Chuyên đề Rèn kỹ năng viết văn nghị luận xã hội cho học sinh yếu kém Lớp 9

Văn bản nghị luận được tạo lập nhằm giải quyết một vấn đề nào đó đặt ra trong cuộc sống. Người viết sẽ trình bày các tư tưởng, quan điểm của mình về vấn đề đặt ra nhằm thuyết phục người đọc tán thành và làm theo. Vấn đề càng có ý nghĩa xã hội sâu rộng, văn bản nghị luận càng có giá trị. Nghệ thuật nghị luận càng sắc bén, chặt chẽ, văn bản càng có tác dụng rộng rãi và mạnh mẽ. Nghị luận xã hội là một lĩnh vực rất rộng lớn, từ bàn bạc những sự việc, hiện tượng đời sống đến bàn luận những vấn đề chính trị, chính sách, từ những vấn đề đạo đức, lối sống đến những vấn đề có tầm chiến lược, những vấn đề tư tưởng triết lí.
Hình thức nghị luận thứ nhất là nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống. Vốn sống của học sinh bắt đầu từ nhận thức về từng sự việc trong đời sống hàng ngày: một vụ cãi lộn, đánh nhau, một vụ đụng xe dọc đường, một việc quay cóp khi làm bài, một hiện tượng nói tục, chửi bậy, thói ăn vặt xả rác, trẻ em hút thuốc lá, đam mê trò chơi điện tử, bỏ bê học tập… Các sự việc, hiện tượng như thế học sinh nhìn thấy hằng ngày ở xung quanh nhưng ít có dịp suy nghĩ, phân tích, đánh giá chúng về các mặt đúng - sai, lợi - hại, tốt - xấu… Bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng xung quanh mà các em không xa lạ, từ những suy nghĩ của bản thân mà viết những bài văn nghị luận nêu tư tưởng, quan niệm, đánh giá đúng đắn của mình. Đó có thể coi là một hình thức nghị luận phù hợp với kinh nghiệm lứa tuổi và trình độ suy luận của học sinh. Một số đề cụ thể: Suy nghĩ về hiện tượng nghiện game của giới trẻ, bạo lực học đường, nói tục chửi bậy của học sinh.....
Hình thức nghị luận thứ hai là nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí bàn về một tư tưởng, đạo đức, lối sống có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống con người. Các tư tưởng đó thường được đúc kết trong những câu tục ngữ, danh ngôn, ngụ ngôn, khẩu hiệu hoặc khái niệm. Những tư tưởng, đạo lí ấy thường đựơc nhắc đến trong đời sống song hiểu cho rõ, cho sâu, đánh giá đúng ý nghĩa của chúng là một yêu cầu cần thiết đối với mỗi người. Một số đề cụ thể như: Suy nghĩ về truyền thống uông nước nhớ nguồn của dân tộc, lòng yêu nước, lí tưởng sống....
Bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí có phần giống với bài nghị luận về về một sự việc, hiện tượng đời sống ở chỗ: sau khi phân tích sự việc, hiện tượng, người viết có thể rút ra những tư tưởng và đạo lí đời sống. Nhưng hai kiểu bài này khác nhau về xuất phát điểm và lập luận. Về xuất phát điểm, bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống xuất phát từ sự thực đời sống mà nêu tư tưởng, bày tỏ thái độ. Bài nghị luận về vấn đề tư tưởng đạo lí, sau khi giải thích, phân tích thì vận dụng các sự thật đời sống để chứng minh nhằm trở lại khẳng định (hay phủ định) một tư tưởng nào đó. Đây là nghị luận nghiêng về tư tưởng, khái niệm, lí lẽ nhiều hơn; các phép lập luận giải thích, chứng minh, tổng hợp thường được sử dụng nhiều.
