết hợp nhiều tác phẩm, nhân vật, chi tiết...không phải em nào cũng làm được. Vì vậy, nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên thì phần đa học sinh không thể làm được dạng đề này hoặc có làm được thì cũng không logic hoặc không thể có chất lượng cao. 
 1
Từ thực tế nêu trên, nên trong quá trình bồi dưỡng cho các đối tượng học sinh tôi rất trú trọng vào dạng đề so sánh, đặc biệt là so sánh các nhân vật văn học trong các tác phẩm văn xuôi- chương trình ngữ văn 12. Đây là một đề tài mà chưa đồng chí giáo viên nào trong tổ Ngữ văn trường THPT Triệu Sơn 1 đi sâu nghiên cứu. Vì vậy sáng kiến này của tôi rất mong các bạn đồng nghiệp tham khảo.
1. 2. Mục đích nghiên cứu. 
Sau khi nghiên cứu, rút kinh nghiệm hy vọng đề tài này sẽ tìm ra những giải pháp nhằm phát huy tốt việc ứng dụng kĩ năng thực hiện dạng đề so sánh các nhân vật trong tác phẩm văn xuôi – chương trình Ngữ văn 12. Nhằm giúp các em có thêm một phương pháp học mới phục vụ tốt cho việc ôn thi TN THPT QG đối với môn Ngữ văn, đồng thời phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức mới. 
 1. 3. Đối tượng nghiên cứu.
Các tác phẩm văn xuôi chương trình Ngữ văn 12:
Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài); 
Vợ nhặt (Kim Lân); 
Rừng Xà nu (Nguyễn Trung Thành); 
Những đứa con trong gia đình- trích- (Nguyễn Thi);
Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu).
1. 4. Phương pháp nghiên cứu.
- Hướng dẫn học sinh cách làm qua các bước và hướng dẫn cụ thể một số đề.
Để hướng dẫn học sinh ôn thi tốt nghiệp ở dạng đề so sánh nhân vật trong các tác phẩm văn xuôi- Ngữ văn 12, tôi tiến hành theo ba bước:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý; 
Bước 2: Hướng dẫn học sinh cách diễn đạt.
Bước 3: Vận dụng một tiết dạy cụ thể.
- Hướng dẫn học sinh luyện tập ứng dụng.
	Đề tài mong muốn được đóng góp một phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học trong trường THPT theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Dạy học theo xu thế giải quyết các dạng đề mở của bộ môn Ngữ văn. Đồng thời tạo sự hứng thú cho các em học tập bộ môn này.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
So sánh là một thao tác tư duy rất cơ bản. Trong cuộc sống, khi ta tư 
duy, ta đã dùng đến thao tác này rất thường xuyên như một phần tất yếu. Văn học cũng là một lĩnh vực của tư duy, của nhận thức, mang tính đặc thù, cho nên việc sử dụng thao tác so sánh trong sáng tác và nghiên cứu văn học là một điều hết sức tự nhiên. Từ khi có văn học, nhất là văn học viết đến nay, các nhà nghiên cứu đã có ý thức so sánh khi tìm hiểu văn chương, đặc biệt là khi có những hiện tượng song hành trong văn học. Có thể nhắc đến những hiện tượng song hành tiêu biểu trong văn học Việt Nam: Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu, Cung Oán Ngâm và Chinh Phụ Ngâm, So sánh các hiện tượng văn chương trở thành một phương pháp nghiên cứu văn chương. Ở đây tôi không nhắc tới so sánh văn học như một bộ môn khoa học mà được hiểu như một kiểu bài nghị luận văn học, một cách thức trình bày khi viết bài nghị luận. 
Khái niệm so sánh văn học cần phải được hiểu theo ba lớp nghĩa khác 
nhau. Thứ nhất, so sánh văn học là “một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu 
văn”(1) . Thứ hai, nó được xem như một thao tác lập luận cạnh các thao tác lập luận như: phân tích, bác bỏ, bình luận đã được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 11. Thứ ba, nó được xem như “một phương pháp, một cách thức trình bày khi viết bài nghị Luận”(2), tức là như một kiểu bài nghị luận bên cạnh các kiểu bài nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm thơ; nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi ở sách giáo khoa Ngữ văn 12. Ở đề tài này chúng ta nghiên cứu vấn đề ở góc nhìn thứ ba. 
So sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên cạnh một 
hay nhiều sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một cách toàn diện, kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, so sánh văn học như một kiểu bài nghị luận văn học lại chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập, chưa xuất hiện trong chương trình sách giáo khoa. Vì vậy, từ việc xác lập nội hàm khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách thức làm bài cho kiểu bài này thực sự rất cần thiết song lại gặp không ít khó khăn. 
Kiểu bài so sánh nhân vật văn học trong tác phẩm văn xuôi yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên nhiều bình diện. Quá trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở các nhân vật trong cùng một tác phẩm, nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng hoặc không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác nhau của một nền văn học. Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu học sinh chỉ ra được chỗ giống và khác nhau giữa hai nhân vật, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng nhân vật; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn. Không dừng lại ở đó, kiểu bài này còn góp phần hình thành kĩ năng lí giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa các hình tượng văn học – một năng lực rất cần thiết góp phần tránh đi khuynh hướng “bình tán”, khuôn sáo trong các bài văn của học sinh hiện nay. Lẽ hiển nhiên, đối với đối tượng học sinh trung học phổ thông, các yêu cầu về năng lực lí giải cần phải hợp lí, vừa sức. Nghĩa là các tiêu chí so sánh cần có mức độ khó vừa phải, khả năng lí giải sự giống và khác nhau cũng cần phải tính toán hợp lí với năng lực của các em . Chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng trong từng bài, từng cấp học sẽ là căn cứ để kiểm định những vấn đề này.
Truyện ngắn là một thể loại chính của văn học Việt Nam được đưa vào chương trình giảng dạy trong trường phổ thông. Cùng với thơ, truyện ngắn giữ một vai trò khá quan trọng, nhằm hoàn thiện và kết thúc chương trình 12. Vì vậy trong quá trình ra đề thi( cả thi học kì và thi TN THPT), đề rất hay ra vào phần này. Tính từ năm 2013 trở về trước, khi chưa kết hợp hai kì thi làm một, đề thi dành cho đối tượng thi TN THPT thường chỉ yêu cầu phân tích một nhân vật cụ thể, hoặc phân tích một số nhân vật trong cùng một tác phẩm. Nhưng tính từ năm học 2014-2015 trở lại đây, mức độ đề được nâng cao hơn đề phù hợp với việc phân loại đối tượng học sinh ( thi TN THPT QG và Đại học) nên đề có thể ra theo dạng khái quát: So sánh hai hay nhiều nhân vật trong các tác phẩm của cùng một tác giả, hay của nhiều tác giả chẳng hạn.Vì vậy trong quá trình ôn tập cho học sinh chúng ta cần chú ý thêm dạng đề này.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Theo qui định của Bộ GD-ĐT, đề thi tốt nghiệp THPT QG đối với những môn thi trắc nghiệm ( Lí, Hóa, Sinh, Ngoại ngữ) là 90 phút, còn đối với môn tự luận (Toán, Văn, Sử, Địa) là 180 phút. Riêng đối với môn Văn ( cấu trúc đề đã nói tới ở phần 1.1), câu nghị luận văn học là 4,0 điểm, quyết định 40% điểm của bài thi. Chính vì vậy, ngoài ôn các dạng đề cần thiết cho học sinh, giáo viên cần chú trọng thêm việc so sánh các nhân vật văn học trong các truyện ngắn thuộc chương trình Ngữ văn 12.
 Chương trình văn xuôi 12 gồm có 5 tác phẩm chính, đó là: 
Vợ chồng A Phủ( Tô Hoài),
Vợ nhặt (Kim Lân),
Rừng Xà nu (Nguyễn Trung Thành), 
Những đứa con trong gia đình- trích- (Nguyễn Thi),
Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu).
