Chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn 9. Phần văn học trung đại

Chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn 9. Phần văn học trung đại

* Hướng dẫn học sinh:- Xác định thể loại của bài: Nghị luận- chứng minh.

- Xác định phạm vi kiến thức: một số tác phẩm từ thế kỉ XVI -> XIX như các tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương"; "Truyện Kiều"; "Truyện Lục Vân Tiên";...

* Hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho đề văn:

a) Mở bài:

Người phụ nữ trong văn học trung đại là đề tài được khá nhiều tác giả quan tâm. Khai thác đề tài này, nhiều nhà văn, nhà thơ đã ghi tên mình vào những trang sử vàng của văn học dân tộc. Tiêu biểu cho đề tài này là các tác giả Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu (Văn học 9) và một số tác giả Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm (Văn học 7).

b) Thân bài:

- Người phụ nữ trong văn học trung đại trước hết là những người phụ nữ đẹp cả về hình thức và nhân phẩm. Nét đẹp của họ là sự tiếp nối cái đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời kì đầu dựng nước của dân tộc: Âu Cơ, Mị Nương, cô Tấm,...Nhưng ở mỗi tác phẩm, mỗi tác giả lại có cách thể hiện cái đẹp riêng của từng nhân vật khác nhau nhưng cũng rất hoàn mĩ và đặc sắc:

+ "Chuyện người con gái Nam Xương". (Nguyễn Dữ): Hình ảnh nàng Vũ Thị Thiết "thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp" đã khiến bao người đọc cảm mến. Nàng luôn hết lòng vì mẹ chồng, vì chồng, nuôi con chờ chồng chung thủy, sắt son. Vũ Nương đã giữ đúng bổn phận của người vợ, người mẹ và người con dâu trong mọi hoàn cảnh. Nguyễn Dữ đã rất trân trọng nét đẹp trong tính cách thủy chung ấy của Vũ Nương. Ông đã dành cho nàng những lời tốt đẹp nhất, cũng để cho nàng được trở về trong kiệu hoa rực rỡ, lung linh, huyền ảo ở phần cuối truyện.