Tác giả chuyên đề: Nguyễn Thị Trinh Chức vụ: Tổ trưởng tổ KHXH Đơn vị công tác: Trường THCS Bồ Lý Tên chuyên đề: Rèn kỹ năng viết văn nghị luận xã hội cho HSYK lớp 9 1. Thực trạng chất lượng giáo dục năm học 2018 - 2019 của trường THCS Bồ Lý: Trường THCS Bồ Lý là một trường nằm ở vùng sâu, vùng xa của huyện miền núi Tam Đảo. Tuy nhiên, trong những năm học vừa qua, với sự cố gắng nỗ lực của thầy và trò, chất lượng giáo dục của nhà trường luôn khẳng định được vị trí tiên phong, đi đầu trong công tác dạy và học. Chất lượng HSG không ngừng tăng lên qua các kì thi của Huyện và Tỉnh. Bên cạnh những thành tích đã đạt được thì tỉ lệ HSYK vẫn còn khá cao chiếm 4,68%. Trong đó môn Văn có 34 HS yếu (lớp 6: 12 HS, lớp 7: 8 HS, lớp 8: 7 HS, lớp 9: 7 HS). Đặc biệt, số lượng HS trượt tốt nghiệp qua mỗi năm không giảm, vẫn có HS thi vào 10 bị liệt.. 2. Đối tượng học sinh và dự kiến số tiết dạy: - Dự kiến số tiết dạy: 12 tiết - Đối tượng học sinh: Lớp 9 3. Hệ thống các dạng bài tập đặc trưng của kiểu bài nghị luận xã hội Văn bản nghị luận được tạo lập nhằm giải quyết một vấn đề nào đó đặt ra trong cuộc sống. Người viết sẽ trình bày các tư tưởng, quan điểm của mình về vấn đề đặt ra nhằm thuyết phục người đọc tán thành và làm theo. Vấn đề càng có ý nghĩa xã hội sâu rộng, văn bản nghị luận càng có giá trị. Nghệ thuật nghị luận càng sắc bén, chặt chẽ, văn bản càng có tác dụng rộng rãi và mạnh mẽ. Nghị luận xã hội là một lĩnh vực rất rộng lớn, từ bàn bạc những sự việc, hiện tượng đời sống đến bàn luận những vấn đề chính trị, chính sách, từ những vấn đề đạo đức, lối sống đến những vấn đề có tầm chiến lược, những vấn đề tư tưởng triết lí. Hình thức nghị luận thứ nhất là nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống. Vốn sống của học sinh bắt đầu từ nhận thức về từng sự việc trong đời sống hàng ngày: một vụ cãi lộn, đánh nhau, một vụ đụng xe dọc đường, một việc quay cóp khi làm bài, một hiện tượng nói tục, chửi bậy, thói ăn vặt xả rác, trẻ em hút thuốc lá, đam mê trò chơi điện tử, bỏ bê học tập Các sự việc, hiện tượng như thế học sinh nhìn thấy hằng ngày ở xung quanh nhưng ít có dịp suy nghĩ, phân tích, đánh giá chúng về các mặt đúng - sai, lợi - hại, tốt - xấu Bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng xung quanh mà các em không xa lạ, từ những suy nghĩ của bản thân mà viết những bài văn nghị luận nêu tư tưởng, quan niệm, đánh giá đúng đắn của mình. Đó có thể coi là một hình thức nghị luận phù hợp với kinh nghiệm lứa tuổi và trình độ suy luận của học sinh. Một số đề cụ thể: Suy nghĩ về hiện tượng nghiện game của giới trẻ, bạo lực học đường, nói tục chửi bậy của học sinh..... Văn nghị luận là một thể loại nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết một cách trực tiếp về văn học, chính trị, đạo đức, lối sống bằng ngôn ngữ trong sáng, lập luận chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục. Sức hấp dẫn của một bài văn nghị luận là ở những luận điểm đúng đắn, sáng rõ, mới mẻ; là cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, bằng những dẫn chứng thuyết phục. 5.2. Các yếu tố trong bài văn nghị luận. Có ba yếu tố trong bài văn nghị luận là luận điểm, luận cứ và cách lập luận. Luận điểm trong bài văn nghị luận là tư tưởng, quan điểm của người viết được thể hiện trực tiếp dưới hình thức câu văn khẳng định hay phủ định. Yêu cầu của luận điểm là cần chính xác, minh bạch ... Luận cứ là những lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ luận điểm. Yêu cầu của luận cứ là phải có tính thuyết phục. Vậy lí lẽ là gì ? Lí lẽ là một chân lí hiển nhiên hoặc một ý kiến đã được nhiều người thừa nhận (ý kiến đó thường là của những người có uy tín). Ví dụ như Quyền con người trong hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mĩ được bác Hồ lấy làm lí lẽ trong Tuyên ngôn Độc lập. Dẫn chứng là những bằng chứng tiêu biểu, xác đáng. Trong bài Đại cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi đã kể ra hàng loạt tội ác của giặc Minh. Nào là tàn sát, khủng bố; nào là lừa dối, gây nhũng nhiễu; nào là phá hoại nghề truyền thống, vơ vét, bóc lột Đó là những bằng chứng về tội ác của kẻ thù mà chúng không thể chối cãi được. Còn lập luận là cách trình bày lí lẽ, cách dẫn dắt dẫn chứng để làm nổi bật luận điểm.Có các phương pháp lập luận như : diễn dịch, qui nạp, nêu phản đề, đặt câu hỏi ... 