 Trong các tác phẩm, bao gồm có hơn 10 nhân vật chính: Mị, A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài); Tràng, bà Cụ Tứ và người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt (Kim Lân ); cụ Mết,Tnú trong Rừng xà nu(Nguyễn Trung Thành); chú Năm, Việt, Chiến trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi); Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)...
	Đối với giáo viên, chúng ta rất dễ nhận ra rằng không phải nhân vật nào cũng có thể đem ra so sánh được. Bởi so sánh phải dựa trên những tiêu chí chung nào đó. Nhưng học sinh không thể hiểu rõ được điều này. Nhiều em còn nghĩ, cứ là nhân vật văn học thì có thể đem so sánh một cách bất kì. Vì vậy khi hướng dẫn học sinh, dựa trên những nhân vật có sẵn, ta giúp các em nhận thấy điểm chung giữa các nhân vật để lí giải vì sao đề bài chỉ có thể ra so sánh giữa các nhân vật đó.
So sánh nhân vật Việt, Chiến(Những đứa con trong gia đình-Nguyễn Thi), Tnú(Rừng xà nu- Nguyễn Trung Thành).
 Điểm chung nổi bật của những nhân vật này: họ đều là những thanh niên yêu nước, sinh ra trong một gia đình, một vùng quê có truyền thống cách mạng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, kiên cường, dũng cảm đứng lên .
So sánh nhân vật Mị( Vợ chồng Aphủ- Tô Hoài), người vợ nhặt, bà cụ Tứ ( Vợ nhặt – Kim Lân) và người đàn bà hàng chài( Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh Châu)..
 Điểm chung nổi bật của những nhân vật này: họ đều là những người phụ nữ có những hoàn cảnh éo le nhưng vẫn mang những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
So sánh nhân vật Cụ Mết (Rừng xà nu- Nguyễn Trung Thành)và chú Năm (Những đứa con trong gia đình-Nguyễn Thi).
 Điểm chung nổi bật của những nhân vật này: Họ không chỉ là những con người yêu nước mà còn là những thế hệ đi trước tiếp sức mạnh truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ.
.....
 Phương tiện dạy học của nhà trường.
Để việc so sánh nhân vật không rơi vào tình trạng thuyết giảng chung chung, trừu tượng. Chúng ta nên sử dụng hỗ trợ công nghệ thông tin. Điều thuận lợi đối với trường tôi dạy- trường THPT Triệu Sơn I, hiện nay đã có 11 phòng máy chiếu đa năng, 4 máy tính xách tay và 1 nhân viên phụ tá nên việc ứng dụng công nghệ thông tin với bài giảng là thuận lợi. Hơn nữa, học sinh dang rất hứng thú với hình thức dạy học này. Vì thế kết hợp việc sử dụng công nghệ thông tin trong việc hướng dẫn các kĩ năng làm bài văn so sánh về các nhân vật văn học thường đạt hiệu quả cao.
Đặc điểm tình hình học sinh trong trường phổ thông.
	Một vấn đề cần quan tâm là đối tượng học sinh tôi trực tiếp giảng dạy là Học sinh Huyện Triệu Sơn ở vùng nông thôn nông nghiệp là chủ yếu. Trình độ nhận thức các em không đồng đều, các em đại đa số học theo khối A, B nên số học sinh thực sự yêu thích bộ môn văn là rất ít. Việc đầu tư tài liệu không nhiều. Tuy nhiên, với việc hình thành phương pháp học mới cho học sinh sẽ có tác dụng cho học sinh cảm thấy hứng thú và yêu thích môn học.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm ý và lập dàn ý
a, Đối với dàn ý so sánh hai nhân vật trong cùng một tác phẩm. 
Dàn ý khái quát:
* Mở bài:
- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu hai nhân vật.
* Thân bài:
- Nét chung của các nhân vật.
- Nét riêng của các nhân vật.
- Đánh gía về nghệ thuật và ý nghĩa của hình tượng.