doc 15 trang Mai Loan 25/08/2025 260
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn 9. Phần văn học trung đại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
 Trong các nhà trường THCS hiện nay, việc nâng cao chất lượng học sinh mũi 
nhọn đang là một vấn đề cấp bách. Với bộ môn Ngữ Văn để có một học sinh giỏi 
vòng huyện, vòng tỉnh đòi hỏi rất nhiều yếu tố. Đầu tiên yêu cầu học sinh phải có 
năng khiếu bởi vì Ngữ Văn là một môn học mang đặc trưng của một môn nghệ 
thuật, nếu không có năng khiếu thì khó có thể viết hay được. Bên cạnh yếu tố chủ 
quan đó thì kinh nghiệm, nhiệt tình của người thầy dạy văn cũng là một nguyên 
nhân khá quan trọng để giúp cho học sinh biết cách xử lí các kiến thức vào bài văn 
của mình. Chất lượng học sinh giỏi bộ môn Văn của trường THCS Nguyễn Trãi 
chúng tôi nói riêng và của huyện Tam Đảo nói chung chưa thực sự ngang tầm với 
các trường bạn, huyện bạn. Vì vậy, chúng tôi đã tổ chức một số buổi thảo luận, 
thực hiện một số các chuyên đề Hướng dẫn việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ 
Văn để chia sẻ kinh nghiệm, cùng nhau tìm ra những giải pháp phù hợp cho từng 
giáo viên.
 Văn học trung đại là một mảng văn học có nhiều giá trị xuất sắc. Trong các tác 
phẩm được trích học ở chương trình Ngữ Văn 9 thì có nhiều tác phẩm nổi tiếng 
như "Chuyện người con gái Nam Xương"; "Truyện Kiều"; "Truyện Lục Vân Tiên". 
Ngoài ra, chương trình toàn cấp cũng cung cấp cho học sinh một số văn bản trung 
đại khác. Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, chúng tôi lựa chọn một số kiến thức 
cơ bản của văn bản trung đại để ôn tập cho cho các em học sinh giỏi lớp 9 theo một 
số dạng đề cụ thể. Rất mong được sự chia sẻ của bạn bè, đồng nghiệp cho chuyên 
đề "Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn 9 –phần văn học trung đại " của 
chúng tôi.
 Dự kiến chuyên đề sẽ được hiện trong 6 tiết. Tấm,...Nhưng ở mỗi tác phẩm, mỗi tác giả lại có cách thể hiện cái đẹp riêng của 
từng nhân vật khác nhau nhưng cũng rất hoàn mĩ và đặc sắc:
 + "Chuyện người con gái Nam Xương". (Nguyễn Dữ): Hình ảnh nàng Vũ Thị 
Thiết "thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp" đã khiến bao người đọc cảm mến. Nàng 
luôn hết lòng vì mẹ chồng, vì chồng, nuôi con chờ chồng chung thủy, sắt son. Vũ 
Nương đã giữ đúng bổn phận của người vợ, người mẹ và người con dâu trong mọi 
hoàn cảnh. Nguyễn Dữ đã rất trân trọng nét đẹp trong tính cách thủy chung ấy của 
Vũ Nương. Ông đã dành cho nàng những lời tốt đẹp nhất, cũng để cho nàng được 
trở về trong kiệu hoa rực rỡ, lung linh, huyền ảo ở phần cuối truyện.
 + "Truyện Kiều" của Nguyễn Du:
Thúy Kiều, Thúy Vân là những trang tuyệt sắc giai nhân có mặt trong tác phẩm 
của Nguyễn Du. Họ là những người con gái đẹp "nghiêng nước, nghiêng thành", 
“chim sa, cá lặn”
 Vân xem trang trọng khác vời
 Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
 Hoa cười ngọc thốt đoan trang
 Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
 Kiều càng sắc sảo mặn mà
 So bề tài sắc lại là phần hơn
 Làn thu thủy, nét xuân sơn
 Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
 Nghệ thuật ước lệ, tượng trưng đã giúp Nguyễn Du thành công trong miêu tả 
vẻ đẹp của người phụ nữ. Không chỉ đẹp ở nhan sắc, Kiều còn đẹp ở tài năng: 
 Thông minh vốn sẵn tính trời
 Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
 Đủ cả tài thi, ca, nhạc, họa rồi Kiều cò đẹp ở tấm lòng hiếu thảo: 
 Hạt mưa sá nghĩ phận hèn
 Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân
 Quyết định bán mình chuộc cha là một hành động báo hiếu cao cả của người 