5.3. Thế nào là đề văn nghị luận? Đề văn nghị luận thực chất là “đơn đặt hàng” của người ra đề đối với người viết. Nghĩa là người viết phải nêu lên được suy nghĩ, thái độ của mình trước một vấn đề trong cuộc sống hoặc trong văn học, nhằm thuyết phục người đọc hay người nghe. 5.4. Cách làm một bài văn nghị luận. Căn cứ vào đề tài, người ta chia đề văn nghị luận thành hai loại lớn: nghị luận chính trị- xã hội và nghị luận văn học. Để đáp ứng được yêu cầu trên, em hãy đọc kĩ đề, gạch chân những từ ngữ quan trọng, xác định ba yêu cầu của đề: Yêu cầu về nội dung, em cần trả lời câu hỏi, đề yêu cầu nghị luận về vấn đề gì ? Trả lời câu hỏi này cũng có nghĩa là em đã tìm được luận điểm cho bài viết. Yêu cầu về hình thức, em cần trả lời câu hỏi, đề văn nghị luận thuộc loại nào ? Những thao tác lập luận và phương thức biểu đạt chính sẽ được sử dụng trong bài + Yêu cầu đặt ra: Làm sáng tỏ chân lý bằng các dẫn chứng và lý lẽ. Khi ta đã chấp nhận cái chân lý thể hiện trong một phát ngôn nào đó, nhiệm vụ là ta sẽ phải thuyết phục người khác cũng chấp nhận như mình bằng những dẫn chứng rút ra từ thực tế cuộc sống xưa và nay, từ lịch sử, từ văn học (nếu đề yêu cầu) và kèm theo dẫn chứng là những lý lẽ dẫn dắt, phân tích tạo ra lập luận vững chắc, mang đến niềm tin cho người đọc. + Công việc cụ thể: Bước đầu tiên là phải tìm hiểu điều cần phải chứng minh , không những chỉ bản thân mình hiểu, mà còn phải làm cho người khác thống nhất, đồng tình với mình cách hiểu đúng nhất. Tiếp theo là việc lựa chọn dẫn chứng. Từ thực tế cuộc sống rộng lớn, tư liệu lịch sử rất phong phú, ta phải tìm & lựa chọn từ trong đó những dẫn chứng xác đáng nhất, tiêu biểu, toàn diện nhất (nên chỉ cần vài ba cái để làm sáng tỏ điều cần CM). Dẫn chứng phải thật sát với điều đang muốn làm sáng tỏ và kèm theo dẫn chứng phải có lý lẽ phân tích - chỉ ra những nét, những điểm ta cần làm nổi bật trong các dẫn chứng kia. Để dẫn chứng và lý lẽ có sức thuyết phục cao, ta phải sắp xếp chúng -> một hệ thống mạch lạc và chặt chẽ: theo trình tự thời gian, không gian, từ xưa đến nay, từ xa đến gần, từ ngoài vào trong hoặc ngược lại...miễn sao hợp logic. Bước kết thúc vẫn là bước vận dụng, đặt vấn đề vào thực tiễn cuộc sống hôm nay để đề xuất phương hướng nỗ lực. Chân lý chỉ giá trị khi soi rọi cho ta sống, làm việc tốt hơn. Ta cần tránh công thức và rút ra kết luận cho thoả đáng, thích hợp với từng người, hoàn cảnh, sự việc. => Từ những điều nói trên, ta rút ra một sơ đồ tổng quát theo ba bước: - Làm rõ điều cần chứng minh trong luận đề được nêu lên. - Lần lượt đưa ra các dẫn chứng và lý lẽ để làm sáng tỏ điều cần chứng minh. - Rút ra kết luận về phương hướng nỗ lực. c. Bình luận: Đây là thao tác có tính tổng hợp vì nó bao hàm cả công việc giải thích lẫn chứng minh. Nên những yêu cầu của giải thích và chứng minh cũng là yêu cầu đối với văn bình luận, nhưng giải thích và chứng minh sẽ được viết cô đọng, ngắn gọn hơn so với chỉ một thao tác chứng minh hoặc giải thích để tập trung cho phần việc quan trọng nhất là bình luận - phần mở rộng vấn đề. Trước khi bình luận, ta thường phải bày tỏ thái độ, để khách quan và tránh phiến diện, ta phải xem xét kĩ luận đề để từ đó có thái độ đúng đắn, có ba khả năng: - Hoàn toàn nhất trí. - Chỉ nhất trí một phần. (có giới hạn, có điều kiện) - Không chấp nhận. (bác bỏ) a. Mở bài: - Nêu lên vấn đề cần nghị luân và khái quát sự ảnh hưởng của vấn đề đối với xã hội b. Thân bài: - Giải thích: Bạo lực học đường là những hành vi thô bạo, tàn nhẫn, bất chấp luật