* Kết bài:
- Kết luận chung và nêu cảm nghĩ của bản thân.
Ví dụ:
Đề bài: So sánh nét tính cách của hai nhân vật Việt, Chiến trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.
Dàn ý
*Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Thi và truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.
- Giới thiệu hai nhân vật Việt, Chiến.
* Thân bài:
- Giống nhau:
+ Cùng sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng, có mối thù sâu sắc với giặc Mĩ.
+ Là những con người dũng cảm, kiên cường.
+ Là những người con giàu tình yêu thương.
- Khác nhau:
+ Việt tính cách còn trẻ con vô tư, hồn nhiên. Vì Việt là em trai nên được má nuông chiều, chị nhường nhịn.
+ Chiến giống má ở ngoại hình và ở cả phẩm chất đảm đang, tháo vát, “người lớn”.Chiến là chị gái nên phải đảm đang việc nhà, kể từ khi ba má mất.
- Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Ý nghĩa:
+ Ca ngợi thế hệ trẻ Miền Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
+ Trong gia đình, Việt và Chiến là những khúc sông sau chảy xa nhất. 
=>Khắc họa hai nhân vật Chiến và Việt tác giả muốn khẳng định, mỗi gia đình nếu biết kết hợp giữa tình cảm gia đình và tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc thì sẽ tạo nên sức mạnh to lớn của con người Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ.
* Kết bài
Mỗi nhân vật để lại một ấn tượng riêng trong lòng độc giả.
Tài năng của Nguyễn Thi trong việc khắc họa tính cách nhân vật.
b, Đối với dàn ý so sánh các nhân vật trong các phẩm của các tác giả khác nhau
Dàn ý khái quát:
* Mở bài :
-    Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
-   Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh.
* Thân bài:
(1). Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
(2). Làm rõ đối tượng thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
(3). So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập luận so sánh).
(4). Lý giải sự khác biệt: thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học( bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
* Kết bài :
            - Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
 - Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
Ví dụ:
Đề bài 1: Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu).
Dàn ý
*Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt; tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
- Giới thiệu khái quát về hai nhân vật: người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài.
* Thân bài
(1). Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ  yếu là thao tác lập luận phân tích.)
Nhân vật người vợ nhặt
- Giới thiệu chung: Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về  sau.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt.
+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ.
+ Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ  nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan.
(2). Làm rõ đối tượng thứ 2 (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ  yếu là thao tác lập luận phân tích).
Nhân vật người đàn bà hàng chài
- Giới thiệu chung: Là nhân vật chính, có vai trò  quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sắc nét, theo lối tương phản giữa bề ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất.
- Một số  vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh.
+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có  khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi.
+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời.
(3). So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích, so sánh).
 - Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh. Những vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp. Cả hai đều được khắc hoạ bằng những chi tiết chân thực....
- Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được khắc sâu ở người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình.
(4). Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học( bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
+ Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao(cảm hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà chài lưới lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại(cảm hứng thế sự-đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại).
+ Sự khác biệt giữa quan niệm con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng, phức tạp( Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này
(có thể có thêm nhiều ý khác, tùy thuộc mức độ phân hóa của đề thi).
* Kết bài    
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
- Có  thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
(Học sinh dựa vào gợi ý bên để viết kết bài. Có nhiều cách kết bài khác nhau, hướng dẫn bên chỉ có tính chất tham khảo).
Đề bài 2: Vẻ đẹp của nhân vật Việt trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi và nhân vật Tnú trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
*Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Thi và truyện ngắn Những đứa con trong gia đình ; tác giả Nguyễn Trung Thành và tác phẩm Rừng xà nu.
Giới thiệu khái quát về hai nhân vật: Việt và Tnú
* Thân bài
Điểm chung giữa Tnú và Việt:
- Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc: Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn” – Lời cụ Mết. (Rừng xà nu). Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tran

Tài liệu đính kèm:

  • dochuong_dan_hoc_sinh_thuc_hien_dang_de_so_sanh_nhan_vat_trong.doc