con gái. Và trong những ngày tháng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều vẫn luôn 
xót xa cho cha mẹ:
 Xót người tựa cửa hôm mai
 Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? => Dù được miêu tả trực tiếp hay gián tiếp, miêu tả nội tâm hay bề ngoài hình thức 
thì người phụ nữ trong các tác phẩm văn học trung đại cũng hiện lên vẻ đẹp toàn 
mĩ. Họ đã tiếp nối được nét đẹp của người phụ nữ truyền thống và là nhịp cầu nối 
với người phụ nữ hiện đại sau này. Họ hiện lên trong các trang viết của các nhà 
văn, nhà thơ thật đẹp và sinh động. Họ đã mang đến cho ngươì đọc niềm tự hào về 
người phụ nữ Việt Nam.
- Ngoài nét đẹp về hình thể và phẩm chất, người phụ nữ trong văn học trung đại 
còn có cuộc đời được phản ánh khá sinh động và chân thực trong các tác phẩm. Đó 
là những số phận éo le, ngang trái, những cuộc đời khổ đau bị chà đạp tàn nhẫn. Số 
phận của họ cũng là số phận chung cho những người phụ nữ sống dưới xã hội 
phong kiến.
 + "Chuyện người con gái Nam Xương". (Nguyễn Dữ).
 Là người đẹp người, đẹp nết nhưng Vũ Thị Thiết lại phải chịu một nỗi oan to lớn 
mà không dễ gì có thể minh oan: người chồng của Vũ Nương sau 3 năm đi lính, trở 
về anh ta không còn tin tưởng vào người vợ chỉ vì lời nói của con trẻ. Vũ Nương 
đã bị mắng nhiếc, đánh đuổi tàn nhẫn. Bi kịch " bình rơi, trâm gãy, mây tạnh, mưa 
tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió" đã đến với nàng. Đau khổ, oan trái và uất 
ức Vũ Nương đã chọn cái chết để giải thoát cho mình. Đau đớn thay một người 
phụ nữ nết na, xinh đẹp lại phải chịu một kết cục bi thảm. Đó là một bi kịch tố cáo 
xã hôi nam quyền đầy bất công đương thời.
 + "Bánh trôi nước " của Hồ Xuân Hương. 
 Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương phải chịu cuộc sống bấp bênh, lận 
đận, long đong, phụ thuộc vào người khác, không được làm chủ cuộc đời mình: 
 ...Bảy nổi ba chìm với nước non
 Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn...
 Tương lai của họ mù mịt, số phận cũng đầy éo le, trắc trở. Người phụ nữ ấy vì 
vậy luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc, tự chủ, luôn muốn tự khẳng định 
mình. Họ muốn cởi bỏ những ràng buộc của xã hội phong kiến để sống cho chính 
mình song đó mãi chỉ là ước mơ xa vời. Và phải đến nhiều thế kỉ sau người phụ nữ 
mới thực sự được sống như mong muốn của mình.
 +"Chinh phụ ngâm" –Đặng Trần Côn+ Đoàn Thi Điểm:
 Nỗi đau mà người phụ nữ trong "Chinh phụ ngâm" phải chịu đó là cảnh chia li 
với người chồng: Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang
 Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
 Bi kịch nhân phẩm bị chà đạp: Hai lần rơi vào lầu xanh, bị đánh những trận 
đòn khủng khiếp để rồi nàng phải thốt lên: 
 Thân lươn bao quản lấm đầu
 Tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa
 Bi kịch hạnh phúc gia đình tan vỡ: Kiều nhiều lần bị gả chồng nhưng rồi 
cuối cùng nàng vẫn đau khổ, cô đơn. Đau đớn nhất là cảnh:
 Giết chồng mà lại lấy chồng
 Mặt nào còn sống ở trong cõi đời
 Đau đớn về thể xác và tinh thần Kiều đã tự vẫn ở sông Tiền Đường, Két thúc 
quãng đời 15 năm lưu lạc.Số phận Kiều cũng là số phận chung của những người 
phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Nguyễn Du đã thể hiện sự cảm thông chia sẻ, xót 
xa đau đớn của mình cho Kiều cũng là thể hiện tầm lòng nhân đạo với người phụ 
nữ trong xã hội đương thời.
+ “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu.
 Hình ảnh Kiều Nguyệt Nga chính là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam những 
năm cuối thế kỉ XIX. Lúc này xã hội phong kiến có những mâu thuẫn nảy sinh nên 
cuộc sống của người phụ nữ cũng luân lạc, lao đao. Nàng Kiều Nguyệt Nga đẹp 