pháp, đạo lí, xúc phạm, trấn áp, gây tổn thương cho người khác trong phạm vi trường học. - Thực trạng: • Bạo lực học đường diễn ra dưới nhiều hình thức: bạo lực thể xác và bạo lực tinh thần; có xu hướng gia tăng và diễn ra phức tạp ở nhiều nơi. • Các biểu hiện như: xúc phạm, lăng mạ, sỉ nhục, chà đạp danh dự, nhân phẩm, làm tổn thương về mặt tinh thần và thể xác. - Tác hại, hậu quả: • Với nạn nhân: bị tổn thương về thể xác, tinh thần, gây tâm lí nặng nề, ảnh hưởng đến sức khỏe, danh dự, đến học tập. • Với trường học và xã hội: làm biến thái môi trường giáo dục; làm ảnh hưởng đến trật tự, an ninh xã hội. • Với gia đình: gây tâm lí bất ổn, lo lắng, hoang mang,... • Với người gây ra hành vi bạo lực: phát triển không toàn diện; là mầm mống của tội ác; làm hỏng tương lai của chính mình; bị mọi người lên án, xa lánh, căm ghét. - Nguyên nhân: • Sự phát triển thiếu toàn diện, thiếu hụt về nhân cách, thiếu khả năng kiểm soát hành vi ứng xử của bản thân, thiếu kĩ năng sống, nhận thức sai lệch về quan điểm sống. • Có những căn bệnh tâm lí hoặc do ảnh hưởng của bạo lực từ cuộc sống, nghiện game và phim ảnh, mạng xã hội... • Thiếu sự quan tâm giáo dục của gia đình; sự giáo dục trong nhà trường: nặng về dạy kiến thức văn hóa, chưa thật chú trọng dạy kĩ năng sống cho học sinh. • Xã hội chưa có sự quan tâm đúng mức, chưa có những giải pháp thiết thực, đồng bộ và triệt để. - Giải pháp và liên hệ: • Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục học sinh; có biện pháp giáo dục, răn đe, xử lí vi phạm. Tuyên truyền, giáo dục về lối sống nhân ái, ý thức chấp hành luật pháp. • Bản thân ra sức học tập, hướng vào những hoạt động bổ ích; có lối sống lành mạnh, có quan điểm nhận thức hành động tích cực, đúng đắn; tích cực rèn luyện quan niệm sống tốt đẹp. Đấu tranh, tố cáo những hành vi bạo lực học đường. => Khẳng định lại những ảnh hưởng xấu của bạo lực học đường. Điều gì là quan trọng? Chuyện xảy ra tại một trường trung học. Thầy giáo giơ cao một tờ giấy trắng, trên đó có một vệt đen dài và đặt câu hỏi với học sinh: - Các em có thấy gì không? Cả phòng học vang lên câu trả lời: - Đó là một vệt đen. Thầy giáo nhận xét: - Các em trả lời không sai. Nhưng không ai nhận ra đây là một tờ giấy trắng ư? Và thầy kết luận: - Có người thường chú tâm đến những lỗi lầm nhỏ nhặt của người khác mà quên đi những phẩm chất tốt đẹp của họ. Khi phải đánh giá một sự việc hay một con người, thầy mong các em đừng quá chú trọng vào vết đen mà hãy nhìn ra tờ giấy trắng với những mảng sạch mà ta có thể viết lên đó những điều có ích cho đời. (Theo nguồn Internet) Hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em sau khi đọc câu chuyện trên a. Mở bài: - Nêu lên vấn đề cần nghị luận trong câu chuyện b. Thân bài: - Giải thích ý nghĩa câu chuyện • "vệt đen dài" tượng trưng cho những khuyết điểm, những lỗi lầm của con người. • "Tờ giấy trắng" tượng trưng cho phẩm chất, cho những điều tốt đẹp của con người. • "Đừng quá chú trọng vào vết đen": Đừng cố chấp, định kiến trước lỗi lầm, hạn chế của người khác • "Hãy nhìn ra tờ giấy trắng với những mảng sạch mà ta có thể viết lên đó những điều có ích ... cho đời": Biết trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của mỗi cá nhân -> Câu chuyện cho ta bài học về cách ứng xử, nhìn nhận đánh giá con người: Điều quan trọng trong cuộc sống chính là lối ứng xử đẹp, giàu lòng vị tha, khoan dung khi đánh giá về người khác, đồng thời phải biết trân trọng những phẩm chất, những phần tốt đẹp của họ. - Suy nghĩ về vấn đề • Đừng quá chú trọng vào "vết đen" đừng cố chấp, định kiến trước lỗi lầm, hạn chế của người khác vì: o Con người không ai hoàn hảo cả. o Sự vị tha, khoan dung mang lại niềm vui, thanh thản cho người mắc lỗi, tạo điều kiện cho họ nhận ra sai trái, sửa chữa lỗi lầm. Đồng thời, nó mang lại niềm vui cho bản thân ta (dẫn chứng).
Tài liệu đính kèm:
chuyen_de_ren_ky_nang_viet_van_nghi_luan_xa_hoi_cho_hoc_sinh.docx