người, đẹp nết ấy cũng gặp hết trắc trở này đến trắc trở khác: bị cướp dọc đường 
đi, không chịu lấy con trai Thái sư nên bị đưa đi cống giặc Ô Qua, nàng đã tự vẫn 
nhưng lại dạt vào nhà Bùi Kiệm, bị Bùi Kiệm ép kết hôn, nàng phải trốn điXã 
hội phong kiến lũng loạn đã đẩy người phụ nữ vào cảnh lầm than, trôi nổi mà ước 
mơ về một cuộc sống hạnh phúc vẫn đang còn ở phía trước.
c, Kết bài:
 Với đề tài hình ảnh người phụ nữ, các tác giả văn học trung đại đã góp một 
cái nhìn cụ thể về nhiều khía cạnh của cuộc đời người phụ nữ. Họ đã làm hoàn 
chỉnh thêm tính cách tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam và phản ánh trung thực 
những đau khổ mà người phụ nữ phải gánh chịu. Dù ở thời kì nào, xã hội nào, 
người phụ nữ vẫn là người phải chịu nhiều thiệt thòi nhất. Vì vậy, đấu tranh để bảo 
vệ người phụ nữ và chia sẻ những đau khổ, mất mát của họ chính là thông điệp mà 
các nhà văn, nhà thơ đã gửi gắm vào tác phẩm của mình. Mỗi học sinh tự rút ra cho 
mình một bài học và trách nhiệm phải làm trong tương lai. Từ “thông minh” cũng là một “nhãn tự” cho toàn câu thơ, nó không chỉ 
nhằm khắc họa một tính cách mà là cả một nhân cách, một trí tuệ thiên bẩm của 
Kiều. Vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà của Kiều đã chiếm được cảm tình nơi người đọc 
nhưng cái để người đọc cảm phục nàng hơn cả là tài năng hiếm có, là trí tuệ hơn 
người. Trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du đã nhiều lần viết về tài hoa và trí tuệ theo 
kiểu ấy. Chẳng hạn như câu: “Anh minh phát tiết ra ngoài. Nghìn thu bạc mệnh 
một đời tài hoa”. Điều đó cho thấy ánh sáng trí tuệ chính là yếu tố nổi bật trong 
tài hoa của Kiều. Nó cũng khẳng định cách dùng từ độc đáo của Nguyễn Du.
 Cũng nói về tài năng của Kiều, Nguyễn Du viết:
 Khúc đà tay lựa nên chương
 Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
 Ở đây, tác giả sử dụng từ “não” rất chính xác. Nội hàm ý nghĩa của từ này 
diễn đạt nỗi buồn đã có sẵn tự trong lòng. Nó không chỉ đơn thuần là buồn, sầu, là 
những từ diễn đạt nỗi buồn trên sắc diện con người mà là “não lòng, não ruột”. 
Âm thanh của từ ngữ này dường như xoáy sâu vào tâm can người đọc. Bởi lẽ khúc 
nhạc tiêu tao của “thiên bạc mệnh ấy” đã từng khiến biết bao người rung cảm, sầu 
theo từng khúc nhạc não nề. Nó đã từng khiến cho Kim Trọng “nao nao lòng 
người”, Thúc Sinh phải “tan nát lòng” và cho cả trái tim vô tình, sắt đá của quan 
Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến cũng phải cảm thương mà “rơi châu, nhỏ lệ”. 
Cung đàn “bạc mệnh” của Kiều đã trở thành một hình tượng nghệ thuật thể hiện 
tâm hồn đa sầu, đa cảm và số phận bi thương của Kiều là vì thế. Cả câu: “Não 
nùng cữ gió tuần mưa” thì từ não cũng được dùng với nghĩa như vậy.
 Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Trích “Truyện Kiều” của 
Nguyễn Du) có câu:
 Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
 Hai chữ “khóa xuân” trong câu thơ được sử dụng thật hay và tinh tế. Kiều 
đã sống trong một tâm trạng buồn tủi, chua xót đến cực độ nàng đâu còn cơ hội 
khóa kín tuổi xuân của mình nữa. Nàng không còn giữ được chữ “trinh” với chàng 
Kim thì hai chữ “khóa xuân” lại đầy mỉa mai đối với nàng. Thực chất nàng đang bị 
Tú Bà giam lỏng để rắp tâm thực hiện một âm mưu mới.
 Trong cảnh vò võ cô đơn, trơ trọi nàng thật tội nghiệp, đáng thương. Điệp 
ngữ “buồn trông” ở cuối đoạn thơ càng cho thấy Nguyễn Du không hề vô tình khi 
đặt chữ “buồn” đứng trước chữ “trông”. “Buồn” mà “trông”, buồn rồi mới trông là 

Tài liệu đính kèm:

  • docchuyen_de_boi_duong_hoc_sinh_gioi_mon_ngu_van_9_phan_van_hoc.doc